Khác biệt giữa bản sửa đổi của “New Zealand”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
SassoBot (thảo luận | đóng góp)
BotMultichill (thảo luận | đóng góp)
Dòng 387: Dòng 387:
[[ko:뉴질랜드]]
[[ko:뉴질랜드]]
[[hy:Նոր Զելանդիա]]
[[hy:Նոր Զելանդիա]]
[[hi:न्यूज़ीलैण्ड]]
[[hsb:Nowoseelandska]]
[[hsb:Nowoseelandska]]
[[hr:Novi Zeland]]
[[hr:Novi Zeland]]
Dòng 423: Dòng 424:
[[mr:न्यू झीलँड]]
[[mr:न्यू झीलँड]]
[[arz:نيوزيلاندا]]
[[arz:نيوزيلاندا]]
[[cdo:Sĭng-să̤-làng]]
[[mn:Шинэ Зеланд]]
[[mn:Шинэ Зеланд]]
[[my:နယူးဇီလန်နိုင်ငံ]]
[[my:နယူးဇီလန်နိုင်ငံ]]

Phiên bản lúc 11:29, ngày 28 tháng 9 năm 2010

Thông tin khác
HDI?0,936
rất cao

New Zealand (phiên âm tiếng Việt: Niu Di-lân, Hán-Việt: Tân Tây Lan) là một quốc gia hải đảo nằm ở vùng Tây Nam Thái Bình Dương bao gồm hai đảo chính (tên là đảo Bắcđảo Nam) và nhiều đảo nhỏ hơn, trong số đó được biết đến nhiều nhất là đảo Stewart/Rakiura. Theo tiếng Māori bản địa, New Zealand được gọi là Aotearoa có thể dịch là "vùng đất của dải mây trắng dài". Lãnh thổ của New Zealand còn bao gồm cả quần đảo CookNiue (tự quản bằng một chính phủ liên kết tự do); Tokelau; và Ross Dependency (vùng lãnh thổ được New Zealand tuyên bố chủ quyền tại châu Nam cực).

New Zealand được biết đến nhiều vì vị trí biệt lập về mặt địa lý của quốc gia này: lãnh thổ của New Zealand nằm cách phía Tây Nam nước Úc khoảng 2.000 kilomet (1.200 dặm) băng qua biển Tasman. Các quốc gia gần New Zealand nhất là Nouvelle Calédonie về phía bắc tây-bắc, Fiji vè phía bắc và Tonga về phía bắc đông-bắc. Trong khoảng thời gian biệt lập lâu dài, tại New Zealand đã phát triển một hệ động thực vật đặc thù riêng chiếm ưu thế bởi các loài chim. Nhiều loài này đã tuyệt chủng kể từ khi con người di cư đến nơi này và mang theo các loài hữu nhũ xâm lấn.

Dân cư New Zealand phần lớn gốc người châu Âu (tiếng Māori: Pakeha) trong khi thổ dân người Maori là thiểu số đông nhất. Những người gốc Polynesia (Đa Đảo) và châu Á cũng là những nhóm thiểu số quan trọng, nhất là ở những vùng đô thị. Ngôn ngữ được sử dụng phổ biến nhất ở New Zealand là tiếng Anh.

New Zealand làm một quốc gia phát triển được xếp hạng cao trong các bảng đánh giá quốc tế về nhiều mặt, bao gồm giáo dục, tự do kinh tế, và chỉ số nhận thức tham nhũng. Các thành phố của New Zealand cũng thường xuyên có mặt trong danh sách những thành phố dễ sống nhất thế giới.

Elizabeth IINữ hoàng New Zealand, được đại diện bởi Toàn quyền. Chức vị Toàn quyền là một chức vị lễ nghi chứ không tham dự vào chính trị. Theo cách nói của người dân đây thì Nữ hoàng "reigns but does not rule", tức là Nữ hoàng "tại vị chứ không trực trị" cho nên hoàng gia Anh không tham chính. Thủ tướng cầm quyền chính trị và đứng đầu Chính phủ trong Nghị viện Tân Tây Lan, được dân cử theo kiểu dân chủ.

Nguồn gốc tên gọi

Bản đồ vào năm 1657 cho thấy bờ biể phía tây của "Nova Zeelandia"

Cho đến nay thời điểm người Māori đặt chân đến New Zealand vẫn chưa được xác định. Trước khi người châu Âu có mặt thì thổ dân Māori gọi đảo Bắc là "Te Ika a Māui" (con cá của Māui) và gọi đảo Nam là Te Wai Pounamu (nguồn nước của Pounamu) hay Te Waka o Aoraki (canoe của Aoraki).[1] Cho đến đầu thế kỷ 20, Đảo Bắc vẫn còn được gọi là Aotearoa (dịch nghĩa là "miền đất của mây trắng dài");[2] trong ngôn ngữ Māori hiện đại. Địa danh này được dùng để chỉ cả quốc gia New Zealand. Aotearoa vẫn còn được dùng phổ biến trong tiếng Anh New Zealand với cùng một nghĩa như "New Zealand", và từ này được dùng riêng hoặc cũng có thể được dùng trong cách viết trang trọng đi đôi với từ tiếng Anh để tỏ ý tôn trọng văn hóa thổ dân, ví dụ nhưng trong tên các tổ chức như "Aotearoa New Zealand".

Tên nguyên thủy mà người phương Tây gọi New Zealand là Staten Landt, vốn được nhà thám hiểm Hà Lan Abel Tasman đặt cho. Ông cũng chính là người châu Âu đầu tiên tìm ra được quần đảo này vào năm 1642. Tasman cho rằng nơi này là một phần của lục địa phía nam nối liền với phần đất liền thuộc mũi đất cực nam của châu Nam Mỹ mới được Jacob Le Maire khám phá vào năm 1615 và và đặt cho cái tên Staten Landt, có nghĩa là "Miền đất của Quốc dân Nghị hội" để vinh danh Quốc hội Hòa Lan.[3][4]

Cái tên New Zealand bắt nguồn từ những người làm bản đồ Hà Lan, họ gọi là New Zealand là Nova Zeelandia, theo tên tỉnh Zeeland của Hà Lan.[4] Không ai biết đích thực ai là người đặt ra cái tên này, nhưng nó xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1645 và có lẽ do nhà họa đồ Johan Blaeu chọn.[5] Nhà thám hiểm Anh quốc James Cook sau đó đã dùng tên tương đương tiếng Anh và địa danh "New Zealand" ra đời. Về mặt địa lý và lịch sử, New Zealand không có liên hệ gì với đảo Zealand (Sjælland) của Đan Mạch.

Mặc dù các đảo Bắc và Nam vốn đã được đặt tên từ nhiều năm nay, nhưng Ủy ban Địa lý New Zealand đã tuyên bố vào năm 2009 rằng họ chưa có cái tên chính thức nào cho những hòn đảo này. Ủy ban dự định đặt tên các hòn đảo chính thức cùng với các tên theo tiếng Māori thay thế. Một số bản đồ ban đầu đề cập đến Đảo Nam với cái tên Đảo Trung.[6] Mặc dù vài cái tên Māori vẫn đang được sử dụng, Cố vấn Ngôn ngữ Maori Erima Henare xem Te Ika-a-Māui và Te Wai Pounamu là hai cái tên có nhiều khả năng được chọn.[7]

Lịch sử

Những người định cư Polynesia

Người Māori định cư ở New Zealand đến từ Đông Polynesia, phải vượt qua những cuộc hành trình dài

New Zealand thuộc địa bàn định cư chủ yếu và rộng lớn nhất của người Polynesia. Theo những nhà nghiên cứu, người Polynesia xâm nhập và định khu vực này khoảng năm 1250–1300 sau Công Nguyên.[8] Một số nhà nghiên cứu cho rằng các làn sóng di cư đầu tiên có thể diễn ra sớm hơn trước đó nhiều vào khoảng 50–150 sau Công Nguyên nhưng nhóm người đó sau diệt vong hoặc thiên cư sang nơi khác.[1][9][10] Nhiều thế kỷ sau đó, dân Polynesia ở New Zealand đã phát triển một nền văn hóa riêng biệt được biết đến ngày nay dưới cái tên Māori. Cư dân trên đảo được chia làm hai nhóm iwi (bộ lạc) và hapū (phân tộc) có mối quan hệ thay đổi, khi thì hợp tác, khi cạnh tranh và có khi là giao tranh. Sau đó một nhóm Māori di cư đến quần đảo Chatham và lập ra một nền văn hóa riêng biệt nữa có tên Moriori.[11][12]

Những nhà thám hiểm châu Âu

Người châu Âu đầu tiên sử sách ghi nhận đã đặt chân đến New Zealand là nhà thám hiểm người Hà Lan Abel Janszoon Tasman cùng với thủy thủ đoàn của ông vào năm 1642.[13] Trong cuộc chạm trán với thổ dân Māori, một số thủy thủ Âu châu trong đoàn của Tasman bị giết. Tasman liền sai nhổ neo rời New Zealand và không trở lại nữa. Bẵng một thời gian dài hơn 300 năm New Zealand hoàn toàn vắng bóng người Âu châu cho đến khi nhà thám hiểm người Anh James Cook trong những chuyến hành trình ở miền nam Thái Bình Dương khoảng 1768-71 cặp bến vào New Zealand.[13] Cook đến New Zealand lần đầu vào năm 1769 và vẽ địa đồ hầu hết bờ biển của quần đảo. Sau Cook là vô số thương thuyền và ngư thuyền từ châu Âu và Bắc Mỹ ghé New Zealand để đánh bắt cá voi hoặc hải cẩu. Họ trao đổi với thổ dân các hàng hóa và thực phẩm châu Âu, và đặc biệt là dụng cụ và vũ khí kim loại để đổi lấy gỗ, lương thực, và các món hàng khác của người Māori. Sự giao lưu còn ghi nhận có cả tệ nạn mua dâm.[14]

Với sự xâm nhập của người Âu châu, New Zealand tiếp thu một số các mặt hàng quan trọng, trong đó cókhoai tâysúng hỏa mai. Hai món hàng này tác động mạnh đến lối canh tác cây lương thực và tổ chức xã hội của thổ dân Māori vì sau đó xảy ra những cuộc xung đột bằng hỏa pháo giữa các bộ lạc trên đảo.

Về mặt văn hóa bắt đầu vào thế kỷ 19, mặc dù lúc đầu đã gặp nhiều chống đối từ dân bản xứ, các nhà truyền giáo đạo Cơ Đốc dần hoạt động ngày càng mạnh ở New Zealand và truyền đạo Thiên Chúa cho thổ dân Māori. Dân theo đạo thì ngày càng đông biến đổi sắc thái văn hóa Māori.[15]

Tập tin:Waitangi Treaty-1-.jpg
Buỗi lễ ký kết Hiệp ước Waitangi.

Trước cảnh dân Âu châu nhập cư đông đảo và thiếu trật tự gây xáo trộn đến xã hội thổ dân, lại thêm mối đe dọa và tham vọng lãnh thổ của người Pháp dòm ngó vùng Thái Bình Dương, chính phủ Anh liền phái William Hobson đến New Zealand để khẳng định chủ quyền của Anh và tìm cách thương lượng một thỏa thuận chính trị với người Māori.[i] Kết quả là Hiệp ước Waitangi ký tại Bay of Islands vào ngày 6 tháng 2, 1840.[16] Vì việc thảo hiệp ước có phần vội vã nên văn bản tiếng Anhtiếng Māori có nhiều điểm bất nhất trong cách dịch thuật, gây ra nhầm lẫn trong việc thi hành. Dù vậy Hiệp ước Waitangi vẫn được xem là nền tảng khai sinh ra xứ New Zealand và nó vẫn được viện dẫn là văn bản pháp lý bảo đảm quyền lợi của người Māori.

Tình thế trở nên rối ren khi Hobson, với tư cách là Phó Toàn Quyền, ban hành hai bản tuyên cáo trên Công báo Quảng cáo và Vịnh Quần đảo New Zealand ngày 19 tháng 6, 1840. Bản thông cáo đầu tiên "khẳng định trên miền đất được Khám phá [nhấn mạnh], Chủ quyền của Nữ hoàng Tối cao đối với quần đảo Nam thuộc New Zealand, thường được gọi là 'Đảo Trung' (Đảo Nam) và 'Đảo Stewart' (đảo Stewart/Rakiura); và Đảo, thường được gọi là 'Đảo Bắc', đã được nhượng lại cho Nữ hoàng Tối cao." Bản thông cáo thứ hai miêu tả quá trình xác lập chủ quyền của của Nữ hoàng trên "Đảo Bắc" đã được nhượng lại qua hiệp ước ký vào tháng 2.[17]

Dưới chế độ cai trị của người Anh, New Zealand ban đầu là một phần của thuộc địa New South Wales, nhưng sau đó trở thành một thuộc địa riêng biệt vào năm 1841.[16] Lúc đầu, Okiato được Hobson chọn là thủ đô của thuộc địa vào năm 1840, trước khi chuyển nơi làm việc của chính phủ đến Auckland vào năm 1841. Số lượng người Anh định cư ở New Zealand đặc biệt tăng lên. Ban đầu, người Māori buôn bán thuận lợi với 'Pakeha', tên người Māori gọi người châu Âu, và nhiều iwi trở nên giàu có. Khi số lượng người định cư mới đến tăng lên, xung đột về đất đai đã nổ ra dẫn tới Chiến tranh đất đai New Zealand vào thập niên 1860 và 1870, kết quả là phần lớn đất của người Māori rơi vào tay người phương Tây.[18] Các chi tiết về sự định cư của người Âu và sự từ bỏ đất đai của người Māori vẫn còn là một chủ đề gây tranh cãi.

Gustavus von Tempsky bị bắn trong chiến tranh đất đai

Một chính phủ đại diện cho thuộc địa được thành lập vào năm 1852 khi Vương Quốc Anh thông qua Đạo luật Hiến pháp New Zealand 1852. Quốc hội New Zealand lần thứ nhứt họp vào năm 1854. Năm 1856 chính quyền thuộc địa đã có thể quản lý hiệu quả và giải quyết suôn sẻ mọi vấn đề trong lãnh thổ hơn là chính sách đối với người bản xứ. Quyền lực trên phương diện này đã được chuyển giao cho chính quyền thuộc địa vào thập niên 1860.[16]

Năm 1863 Thủ Tướng Alfred Domett đi đến một quyết định rằng thủ đô sẽ được dời đến một nơi trong eo biển Cook, rõ ràng nguyên nhân là do mối quan ngại rằng Đảo Nam sẽ tách ra thành một thuộc địa riêng biệt. Những nhà truyền giáo đến từ Úc (được chọn vì vị thế trung lập của họ) đưa ra lời khuyên rằng Wellington là nơi thích hợp để đặt chính quyền do vị trí trung tâm và hải cảng ở đây, sau đó quốc hội đã chính thức dời đến nơi này lần đầu tiên vào năm 1865.[19] Năm 1893, New Zealand trở thành quốc gia đầu tiên trên thế giới công nhận quyền bầu cử của phụ nữ.[16]

Thế kỷ 20

Năm 1907 New Zealand trở thành một lãnh thổ bán tự trị của Đế quốc Anh, và là một quốc gia Thịnh vượng chung độc lập vào năm 1947 khi Đạo luật Westminster 1931 được chấp thuận,[16] mặc dù trên thực tế ảnh hưởng của người Anh lên việc điều hành New Zealand vẫn tồn tại một thời gian dài sau đó. Khi quốc gia này ngày càng trở nên độc lập về mặt chính trị, tuy nhiên, trên bình diện kinh tế, nó lại trở nên phụ thuộc; vào thập niên 1890, công nghệ đóng tàu làm lạnh cho phép xuất khẩu thịt và bơ sữa sang Anh, mối liên hệ thương mại này đã mang đến sự phát triển nền tảng cho nền kinh tế New Zealand.[20]

Lính bộ binh thuộc Tiểu đoàn 2, Trung đoàn Auckland trong Trận Somme, tháng 9, 1916.

New Zealand là một thành viên tích cực trong Đế quốc Anh, nước này tham chiến cùng quân đội Anh trong các cuộc chiến như chiến tranh Boer lần 2, Thế chiến I và Thế chiến II, đặc biệt là trong Trận đánh nước Anh, ngoài ra nước này còn ủng hộ Anh trong Khủng hoảng Suez. Quốc gia này đóng góp một phần quan trọng vào nền kinh tế thế giới và đã phải gánh chịu những ảnh hưởng nặng nề của cuộc Đại Suy thoái trong thập niên 1930. Cuộc suy thoái đã dẫn đến việc chính phủ lao động đầu tiên được bầu, vốn sau đó đã xây dựng được một nhà nước phúc lợi và một nền kinh tế mang nặng tính bảo hộ mậu dịch.

Cờ Tino rangatiratanga (chủ quyền của Māori)

New Zealand trải qua một thời kỳ phát triển thịnh vượng sau Thế chiến II. Tuy nhiên, một số vấn đề xã hội vẫn còn tồn tại và chưa được giải quyết thỏa đáng; người Māori đã bắt đầu rời bỏ lối sống truyền thống ở nông thôn và chuyển tới cách thành phố để tìm việc. Một phong trào phản đối của người Māori cuối cùng đã xảy ra, để phản đối chủ nghĩa trọng Âu và nhằm tìm kiếm sự công nhận xứng đáng đối với văn hóa Māori và Hiệp ước Waitangi, vốn từ lâu đã bị phớt lờ.

Năm 1975, Phiên tòa Waitangi được mở nhằm điều tra những cáo buộc vi phạm Hiệp ước, và phiên tòa này đã tạo điều kiện chi việc điều tra những bất hòa trong lịch sử vào năm 1985. Cùng với các quốc gia phát triển khác, sự phát triển về mặt xã hội trong thập niên 1970 luôn đi đôi cả sự thay đổi về mặt chính trị.

Tư cách thành viên của nước Anh trong Cộng đồng Kinh tế châu Âu được thực thi vào năm 1973 đã giúp cho các nhà xuất khẩu New Zealand hạn chế được nhiều rào cản để thâm nhập vào các thị trường lớn trước đây của họ. Sự kiện trên và cuộc khủng hoảng năng lượng thập niên 1970 đã dẫn đến những thay đổi quan trọng về mặt kinh tế và xã hội trong suốt thập niên 1980 dưới sự điều hành từ chính phủ lao động thứ tư lãnh đạo bởi Bộ trưởng Tài chính Roger Douglas, người mà các chính sách được biết đến với cái tên Rogernomics.

Chính trị

Chính phủ

Elizabeth II, Nữ hoàng của New Zealand
Toàn Quyền New Zealand, ông Anand Satyanand
Thủ tướng John Key

New Zealand là một quốc gia quân chủ lập hiến với một thể chế đại nghị.[21] Mặc dù không có một hiến pháp được hệ thống hóa, Đạo luật Hiếp pháp năm 1986 đã tuyên bố những cấu trúc cơ bản của hiến pháp New Zealand.[22] Hiến pháp của New Zealand được miêu tả với đặc điểm là "phần lớn vẫn là các quy tắc bất thành văn" và là một "hỗn hợp của các đạo luật và thỏa ước hiến pháp."[22] Nữ Hoàng Elizabeth II là nguyên thủ quốc gia và được mang tước hiệu là Nữ Hoàng của New Zealand thông qua Đạo luật Tước hiệu Hoàng gia năm 1974. Bà được đại diện bởi một Toàn quyền, vốn được bổ nhiệm dựa trên sự đề cử từ Thủ Tướng.[23] Vị Toàn quyền hiện tại là Anand Satyanand.

Toàn quyền có nhiệm vụ thi hành các đặc quyền của Hoàng Gia, như quyền chỉ định và bãi nhiệm Thủ tướng và giải tán Quốc hội, và trong những trường hợp hiếm hoi là quyền dự phòng. Toàn Quyền cũng tham dự trong Hội đồng Hành pháp, vốn là một hội đồng chính thức bao gồm tất cả bộ trưởng trong chính phủ Hoàng gia. Chức năng chính của Toàn quyền theo hiến pháp là "dàn xếp để các lãnh đạo các đảng chính trị chính thành lập chính phủ"; bằng các thỏa ước hiến pháp, Toàn quyền "hoạt động dựa vào lời khuyên của các bộ trưởng giành được nhiều sự ủng hộ trong Quốc Hội."[22] Quyền lập pháp nằm trong tay Quốc Hội New Zealand được bầu cử dân chủ, và phần còn lại của nội các. Nữ Hoàng và Toàn Quyền không thể thực thi quyền lực của mình một cách bình thường nếu không được nội các tham vấn, ngoại trừ các trường hợp mà chính phủ không còn nội các hoặc nội các bị mất sự tín nhiệm của Quốc Hội.[24]

Thành viên của Hội đồng Hành pháp phải là Thành viên của Quốc hội, và phần lớn trong số đó nằm trong thành phần nội các. Nội các là cơ quan đưa ra những chính sách quan trọng được lãnh đạo bởi Thủ tướng, người mà được chọn ra từ những người đứng đầu đảng cầm quyền hay liên minh giữa các đảng nắm đa số trong Quốc Hội. Đây là cơ chế quyền lực cao nhất của chính phủ.[22]

Quốc hội New Zealand theo thể chế đơn viện là Viện Dân biểu New Zealand, bao gồm 120 thành viên.[22]

Cuộc bầu cử Quốc hội được tổ chức mỗi ba năm một lần dưới dạng đại diện tỷ lệ gọi là Thành viên Tỉ lệ Hỗn hợp. Tờ tạp chí Economist giải thích:

Dưới dạng Thành viên Tỉ lệ Hỗn hợp thường có 120 ghế trong quốc hộit; một ghế phụ thểm thỉnh thoảng có thể được thêm vào nhằm đảm bảo sự đại diện tỉ lệ. Trong tổng số các ghế tại quốc hội, có 65 ghế (được bầu chọn trực tiếp bởi cử tri) được thay thế cho các thành viên cũ, bao gồm cả 7 ghế dành cho người bản địa Māori. Còn 55 ghế được phân bổ sao cho tương ứng với tỉ lệ ủng hộ mà người dân dành cho mỗi đảng (bầu cử đảng). Dưới hệ thống thành viên tỉ lệ hỗn hợp, một đảng có thể đạt được ghế trực tiếp từ cử tri hoặc có được hơn 5% tổng số phiếu bầu các đảng để có được ghế đại diện trong quốc hội. Chính phủ có thể tiếp tục lãnh đạo đất nước chỉ khi đảng cầm quyền giành được đa số ủng hộ tại Quốc hội, hay có thể đảm bảo thế đa số qua việc liên kết với các đảng chính trị khác để vượt qua cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm và lập pháp tại quốc hội.

— [22]

Cuộc tổng tuyển cử năm 2008 đã làm phát sinh thêm hai ghế phụ thêm, dành cho Đảng Māori, vì lý do đảng này giành được nhiều ghế từ phía cử tri hơn số tỉ lệ số ghế trước đó đảng nắm giữ.[22]

Từ tháng 10, 2005 đến tháng 11, 2008, chính phủ do Đảng Lao động lãnh đạo được thành lập trên liên minh với Đảng Cấp tiến, với Jim Anderton là thành viên duy nhất nằm trong quốc hội. Ngoài ra, đảng New Zealand FirstUnited Future cũng đóng góp phần tính nhiệm và ủng hộ của họ cho đảng cầm quyền để đáp lại việc người của hai đảng này được nắm giữ các chức bộ trưởng không thuộc nội các. Ngoài ra đảng cầm quyền còn lập thỏa ước với Đảng Xanh để đảng này không bỏ phiếu bất tín nhiệm và ủng hộ chính phủ.[25] Năm 2007, đảng Lao động vận động bỏ phiếu bằng ủy quyền cho một cựu thành viên của đảng là Taito Phillip Field. Những cuộc dàn xếp này nhằm đảm bảo cho đảng một thế đa số vững chắc trong các cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm tại quốc hội.

Đảng Lao động bị Đảng Quốc gia New Zealand đáng bại trong cuộc tổng tuyển cử ngày 8 tháng 11, 2008. Theo sau chiến thắng, lãnh đạo đảng Quốc gia John Key nhanh chóng thành lập chính phủ mới, thông qua các thỏa thuận liên minh với các đảng cánh hữu đảng ACT, lãnh đạo bởi Rodney Hide, đảng chủ trương ôn hòa United Future mặc dù đảng này chỉ có một ghế duy nhất của người đứng đầu Peter Dunne, và Đảng Māori, do Tariana TuriaPita Sharples lãnh đạo. Mỗi vị lãnh đạo các đảo liên minh nắm giữ một vị trí bộ trưởng không thuộc nội các.[26] Còn lại là ba đảng ở phe đối lập với chính phủ: Đảng Lao động New Zealand, đứng đầu là Phil Goff; Đảng Xanh của Aotearoa New Zealand, đồng lãnh đạo bởi Metiria TureiRussel Norman, cuối cùng là Đảng Cấp tiến New Zealand, do Jim Anderton đứng đầu.

Tòa nhà "Beehive" của chính phủ New ZealandTòa nhà Quốc hội, ở Wellington

Tòa án có thẩm quyền cao nhất ở New Zealand là Tòa án Tối cao New Zealand, được lập vào năm 2004 theo sau việc thông qua Đạo luật Tòa án Tối cao năm 2003. Đạo luật đã bãi bỏ việc kháng cáo lên Hội đồng Cơ mật tại Luân Đôn.[22] Chánh án hiện tại là ông Dame Sian Elias. Bộ máy tư pháp New Zealand cũng bao gồm Tòa Thượng thẩm; Tòa án Tối cao, có nhiệm vụ giải quyết các tội ác nghiêm trọng, các vụ việc dân sự the ở cấp xét xử và các kháng cáo từ các tòa án ở cấp thấp hơn.

Trong khi Tòa án thỉnh thoảng có thể giới hạn hiệu lực của các đạo luật được Quốc hội thông qua, bản Tuyên ngôn Nhân quyền năm 1990 của New Zealand cho phép việc xem xét lại hoạt động hành pháp của Tòa án, và chưa có một văn bản chính thức nào đảm bảo quyền thực thi việc này.[22] Theo hiến pháp, đây chính là cơ chế làm cho tòa án độc lập đối với Quốc hội, nó được duy trì bởi sự bổ nhiệm không theo đảng phái và theo các luật lệ khắt khe về thời gian tại nhiệm.[22]

New Zealand là đất nước duy nhất trên thế giới mà tất cả các chức vụ cao cấp nhất trong chính phủ đều do phụ nữ nắm giữ: (Nữ hoàng) Elizabeth II, (Toàn quyền) Dame Silvia Cartwright, (Thủ Tướng) Helen Clark, (Chủ tịch Viện dân biểu New Zealand) Margaret Wilson và (Chánh án) Dame Sian Elias, tất cả đều tại nhiệm trong khoảng thời gian giữ tháng 3, 2005 và tháng 8, 2006.[27] Công ty được niêm yết lớn nhất New Zealand là Telecom New Zealand, có một người phụ nữ là – Theresa Gattung – nắm giữ chức giám đốc điều hành cho tại thời điểm hiện tại.

Quan hệ đối ngoại và quân sự

New Zealand là quốc gia luôn đi đầu trong việc bảo vệ môi trường, quyền con người và thương mại tự do, đặc biệt là nông nghiệp. New Zealand là một thành viên của Khối Thịnh vượng chung Anh, OECD, Các Hiệp định Phòng thủ Năm bên, APEC, Hội nghị cấp cao Đông Á, và Liên hiệp quốc. New Zealand tham gia vào một số thỏa thuận thương mại tự do, trong đó quan trọng nhất phải kể đến là Thỏa thuận thương mại tự do New Zealand – Trung QuốcHiệp định Quan hệ Kinh tế Mật thiết hơn với Australia.

2007 ANZAC Dawn Service ở Wellington. Từ trái sang phải là cờ của New Zealand, Anh Quốc và Australia.

Trong một trăm năm tồn tại đầu tiên của mình, chính sách đối ngoại của New Zealand phụ thuộc vào Vương quốc Anh. Trong sự kiện tuyên chiến với Đức ngày 3 tháng 9, 1939, Thủ Tướng Michael Savage đã tuyên bố, "Nơi nào nước Anh đi, chúng ta đi; Nơi nào nước Anh dừng chân, chúng ta dừng chân."[28]

Trải qua hai cuộc đại chiến thế giới, đánh dấu sự tác động với New Zealand bằng việc nhiều thanh niên nước này hi sinh tại nhiều nơi như Gallipoli (nơi mà truyền thống ANZAC được hình thành với Australia), Crete, El AlameinCassino. New Zealand cũng đóng góp công sức quan trọng cùng với Anh quốc trong hai trận đánh nổi tiếng: Trận sông PlateTrận đánh nước Anh trên không. Còn tại mặt trận Thái Bình Duơng trong Thế chiến II, Hoa Kỳ có hơn 400.000 nhân viên quân sự đồn trú tại New Zealand để chuẩn bị cho các trận đánh quan trọng như Tarawa, Guadalcanal, SaipanIwo Jima.

Sau chiến tranh, Hoa Kỳ gia tăng ảnh hưởng của mình lên văn hóa của đất nước này và người New Zealand nhận thức rõ hơn về vị thế của một quốc gia đang hình thành. New Zealand gia nhập cùng với Astralia và Hoa Kỳ vào hiệp ước phòng thủ chung ANZUS vào năm 1951, và sau đó nước này đã sát cánh với Hoa Kỳ trong cả hai cuộc chiến tranh Triều TiênViệt Nam. Ngược lại, về phía Anh quốc lại trở nên chú trọng vào các vấn đề châu Âu theo sau Khủng hoảng Suez, và New Zealand buộc phải phát triển nền kinh tế mới để có thể gia nhập cùng với Vương quốc Anh vào Cộng đồng châu Âu vào năm 1973.[29]

Tòa nhà New Zealand nơi đặt Cao ủy New Zealand ở Luân Đôn

New Zealand có quan hệ truyền thống gần gũi với Australia, và hai nước vốn có chính sách đối ngoại khá tương đồng. Mối quan hệ gần gũi này được xác lập tại Trận đánh Gallipoli và là một phần của tinh thần ANZAC, vốn là truyền thống vững chắc ở cả hai quốc gia. Về phía các quốc gia thuộc quần đảo Thái Bình Duơng như Tây Samoa lại đi theo đường lối New Zealand. Ảnh hưởng của Hoa Kỳ đối với New Zealand đã giảm sau cuộc thất trận ở Việt Nam; vụ chìm tàu Rainbow Warrior do Pháp gài đặc công trong khi Anh cũng như Hoa Kỳ không lên án mạnh đủ để bảo vệ quyền lợi của New Zealand. Ngoài ra bất đồng về thương mại, nông nghiệp, môi trường và chính sách phi hạt nhân New Zealand cũng là những điểm xung khắc giữa Hoa Kỳ và New Zealand.

Trong khi hiệp ước ANZUS được thực hiện đầy đủ giữa các bên Australia, New Zealand và Hoa Kỳ, thì vào tháng 2, 1985, New Zealand từ chối cho các tàu chạy bằng năng lượng hạt nhân hay được vũ trang bằng vũ khí hạt nhân được phép cập cảng nước này. New Zealand đã trở thành quốc gia đầu tiên thuộc khối đồng minh phương Tây nằm trong Vùng phi hạt nhân vào tháng 6, năm 1987.[30][31][32] Năm 1986, Hoa Kỳ loan báo rằng đang đình chỉ nghĩa vụ an ninh trong hiệp ước đối với New Zealand cho đến khi nào quyền được sử dụng các cảng của nước này được khôi phục.

Đạo luật Giải trừ, Kiểm soát vũ khí, Phi hạt nhân New Zealand năm 1987 đã ngăn chặn việc triển khai vũ khí hạt nhân trên lãnh thổ New Zealand và ngăn không cho các tàu có trang bị vũ khí hạt nhân được quyền vào vùng lãnh hải nước này. Đạo luật này vẫn là nguyên nhân chính gây nên mối bất hòa giữa Hoa Kỳ và New Zealand, dẫn tới việc các nghĩa vụ trong hiệp ước phòng thủ chung của nước này bị Hoa Kỳ đình chỉ.

HMNZS Canterbury là một tàu chiến đấu đa chức năng của Hải quân Hoàng gia New Zealand.

Trước khi có sự hiện diện của người châu Âu, đã có các cuộc chiến khác nhau giữa các bộ lạc ở New Zealand, và sau đó là giữa người định cư Anh quốc và các bộ lạc bản địa. Lịch sử cận đại của New Zealand đánh dấu bằng các cuộc chiến của Anh quốc có sự tham gia của New Zealanh như Chiến tranh Boer lần hai, Thế chiến thứ nhất, Thế chiến thứ hai, Chiến tranh Triều Tiên, Khủng hoảng Mã Lai (trong đó New Zealand đã gửi binh lính, máy bay tiêm kích và ném bom theo sau cuộc đối đầu trước đó với Indonesia), Chiến tranh Việt Nam, Chiến tranh Vùng vịnhChiến tranh Afghanistan. Nước này cũng gửi một đơn vị kỹ sư quân sự để giúp tái thiết cơ sở hạ tầng Iraq với thời hạn một năm trong chiến tranh Iraq. Vào tháng 10, 2009, lực lượng New Zealand vẫn tiếp tục hoạt động ở Afghanistan.[33]

Lực lượng Phòng thủ New Zealand có ba nhánh: Lục quân New Zealand, Hải quân Hoàng gia New ZealandKhông lực Hoàng gia New Zealand. New Zealand coi lực lượng phòng thủ quốc gia cần phải tinh giảm; hạn chế khả năng chiến đấu trên không vào năm 2001. Lực lượng gìn giữ hòa bình của New Zealand đã tham gia vào nhiều nhiệm vụ của Liên hiệp quốc, bao gồm tại Cyprus, Somalia, Bosnia và Herzegovina, Sinai, Angola, Cambodia, biên giới Iran/Iraq, Bougainville, Đông Timor, và Quần đảo Solomon.[34]

Chính phủ địa phương và lãnh thổ thuộc New Zealand

Các thành phố và thị trấn chính ở New Zealand

Những người định cư châu Âu đầu tiên phân chia New Zealand làm hai tỉnh. Việc phân chia này bị bãi bỏ vào năm 1876 nhằm mục đích tập trung chính quyền để giải quyết các vấn đề tài chính. Kết quả là New Zealand không có các phân cấp hành chính đại diện riêng biệt như tỉnh, bang hay lãnh thổ, ngoài chính quyền địa phương. Tuy nhiên tinh thần địa phương của người dân vẫn tồn tại, và được thể hiện quan sự tranh tài gay gắt trong các sự kiện thể thao, văn hóa. Kể từ năm 1876, chính quyền địa phương đã quản lý nhiều vùng khác nhau của New Zealand.

Năm 1989, chính phủ nước này hoàn tất việc tái tổ chức chính quyền địa phuơng, đưa vào hoạt động hai cơ cấu có liên hệ chặt chẽ là hội đồng vùngchính quyền lãnh thổ theo Luật Chính phủ Địa phương 2002. Luật Quản lý Tài nguyên 1991 đã thay thế Luật Thị trấn và Nông thôn như là văn bản lập pháp chính cho các chính phủ địa phương.

New Zealand có 12 hội đồng vùng có chức năng quản lý các vấn đề môi trường và giao thông, 73 chính quyền lãnh thổ quản lý đường sá, hệ thống thoát nước, thỏa ước nhà đất và các vấn đề địa phương khác. Chính quyền lãnh thổ bao gồm 16 hội đồng thành phố, 57 hội đồng quận, và Hội đồng Quần đảo Chatham.

Bốn hội đồng lãnh thổ (một thành phố và ba quận) và hội đồng quần đảo Chatham cũng thực hiện chức năng của hội đồng vùng và được biết như là các chính quyền đơn nguyên. Các chính quyền quận không phải là phân cấp hành chính dưới của hội đồng vùng quận, and a few of them straddle regional council boundaries.

Realm of New Zealand

The regions are (asterisks denote unitary authorities): Northland, Auckland, Waikato, Bay of Plenty, Gisborne*, Hawke's Bay, Taranaki, Manawatu-Wanganui, Wellington, Marlborough*, Tasman*, Nelson*, West Coast, Canterbury, Otago, Southland, Chatham Islands*.

As a major South Pacific nation, New Zealand has a close working relationship with many Pacific Island nations, and continues a political association with the Cook Islands, Niue and Tokelau. New Zealand operates Scott Base in its Antarctic territory, the Ross Dependency. Other countries also use Christchurch to support their Antarctic bases and the city is sometimes known as the "Gateway to Antarctica".

Nhân khẩu học

Tỉ lệ sinh, tuổi thọ (kỳ vọng sống), tỉ lệ trẻ em chết
2005–2010 2010–2015 2015–2020 2020–2025 2045–2050
Tỉ lệ sinh (số trẻ trên một phụ nữ) &00000000000000020200002,02 &00000000000000020200002,02 &00000000000000019500001,95 &00000000000000018799991,88 &00000000000000018500001,85
Tuổi thọ trung bình theo số năm sống &000000000000008000000080 &000000000000008100000081 &000000000000008200000082 &000000000000008200000082 &000000000000008500000085
Tỉ lệ trẻ em chết trên 1.000 trẻ được sinh ra &00000000000000045999994,6 &00000000000000042000004,2 &00000000000000038999993,9 &00000000000000037000003,7 &00000000000000027000002,7

Chú thích: Các năm được tính tròn. Nguồn: Liên hiệp Quốc.[35]

Chú thích

  1. ^ a b Mein Smith (2005) tr 6. Lỗi chú thích: Thẻ <ref> không hợp lệ: tên “MeinSmith6” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác
  2. ^ King (2003) tr 41.
  3. ^ The Discovery of New Zealand
  4. ^ a b Wilson, John (21 tháng 9 năm 2007). “Tasman's achievement”. Te Ara – the Encyclopedia of New Zealand. Truy cập ngày 16 tháng 2 năm 2008.
  5. ^ Mackay (1986) pg 52–54.
  6. ^ http://www.nzetc.org/tm/scholarly/BruJour-fig-BruJour_P001a.html
  7. ^ Isaac Davison, North and South Islands officially nameless, New Zealand Herald, 22 April 2009. Accessed 22 April 2009.
  8. ^ Irwin, Geoff (4 tháng 3 năm 2009). “When was New Zealand first settled? – The date debate”. Te Ara Encyclopedia of New Zealand. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2010. Đã bỏ qua tham số không rõ |coauthors= (gợi ý |author=) (trợ giúp)
  9. ^ Lowe, David J. (2008). Lowe, David J. (biên tập). Guidebook for Pre-conference North Island Field Trip A1 ‘Ashes and Issues’ (28–30 November 2008). Australian and New Zealand 4th Joint Soils Conference, Massey University, Palmerston North (1–5 December 2008) (PDF). New Zealand Society of Soil Science. tr. 142–147. ISBN 978-0-473-14476-0. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2010.
  10. ^ Sutton et al. (2008), pg 109. "This paper ... affirms the Long Chronology [first settlement up to 2000 years BP], recognizing it as the most plausible hypothesis."
  11. ^ Clark (1994) pg 123–135
  12. ^ Davis, Denise (11 tháng 9 năm 2007). “The impact of new arrivals”. Te Ara Encyclopedia of New Zealand. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2010.
  13. ^ a b Mein Smith (2005), pg 23.
  14. ^ King (2003) pg 122.
  15. ^ Peggy Brock, ed. Indigenous Peoples and Religious Change. Leiden: Brill, 2005. ISBN 978-90-04-13899-5. pages 67–69
  16. ^ a b c d e Political and constitutional timeline, New Zealand History online, Ministry for Culture and Heritage. Updated 6 December 2009. Retrieved 30 April 2010.
  17. ^ “New Zealand Advertiser and Bay Of Islands Gazette, 19 June 1840”. Hocken Library. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2010.
  18. ^ New Zealand's 19th-century wars – overview, New Zealand History online, Ministry for Culture and Heritage. Updated 29-Apr-2009. Retrieved 30 April 2010.
  19. ^ Temple, Phillip (1980). Wellington Yesterday. ISBN 0868680125. Referenced in WellingtonNZ.com's Wellington Media Pack. Retrieved 30 April 2010.
  20. ^ Hugh Stringleman and Robert Peden. Sheep farming – Growth of the frozen meat trade, 1882–2001, Te Ara – the Encyclopedia of New Zealand. Ministry for Culture and Heritage. Updated 20 October 2009. Retrieved 6 May 2010.
  21. ^ “Queen and New Zealand”. The British Monarchy. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2000. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |accessdate= (trợ giúp)
  22. ^ a b c d e f g h i j The Economist Intelligence Unit (15 tháng 2 năm 2005). “Factsheet – New Zealand – Political Forces”. The Economist. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2009.
  23. ^ “The Queen's role in New Zealand”. The British Monarchy. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2000. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |accessdate= (trợ giúp)
  24. ^ “The Reserve Powers”. The Governor-General of New Zealand. Truy cập ngày 9 tháng 7 năm 2009.
  25. ^ Full coverage: Labour Forms 3rd Term Govt, scoop.co.nz, 20 October 2005. Retrieved 29 April 2010.
  26. ^ Key announces shape of new National-led government, National Business Review, 16 November 2008. Retrieved 29 April 2010.
  27. ^ Election of Speaker, Hansard, 3 March 2005. Quote from Jim Anderton: "I, too, noted with a slightly sinking feeling of inferiority that it is not just the top three constitutional positions that are occupied by women; it is now the top four."
  28. ^ Today in history – 5 September 1939 – PM declares NZ's support for Britain, New Zealand history online, New Zealand Ministry for Culture and Heritage. Retrieved 28 April 2010.
  29. ^ Patman (2005) pg 8.
  30. ^ Lange (1990).
  31. ^ Dewes, Kate. “Legal challenges to nuclear weapons from Aotearoa/NewZealand”. disarmsecure.org. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2007.
  32. ^ Green, Robert. “The Naked Nuclear Emperor—Debunking Nuclear Deterrence”. disarmsecure.org. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2007.
  33. ^ “ISAF Troops in Numbers (Placemat)”. International Security Assistance Force. 22 tháng 10 năm 2009. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2010.
  34. ^ “New Zealand Defence Force Overseas Operations”. nzdf.mil.nz. 22 tháng 1 năm 2008. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2008.
  35. ^ Department of Economic and Social Affairs Population Division (2009). “World Population Prospects, Table A.1, A.2, A.12, A.15, A.17, A.18 see pgs 27, 38, 44, 57, 62” (.PDF). 2008 revision. United Nations. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2009. Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp)

Tham khảo

Thư mục

  • Allan, H.H. (1982) Indigenous Tracheophyta – Psilopsida, Lycopsida, Filicopsida, Gymnospermae, Dicotyledons, Flora of New Zealand Volume I. Botany Division, Department of Scientific and Industrial Research.
  • Bain, Carolyn (2006). New Zealand. Lonely Planet. ISBN 1741045355.
  • Clark, R. (1994) Moriori and Māori: The Linguistic Evidence. In Sutton, Douglas G. (Ed.) (1994), The Origins of the First New Zealanders. Auckland: Auckland University Press.
  • Davenport, Sally. "Panic and panacea: brain drain and science and technology human capital policy" Research Policy 33 (2004) 617–630. Accessed 2007-04-24.
  • Jackson, Duncan J.R. (2005). “Exploring the Dynamics of New Zealand's Talent Flow”. New Zealand Journal of Psychology.
  • Inkson, K (2004). “The New Zealand Brain Drain: Expatriate views”. University of Auckland Business Review. 6 (2): 29–39.
  • King, Michael (2003). The Penguin History of New Zealand. New Zealand: Penguin Books. ISBN 9780143018674.
  • Lange, David (1990). Nuclear Free: The New Zealand Way. New Zealand: Penguin Books. ISBN 0140145192.
  • Lindsey, Terence; Morris, Rod (2000). Collins Field Guide to New Zealand Wildlife. HarperCollins (New Zealand) Limited.
  • Mackay, D. (1986) The Search For The Southern Land. In Fraser, B. (Ed.) (1986), The New Zealand Book Of Events. Auckland: Reed Methuen.
  • Mein Smith, Philippa (2005). A Concise History of New Zealand. Australia: Cambridge University Press. ISBN 0521542286.
  • Robert G. Patman (2005). “Globalisation, Sovereignty, and the Transformation of New Zealand Foreign Policy” (PDF). Working Paper 21/05. Centre for Strategic Studies, Victoria University of Wellington. tr. 8. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2007.
  • Sutton, Douglas G.; Flenley, John R.; Li, Xun; Todd, Arthur; Butler, Kevin; Summers, Rachel; Chester, Pamela I. (2008). “The timing of the human discovery and colonization of New Zealand”. Quaternary International. 184: 109–121. doi:10.1016/j.quaint.2007.09.025.
  • Winkelmann, R. (2000). “The [[Labour economics|labour market]] performance of European immigrants in New Zealand in the 1980s and 1990s”. The International Migration Review. The Center for Migration Studies of New York, Inc. 33 (1): 33–58. doi:10.2307/2676011. Tựa đề URL chứa liên kết wiki (trợ giúp)
  • Zavos, Spiro (2 tháng 9 năm 2007). “How to beat the All Blacks”. The Sun Herald (supplement). tr. 54.

Đọc thêm

  • David Bateman, ed. Bateman New Zealand Encyclopedia (2005)
  • Keith Sinclair and Raewyn Dalziel. A History of New Zealand (2000)
  • A. H. McLintock, ed. Encyclopedia of New Zealand 3 vols (1966)
  • New Zealand Official Yearbook (annual)

Liên kết ngoài

Tư liệu liên quan tới New Zealand tại Wikimedia Commons

Bản mẫu:Liên kết bài chất lượng tốt Bản mẫu:Liên kết bài chất lượng tốt