Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Sân bay quốc tế Kabul”
n robot Thêm: ps:د كابل هوايي ډګر |
n Qbot: Việt hóa |
||
Dòng 37: | Dòng 37: | ||
==Các hãng hàng không và các tuyến điểm== |
==Các hãng hàng không và các tuyến điểm== |
||
[[ |
[[Tập tin:Kabul Airport in 1969.jpg|nhỏ|250px|Sân bay Kabul năm 1969]] |
||
*[[Ariana Afghan Airlines]] (Ankara, Baku,Delhi, Dubai, Dushanbe (đang tạm ngưng), Frankfurt, Jeddah [bắt đầu mùa hè năm 2008], Islamabad, Istanbul-Atatürk, Kandahar, Tehran-Imam Khomeini (tạm ngưng), Ürümqi) |
*[[Ariana Afghan Airlines]] (Ankara, Baku,Delhi, Dubai, Dushanbe (đang tạm ngưng), Frankfurt, Jeddah [bắt đầu mùa hè năm 2008], Islamabad, Istanbul-Atatürk, Kandahar, Tehran-Imam Khomeini (tạm ngưng), Ürümqi) |
||
*[[Indian Airlines]] (Delhi) |
*[[Indian Airlines]] (Delhi) |
||
Dòng 60: | Dòng 60: | ||
*[http://www.mil.no/fol/afg/start/styrken/KAIA/ Norwegian article about the airport] {{no icon}} |
*[http://www.mil.no/fol/afg/start/styrken/KAIA/ Norwegian article about the airport] {{no icon}} |
||
[[ |
[[Thể loại:Sân bay Afghanistan]] |
||
[[ |
[[Thể loại:Kabul]] |
||
[[id:Bandar Udara Antarabangsa Kabul]] |
[[id:Bandar Udara Antarabangsa Kabul]] |
Phiên bản lúc 00:28, ngày 24 tháng 9 năm 2010
Sân bay quốc tế Kabul | |||
---|---|---|---|
Lên máy bay Ariana tại Sân bay Kabul năm 2005. | |||
| |||
Thông tin chung | |||
Kiểu sân bay | dân dụng/quân sự | ||
Chủ sở hữu | Bộ Giao thông và Hàng không dân dụng | ||
Cơ quan quản lý | Quân đội Bỉ (một bộ phận của ISAF)[1] - 1 October 2007 to 1 October 2008 | ||
Vị trí | Kabul | ||
Độ cao | 5,877 ft / 1,789 m | ||
Tọa độ | 34°33′56″B 69°12′39″Đ / 34,56556°B 69,21083°Đ | ||
Đường băng | |||
Sân bay quốc tế Kabul (IATA: KBL, ICAO: OAKB), đôi khi gọi là Sân bay Khwaja Rawash, là một sân bay nằm cách trung tâm Kabul của Afghanistan 16 km. Sân bay này được xây dựng trong thập niên 1970. Do sự cấm vận của quốc tế đối với Taliban, sân bay này bị đóng cửa. Sau khi Mỹ tấn công Afghanistan sau vụ 11 tháng 9 năm 2001 ở New York, sân bay này mở cửa trợ lại, ban đầu chỉ cho quân đội Mỹ và Lực lượng hỗ trợ an ninh quốc tế (ISAF), một lực lượng gìn giữ hòa bình do NATO chỉ huy. Sau khi Liên Hiệp Quốc dỡ bỏ cấm vận năm 2002, sân bay này được phép sử dụng cho mục đích dân dụng. Năm 2006, ở đây có 54.300 lượt chuyến.
Chính phủ Afghanistan gần đây đã chấp nhận một khoản viện trợ cả gói từ chính phủ Nhật Bản với giá trị 35 triệu đô la Mỹ để xây lại sân bay này. Một nhà ga mới sẽ được xây phục vụ khách quốc tế, nhà ga cũ sẽ dành cho khách nội địa. Hợp đồng xây dựng đã được ký với công ty xây dựng Nhật bản, nhà ga này sẽ khai trương tháng 9 năm 2008. [2]
Các hãng hàng không và các tuyến điểm
- Ariana Afghan Airlines (Ankara, Baku,Delhi, Dubai, Dushanbe (đang tạm ngưng), Frankfurt, Jeddah [bắt đầu mùa hè năm 2008], Islamabad, Istanbul-Atatürk, Kandahar, Tehran-Imam Khomeini (tạm ngưng), Ürümqi)
- Indian Airlines (Delhi)
- Iran Aseman Airlines (Mashhad)
- Kam Air (Almaty (tạm ngưng), Delhi, Dubai, Herat, Kandahar, Mashhad, Mazar-e-Sharif)
- Pakistan International Airlines (Islamabad)
- Pamir Airways (Dubai, Herat, Jeddah, Riyadh)
- Safi Airways (London-Gatwick, Dubai, Riyadh, Jeddah, Sharjah)
Xem thêm
Tham khảo
- ^ Official Không lực Na Uy website: KAIA handover
- ^ Work on terminal at Kabul Airport starts
Liên kết ngoài
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Sân bay quốc tế Kabul. |