Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nguyễn Chánh Sắt”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi
Qbot (thảo luận | đóng góp)
n Qbot: Việt hóa
Dòng 1: Dòng 1:
[[Image:Mộ Nguyễn Chánh Sắt.jpg|nhỏ|phải|200px| Phần mộ Nguyễn Chánh Sắt và vợ tại Tân Châu.]]
[[Tập tin:Mộ Nguyễn Chánh Sắt.jpg|nhỏ|phải|200px| Phần mộ Nguyễn Chánh Sắt và vợ tại Tân Châu.]]
'''Nguyễn Chánh Sắt''' ([[1869]]–[[1947]])<ref>Theo ''Tân Châu xưa'', Nguyễn Kiểm và Huỳnh Minh, NXB Thanh Niên, 2003 và ''Từ điển văn học'' (bộ mới), NXB Thế giới, 2004. Riêng bia mộ ghi sinh 1871 năm Ất Dậu, mất ngày 18 tháng 3 năm 1946, nhằm ngày 18 tháng 4 âm lịch năm Bính Tuất. Theo cách qui đổi, thì năm dương lịch và âm lịch ghi trên bia mộ không khớp nhau. Cần tìm hiểu thêm.</ref>tự ''Bá Nghiêm'', hiệu ''Tân Châu'', bút hiệu: ''Du Nhiên Tử, Vĩnh An Hà''<ref> ''Vĩnh An Hà'' là tên một con kênh đào, chạy cặp theo con lộ nhựa Tân châu - Châu Đốc.</ref>. Ông là nhà văn, nhà biên dịch và là một trong những người đầu tiên làm báo [[Quốc ngữ]] tại [[Việt Nam]].
'''Nguyễn Chánh Sắt''' ([[1869]]–[[1947]])<ref>Theo ''Tân Châu xưa'', Nguyễn Kiểm và Huỳnh Minh, NXB Thanh Niên, 2003 và ''Từ điển văn học'' (bộ mới), NXB Thế giới, 2004. Riêng bia mộ ghi sinh 1871 năm Ất Dậu, mất ngày 18 tháng 3 năm 1946, nhằm ngày 18 tháng 4 âm lịch năm Bính Tuất. Theo cách qui đổi, thì năm dương lịch và âm lịch ghi trên bia mộ không khớp nhau. Cần tìm hiểu thêm.</ref>tự ''Bá Nghiêm'', hiệu ''Tân Châu'', bút hiệu: ''Du Nhiên Tử, Vĩnh An Hà''<ref> ''Vĩnh An Hà'' là tên một con kênh đào, chạy cặp theo con lộ nhựa Tân châu - Châu Đốc.</ref>. Ông là nhà văn, nhà biên dịch và là một trong những người đầu tiên làm báo [[Quốc ngữ]] tại [[Việt Nam]].


Dòng 53: Dòng 53:
|Title =Một số nhân vật lịch sử liên quan đến [[An Giang]]
|Title =Một số nhân vật lịch sử liên quan đến [[An Giang]]
|Color =#E6E6FA
|Color =#E6E6FA
|Image =[[Image:Chân dung Nguyễn Hữu Cảnh.jpg|50px]]
|Image =[[Tập tin:Chân dung Nguyễn Hữu Cảnh.jpg|50px]]
|List =[[Nguyễn Hữu Cảnh]]&nbsp;• [[Thoại Ngọc Hầu]]&nbsp;• [[Nguyễn Văn Tuyên]]&nbsp;• [[Đoàn Minh Huyên]]&nbsp;• [[Trần Văn Thành]]&nbsp;• [[Ngô Lợi]]&nbsp;• [[Phật Trùm]]&nbsp;• [[Trần Hữu Thường]]&nbsp;• [[Nguyễn Chánh Sắt]]&nbsp;• [[Đạo Tưởng]]...
|List =[[Nguyễn Hữu Cảnh]]&nbsp;• [[Thoại Ngọc Hầu]]&nbsp;• [[Nguyễn Văn Tuyên]]&nbsp;• [[Đoàn Minh Huyên]]&nbsp;• [[Trần Văn Thành]]&nbsp;• [[Ngô Lợi]]&nbsp;• [[Phật Trùm]]&nbsp;• [[Trần Hữu Thường]]&nbsp;• [[Nguyễn Chánh Sắt]]&nbsp;• [[Đạo Tưởng]]...
|Category =
|Category =

Phiên bản lúc 21:49, ngày 22 tháng 9 năm 2010

Phần mộ Nguyễn Chánh Sắt và vợ tại Tân Châu.

Nguyễn Chánh Sắt (18691947)[1]tự Bá Nghiêm, hiệu Tân Châu, bút hiệu: Du Nhiên Tử, Vĩnh An Hà[2]. Ông là nhà văn, nhà biên dịch và là một trong những người đầu tiên làm báo Quốc ngữ tại Việt Nam.

Tiểu sử

Nguyễn Chánh Sắt, quê quán ở làng Long Phú, huyện Tân Châu, tỉnh Châu Đốc, nay thuộc thị trấn Tân Châu, huyện Tân Châu, tỉnh An Giang.[3]

Cha ông là Nguyễn Văn Tài, một nông dân nghèo. Từ thuở nhỏ, ông đến làm con nuôi ông Nguyễn Văn Bửu và bà Trần Thị Nghiêm, một gia đình khá giả trong xóm, nhưng không có con để nối nghiệp. Nhờ vậy, ông Sắt được theo học chữ Nho với thầy Trần Hữu Thường, rồi trường tiểu học Pháp - Việt Châu Đốc.

Đỗ xong bằng tiểu học Pháp – Việt, được cha nuôi cưới vợ tên là Văng Thị Yên (1872 - 1944), người cùng làng; và bà với ông đã có cả thảy 2 trai, 7 gái.

Đến khi cha mẹ nuôi đều mất. Để đủ chi tiêu, vợ ông phải ra mua bán nhỏ ở chợ Tân Châu. Trong thời gian này, Nguyễn Chánh Sắt quen thân thiếu tá người Pháp tên De Colbert, có sở Kén (nuôi tằm lấy tơ) tại Tân Châu. Làm ăn thất bại, De Colbert được nhà cầm quyền Pháp, cử làm giám đốc nhà lao Côn Lôn, và ông Sắt được mời đi theo làm thông ngôn.

Ở đảo, ông có dịp gần gũi các nhà Nho yêu nước bị lưu đày và học thêm chữ Hán. Bốn năm sau, De Colbert bị bệnh kiết lỵ phải đưa về Sài Gòn chữa trị, không khỏi rồi qua đời. Do đó Nguyễn Chánh Sắt xin nghỉ việc ở Côn Nôn, về làm việc ở các sở Canh nông, Công chánh, Ðịa chánh tại Sài Gòn, rồi chuyển sang dạy chữ Hán tại Trường trung học Tabert.

Đi dạy, ông Sắt quen ông Canavaggio rồi nhận lời xuống Bạc Liêu, trông coi việc khai thác ruộng muối cho ông này.

Năm 1990, ông Sắt trở lên Sài Gòn, cộng tác với tờ Nông cổ mín đàm và bắt đầu dịch nhiều truyện Tàu (truyện dịch đầu tiên là truyện Tây Hớn (Hán)). Năm 1906, ông làm chủ bút báo Lục tỉnh tân văn và cộng tác với Trần Chánh Chiếu lập Nam Kỳ kỹ nghệ công ty trong Hội Minh tân ở Sài Gòn - Mỹ Tho, để vừa cạnh tranh với tư bản nước ngoài, khuếch trương công nghệ trong nước, vừa bí mật ủng hộ phong trào Đông du của Phan Bội Châu. Năm 1908, Hội Minh tân đổ vỡ, Trần Chánh Chiếu bị bắt, riêng ông may mắn thoát được.

Năm 1912, Nguyễn Chánh Sắt lại xuống Bạc Liêu làm ruộng. Bị thất mùa nhiều vụ, năm 1916, ông trở lại Sài Gòn, tiếp tục làm chủ bút tờ Nông cổ mín đàm và cùng với ông Nguyễn Văn Của lập Nam Kỳ nhựt báo ái hữu hội. Trong thời gian này, ông sáng tác tiểu thuyết Nghĩa hiệp kỳ duyên (1920), mang nhiều tình tiết éo le, gay cấn nên rất lôi cuốn đông đảo độc giả; và người ta đã lấy tên một nhân vật nổi tiếng trong tiểu thuyết này, để đặt cho ông biệt danh "Monsieur Chăng Cà Mum”.

Năm 1920, nhân chuyến về thăm quê nhà, ông được nhân dân địa phương cử giữ chức hương quản xã Long Phú (thuộc Tân Châu). Năm 1921, ông được cử Phụ thẩm Tòa án Sài Gòn. Năm 1922, Canavaggio mất, ông Sắt kiêm luôn chức chủ nhiệm báo Nông cổ mín đàm.

Tuổi già, ông Sắt về ẩn dật tại quê nhà Tân Châu. Ông mất ngày 6 tháng 6 năm 1947, hưởng thọ 78 tuổi. Hiện mộ phần ông và vợ tại xã Long Phú, huyện Tân Châu, tỉnh An Giang. [4]

Sáng tác

  • Nghĩa hiệp kỳ duyên (tức Chăng Cà Mun, xã hội, 1920)
  • Gái trả thù cha (trinh thám, 1920)
  • Tình đời ấm lạnh (xã hội, 1922)
  • Tài mạng tương đố (tâm lý, 1925)
  • Lòng người nham hiểm (xã hội, 1926)
  • Giang hồ nữ hiệp (kiếm hiệp, 1928)
  • Việt Nam Lê Thái Tổ (lịch sử, 1929)
  • Một đôi hiệp khách (kiếm hiệp, 1929)
  • Trinh hiệp lưỡng nữ (kiếm hiệp, không ghi năm)...

Ngoài ra, ông còn viết một số truyện ngắn đăng trên báo Le Moniteur de province, dịch nhiều truyện Tàu, phiên âm một số sách chữ Nôm, và biên soạn sách giáo khoa "Huấn từ cách ngôn" dùng cho các trường sơ học.

Nhận xét

Phần lớn, truyện của Nguyễn Chánh Sắt đều không dài. Vốn là người có vốn Hán học sâu rộng, lại quen dịch truyện Tàu nên sáng tác của ông, chịu ảnh hưởng khá rõ thể loại này, như kết cấu theo hình thức chương hồi, câu văn còn nặng tính biền ngẫu, tính đạo lý (đề tài nghĩa hiệp, trung hiếu) đóng vai trò chủ đạo. Dù vậy, Nguyễn Chánh Sắt vẫn là một “nhà văn Nam Bộ nổi bật, có công thúc đẩy thể loại tiểu thuyết ở thời kì phôi thai tiến lên một bước.[5]

Chú thích

  1. ^ Theo Tân Châu xưa, Nguyễn Kiểm và Huỳnh Minh, NXB Thanh Niên, 2003 và Từ điển văn học (bộ mới), NXB Thế giới, 2004. Riêng bia mộ ghi sinh 1871 năm Ất Dậu, mất ngày 18 tháng 3 năm 1946, nhằm ngày 18 tháng 4 âm lịch năm Bính Tuất. Theo cách qui đổi, thì năm dương lịch và âm lịch ghi trên bia mộ không khớp nhau. Cần tìm hiểu thêm.
  2. ^ Vĩnh An Hà là tên một con kênh đào, chạy cặp theo con lộ nhựa Tân châu - Châu Đốc.
  3. ^ Vài sách trong đó có bộ Tự điển Văn học Việt Nam (bộ mới), sách đã dẫn, ghi huyện Phú Châu là nhầm lẫn. Tỉnh An Giang không có huyện Phú Châu.
  4. ^ Gần Long Đức Tự, có con đường tục gọi là Đường Chùa. Từ đầu đường vào khoảng 100 m, phía bên phải là mộ vợ chồng Nguyễn Chánh Sắt. Hai ngôi mộ nằm trên một nền đất thấp, nước tù đọng và nhiều cỏ dại. Phía góc phải ngôi mộ ông Sắt bị sạt lở một góc. Dù tên ông đã được chính quyền chọn để đặt tên một con đường khá lớn tại Tân Châu, nhưng hai ngôi mộ trông thật thiếu chăm sóc và quạnh quẽ. Chính phần đất này, vào năm 1939, là nơi xảy ra vụ việc Đạo Tưởng hô hào tín đồ nổi lên chống Pháp.
  5. ^ Theo web bachkhoatoanthu [1]

Liên kết ngoài

Một số nhân vật lịch sử liên quan đến An Giang
Nguyễn Hữu Cảnh • Thoại Ngọc Hầu • Nguyễn Văn Tuyên • Đoàn Minh Huyên • Trần Văn Thành • Ngô Lợi • Phật Trùm • Trần Hữu Thường • Nguyễn Chánh Sắt • Đạo Tưởng...