Khác biệt giữa bản sửa đổi của “A-xà-thế”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Qbot (thảo luận | đóng góp)
n Qbot: sửa lỗi chính tả và Việt hóa
Kgsbot (thảo luận | đóng góp)
Dòng 43: Dòng 43:
[[hi:अजातशत्रु (मगध का राजा)]]
[[hi:अजातशत्रु (मगध का राजा)]]
[[it:Ajātashatru]]
[[it:Ajātashatru]]
[[ml:അജാതശത്രു]]
[[ja:アジャータシャトル]]
[[ja:アジャータシャトル]]
[[pl:Ajatashatru]]
[[pl:Ajatashatru]]

Phiên bản lúc 17:52, ngày 20 tháng 9 năm 2010

A-xà-thế được hỏa táng ở stupa của ông tại Vương-xá.

A-xà-thế (zh. 阿闍世, sa. ajātaśatru, pi. ajātasattu, bo. ma skyes dgra མ་སྐྱེས་དགྲ་) là Vua xứ Ma-kiệt-đà miền Bắc Ấn Độ (sa., pi. magadha), người trị vì trong 8 năm cuối cùng tại thế của Phật Thích-ca Mâu-ni và 22 năm kế tiếp (khoảng 491 - 461 trước Công nguyên). Ông là người giết hại vua cha Tần-bà-sa-la (sa., pi. bimbisāra) và cùng Đề-bà-đạt-đa (sa., pi. devadatta) định ám hại Đức Phật, nhưng không thành. Cuối cùng ông giác ngộ theo Phật và phụng sự đạo Phật.

Nhân duyên về tên A-xà-thế

Thái tử A-xà-thế có ba cái tên

  • A-xà-thế được dịch là “Vị sinh oán” (zh. 未生怨) - với ý kết oán trước khi sinh - là kẻ khi sinh ra được tiên đoán sẽ giết cha. A-xà-thế muốn đoạt quyền quá sớm, cùng với Đề-bà-đạt-đa âm mưu vừa giết Phật vừa giết cha. Âm mưu này bại lộ, vua Tần-bà-sa-la tha tội cho con và giao ngai vàng. A-xà-thế vẫn không yên tâm vì vua cha còn sống, nên đã hạ ngục và bỏ đói vua cha. Thấy Tần-bà-sa-la vẫn vui vẻ A-xà-thế cho người giết vua cha.
  • Bà-la-lưu-chi khi sinh thái tử ra, hoàng hậu Vi-đề-hy bồng thái tử đứng trên lầu cao, nghe mấy thầy tu đoán ân oán thái tử như vậy nên bủn rủn tay chân mà đánh rơi thái tử xuống đất hư hết một ngón tay, nên thái tử có thêm tên Bà-la-lưu-chi ( người hư một ngón tay).
  • Thiện-kiến sau đó mọi người trong hoàng tộc thấy ngẫu nhiên thái tử có những cái tên không hay bèn thống nhất gọi một cái tên khác là Thiện-kiến.

Thái tử ngỡ rằng mình chỉ có tên Thiện-kiến nhưng sau khi gặp Đề-bà-đạt-đa, ông này có ý đồ xấu nên kể căn cội hai cái tên kia cho thiện-kiến biết. Từ đó ác nghiệp bắt đầu bùng phát trong hành vi của A-xà-thế.

Nhân quả của A-xà-thế

Nguyên tiền thân A-xà-thế là một vị cao tăng vừa đắc quả tiên, gặp vua Tần-bà-sa-la đi săn thất bại nên trút giận mà lỡ tay giết vị cao tăng này. Quả vị còn thấp kém nên vị cao tăng phát oán nghiệp mà đầu thai lại trả thù. Tuy nhiên do căn tu còn đó nên cuối cùng cũng được đức Phật hoá độ.

Về sau, A-xà-thế hỏi ý kiến đức Phật có nên xâm chiếm nước Bạt-kì (pi. vajjī) hay không, một nước vốn có chính sách dân chủ. Phật cho biết Bạt-kì không bao giờ thua vì dân nước đó rất đoàn kết. Từ đó A-xà-thế coi trọng dân chủ, coi trọng Tăng-già và qua đó có phần tỉnh ngộ. Sau khi Phật nhập Niết-bàn, A-xà-thế lập một tháp thờ xá-lợi của Phật. Ông cũng là người xây dựng một giảng đường lớn trong lần Kết tập thứ nhất.

Sau khi tại vị ba mươi hai năm, ác nghiệp được chấm dứt khi A-xà-thế lại bị con giết và soán ngôi y như mình vậy.

Tham khảo

  • Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-Guang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ Điển. Phật Quang Đại Từ Điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
  • Das Lexikon der Östlichen Weisheitslehren, Bern 1986.

Bản mẫu:Đang viết Phật học

Bảng các chữ viết tắt
bo.: Bod skad བོད་སྐད་, tiếng Tây Tạng | ja.: 日本語 tiếng Nhật | ko.: 한국어, tiếng Triều Tiên |
pi.: Pāli, tiếng Pali | sa.: Sanskrit संस्कृतम्, tiếng Phạn | zh.: 中文 chữ Hán