Khác biệt giữa bản sửa đổi của “USS Wyoming (BB-32)”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 73: Dòng 73:


''Wyoming'' thực tập cùng với hạm đội ngoài khơi [[căn cứ hải quân Guantanamo]] từ ngày [[26 tháng 1]] đến ngày [[15 tháng 3]] trước khi quay mũi về phía Bắc hướng đến [[mũi Henry, Virginia]]. Chiếc thiết giáp hạm tiến hành các cuộc tập luyện và thực hành tác xạ trong khu vực trải dài từ khu vực luyện tập phía Nam ngoài khơi Virginia Capes cho đến [[eo biểnTangier]]. Nó tiếp tục những công việc thường lệ này cho đến ngày [[3 tháng 4]], khi nó quay về Xưởng hải quân New York để đại tu.
''Wyoming'' thực tập cùng với hạm đội ngoài khơi [[căn cứ hải quân Guantanamo]] từ ngày [[26 tháng 1]] đến ngày [[15 tháng 3]] trước khi quay mũi về phía Bắc hướng đến [[mũi Henry, Virginia]]. Chiếc thiết giáp hạm tiến hành các cuộc tập luyện và thực hành tác xạ trong khu vực trải dài từ khu vực luyện tập phía Nam ngoài khơi Virginia Capes cho đến [[eo biểnTangier]]. Nó tiếp tục những công việc thường lệ này cho đến ngày [[3 tháng 4]], khi nó quay về Xưởng hải quân New York để đại tu.
[[Tập tin:USS Wyoming (BB-32) Topside leaving port.JPG|nhỏ|trái|300px|USS ''Wyoming'' khi nó rời New York, khoảng năm 1915]]
Sau giai đoạn sửa chữa kéo dài từ ngày [[4 tháng 4]] đến ngày [[9 tháng 5]], ''Wyoming'' nhận lên tàu những nhân sự thay phiên cho hạm đội, rồi khởi hành từ Hampton Roads vào ngày [[13 tháng 5]], hướng đến vùng biển Mexico. Nó đi đến [[Veracruz (thành phố)|Veracruz]] vào ngày [[18 tháng 5]], không đầy một tháng sau khi lực lượng Hoa Kỳ chiếm giữ cảng Mexico này.


Sau giai đoạn sửa chữa kéo dài từ ngày [[4 tháng 4]] đến ngày [[9 tháng 5]], ''Wyoming'' nhận lên tàu những nhân sự thay phiên cho hạm đội, rồi khởi hành từ Hampton Roads vào ngày [[13 tháng 5]], hướng đến vùng biển Mexico. Nó đi đến [[Veracruz (thành phố)|Veracruz]] vào ngày [[18 tháng 5]], không đầy một tháng sau khi lực lượng Hoa Kỳ chiếm giữ cảng Mexico này.
[[Tập tin:USS Wyoming (BB-32) Topside leaving port.JPG|nhỏ|trái|300px|USS ''Wyoming'' khi nó rời New York, khoảng năm 1915]]
''Wyoming'' ở lại Veracruz trong những tháng tiếp theo cho đến cuối mùa Thu năm [[1914]], trước khi quay về phía Bắc. Tiến hành các hoạt động thực tập ngoài khơi Virginia Capes trên đường đi, nó đi vào Xưởng hải quân New York vào ngày [[6 tháng 10]] thực hiện các thay đổi và sửa chữa kéo dài cho đến ngày [[17 tháng 1]] năm [[1915]].
''Wyoming'' ở lại Veracruz trong những tháng tiếp theo cho đến cuối mùa Thu năm [[1914]], trước khi quay về phía Bắc. Tiến hành các hoạt động thực tập ngoài khơi Virginia Capes trên đường đi, nó đi vào Xưởng hải quân New York vào ngày [[6 tháng 10]] thực hiện các thay đổi và sửa chữa kéo dài cho đến ngày [[17 tháng 1]] năm [[1915]].

''Wyoming'' rời Hampton Roads ngày [[21 tháng 1]] sau khi kết thúc việc sửa chữa để tham gia việc tập trận hàng năm tại vùng biển Cuba và [[biển Caribbe|Caribbe]]. Quay trở về khu vực Tidewater vào ngày [[7 tháng 4]], chiếc thiết giáp hạm tiến hành các hoạt động diễn tập chiến thuật và cơ động dọc theo bờ Đông Hoa Kỳ, chủ yếu ngoài khơi [[Block Island]] và khu vực thực tập phía Nam, cho đến cuối mùa Thu khi nó lại quay trở vào Xưởng hải quân New York để đại tu.


Sau đợt sửa chữa kéo dài từ ngày [[20 tháng 12]] năm [[1915]] đến ngày [[6 tháng 1]] năm [[1916]], ''Wyoming'' lên đường tham gia các cuộc tập trận tại khu vực luyện tập phía Nam. Sau đó nó di chuyển hơn nữa về phía Nam, đến [[Culebra, Puerto Rico]] vào ngày [[16 tháng 1]]. Sau khi ghé thăm [[Port-au-Prince]], [[Haiti]] vào ngày [[27 tháng 1]], ''Wyoming'' đi vào vịnh Guantanamo vào ngày [[28 tháng 1]] rồi hoạt động tại vùng biển Cuba ngoài khơi các vịnh Guantanamo và Guacanayabo cùng cảng [[Manzanillo, Cuba]] cho đến ngày [[10 tháng 4]], khi nó lên đường đi New York.
Sau đợt sửa chữa kéo dài từ ngày [[20 tháng 12]] năm [[1915]] đến ngày [[6 tháng 1]] năm [[1916]], ''Wyoming'' lên đường tham gia các cuộc tập trận tại khu vực luyện tập phía Nam. Sau đó nó di chuyển hơn nữa về phía Nam, đến [[Culebra, Puerto Rico]] vào ngày [[16 tháng 1]]. Sau khi ghé thăm [[Port-au-Prince]], [[Haiti]] vào ngày [[27 tháng 1]], ''Wyoming'' đi vào vịnh Guantanamo vào ngày [[28 tháng 1]] rồi hoạt động tại vùng biển Cuba ngoài khơi các vịnh Guantanamo và Guacanayabo cùng cảng [[Manzanillo, Cuba]] cho đến ngày [[10 tháng 4]], khi nó lên đường đi New York.

Phiên bản lúc 05:52, ngày 13 tháng 1 năm 2011


Thiết giáp hạm USS Wyoming (BB-32), vào khoảng năm 1912- 1913
Lịch sử
Hoa Kỳ
Đặt tên theo tiểu bang Wyoming
Đặt hàng 3 tháng 3 năm 1909
Xưởng đóng tàu William Cramp and Sons
Đặt lườn 9 tháng 2 năm 1910
Hạ thủy 25 tháng 5 năm 1911
Người đỡ đầu Dorothy Eunice Knight
Hoạt động 25 tháng 9 năm 1912
Ngừng hoạt động 1 tháng 8 năm 1947
Xóa đăng bạ 16 tháng 9 năm 1947
Số phận Bị bán để tháo dỡ ngày 5 tháng 12 năm 1947
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Lớp thiết giáp hạm Wyoming
Trọng tải choán nước 27.680 tấn
Chiều dài 171,3 m (562 ft)
Sườn ngang 28,4 m (93 ft 2 in)
Mớn nước 8,7 m (28 ft 6 in)
Động cơ đẩy 28.000 mã lực (20,9 MW)
Tốc độ 39 km/h (21 knot)
Tầm xa list error: <br /> list (help)
9.600 km ở tốc độ 22 km/h
(5.190 hải lý ở tốc độ 12 knot)
hoặc 5.100 km ở tốc độ 37 km/h
(2760 hải lý ở tốc độ 20 knot)
Tầm hoạt động list error: <br /> list (help)
Than: 1.667 tấn;
dầu: 266 tấn
Thủy thủ đoàn 1.063 (58 sĩ quan, 1.005 thủy thủ)
Vũ khí list error: <br /> list (help)
12 × pháo 305 mm (12 inch) Mark 7,
21 × pháo 127 mm (5 inch)/51 caliber[1],
2 × pháo 76 mm (3 inch)/50 caliber,
2 × ống phóng ngư lôi 533 mm (21 inch) Mark 15

USS Wyoming (BB-32) là một thiết giáp hạm của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc dẫn đầu trong số hai chiếc thuộc lớp Wyoming vốn bao gồm cả chiếc Arkansas. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân Mỹ được đặt cái tên này, nhưng chỉ là chiếc thứ hai được đặt nhằm tôn vinh tiểu bang thứ 44 của Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ. Wyoming từng phục vụ trong cả hai cuộc Chiến tranh Thế giới thứ nhất lẫn thứ hai, cho dù chỉ trong những vai trò hộ tống và sau đó là huấn luyện, trước khi được cho ngừng hoạt động và tháo dỡ vào năm 1947.

Thiết kế và chế tạo

Wyoming được đặt lườn vào ngày 9 tháng 2 năm 1910 tại Philadelphia, Pennsylvania bởi hãng William Cramp and Sons. Nó được hạ thủy vào ngày 25 tháng 5 năm 1911, được đỡ đầu bởi Cô Dorothy Eunice Knight, con gái Chánh án Tòa án Tối cao Wyoming Jesse Knight, và là con gái gỡ đầu của Thống đốc tiểu bang Wyoming Joseph M. Carey. Wyoming được đưa ra hoạt động tại xưởng hải quân Philadelphia vào ngày 25 tháng 9 năm 1912, dưới quyền chỉ huy của Thuyền trưởng, Đại tá Hải quân Frederick L. Chapin.

Lịch sử hoạt động

Các hoạt động ban đầu

Wyoming khởi hành từ Philadelphia, Pennsylvania vào ngày 6 tháng 10 năm 1912, và hoàn tất quá trình trang bị tại Xưởng hải quân New York, Brooklyn, New York, trước khi gia nhập hạm đội tại Hampton Roads, Virginia. Đến khu vực Tidewater vào ngày 30 tháng 12 năm 1912, nó trở thành soái hạm của Chuẩn Đô đốc Charles J. Badger, Tư lệnh Hạm đội Đại Tây Dương không lâu sau đó. Lên đường vào ngày 6 tháng 1 năm 1913, chiếc thiết giáp hạm mới viếng thăm kênh đào Panama sắp hoàn thành, rồi sau đó tiến hành các cuộc thực tập cơ động mùa Đông tại khu vực ngoài khơi Cuba trước khi quay trở về vịnh Chesapeake vào ngày 4 tháng 3 năm 1913.

Sau các cuộc thực hành tác xạ tại Khu vực Huấn luyện Phía Nam ngoài khơi Virginia Capes, Wyoming trải qua các thay đổi và sửa chữa tại Xưởng hải quân New York từ ngày 18 tháng 4 đến ngày 7 tháng 5. Sau đó nó tham gia các cuộc tập trận hạm đội ngoài khơi đảo Block từ ngày 7 đến ngày 24 tháng 5, có gián đoạn bởi một đợt sửa chữa hệ thống động lực của nó tại Newport, Rhode Island từ ngày 9 đến ngày 19 tháng 5. Nó trải qua thêm một đợt sửa chữa khác tại Newport trước khi viếng thăm thành phố New York trong các ngày 28-31 tháng 5 tham gia các lễ hội được tổ chung quanh việc kỷ niệm chiếc thiết giáp hạm Maine bị phá hủy tại cảng Havana vào ngày 15 tháng 2 năm 1898.

Đi đến Annapolis, Maryland vào ngày 4 tháng 6, Wyoming nhận lên tàu một nhóm học viên sĩ quan của Học viện Hải quân Hoa Kỳ để đưa họ trong một chuyến đi thực tập mùa Hè ngoài khơi bờ biển New England kéo dài đến cuối tháng 8. Trả các học viên tại Annapolis vào ngày 24-25 tháng 8, Wyoming thực hành hoạt động ngư lôi và tác xạ tại khu vực thực tập phía Nam ngoài khơi Hampton Roads cho đến cuối mùa Thu. Nó vào ụ tàu tại New York để sửa chữa từ ngày 16 tháng 9 đến ngày 2 tháng 10, rồi chạy thử máy hết công suất khi hướng về phía Nam đến Norfolk, Virginia, tiếp nối các hoạt động thực tập ngoài khơi Virginia Capes trước khi lên đường đi Châu Âu vào ngày 26 tháng 10.

USS Wyoming sắp di chuyển qua bên dưới cầu Brooklyn, thành phố New York, năm 1912

Đi đến Valletta, Malta vào ngày 8 tháng 11, chiếc thiết giáp hạm ghé thăm Naples, Italy, và Villefranche, Pháp trong cuộc hành trình thăm Địa Trung Hải. Sau đó nó rời vùng biển nước Pháp vào ngày cuối cùng của tháng 11 và về đến New York vào ngày 15 tháng 12. Sau chuyến đi Wyoming được sửa chữa tại Xưởng hải quân New York, và ở lại đó cho đến hết năm 1913. Lên đường vào ngày 6 tháng 1 năm 1914, nó đến Hampton Roads ngày hôm sau và được chất than trong ba ngày kế tiếp chuẩn bị cho cuộc tập trận hàng năm được tổ chức tại vùng biển ấm Caribbe.

Wyoming thực tập cùng với hạm đội ngoài khơi căn cứ hải quân Guantanamo từ ngày 26 tháng 1 đến ngày 15 tháng 3 trước khi quay mũi về phía Bắc hướng đến mũi Henry, Virginia. Chiếc thiết giáp hạm tiến hành các cuộc tập luyện và thực hành tác xạ trong khu vực trải dài từ khu vực luyện tập phía Nam ngoài khơi Virginia Capes cho đến eo biểnTangier. Nó tiếp tục những công việc thường lệ này cho đến ngày 3 tháng 4, khi nó quay về Xưởng hải quân New York để đại tu.

Sau giai đoạn sửa chữa kéo dài từ ngày 4 tháng 4 đến ngày 9 tháng 5, Wyoming nhận lên tàu những nhân sự thay phiên cho hạm đội, rồi khởi hành từ Hampton Roads vào ngày 13 tháng 5, hướng đến vùng biển Mexico. Nó đi đến Veracruz vào ngày 18 tháng 5, không đầy một tháng sau khi lực lượng Hoa Kỳ chiếm giữ cảng Mexico này.

USS Wyoming khi nó rời New York, khoảng năm 1915

Wyoming ở lại Veracruz trong những tháng tiếp theo cho đến cuối mùa Thu năm 1914, trước khi quay về phía Bắc. Tiến hành các hoạt động thực tập ngoài khơi Virginia Capes trên đường đi, nó đi vào Xưởng hải quân New York vào ngày 6 tháng 10 thực hiện các thay đổi và sửa chữa kéo dài cho đến ngày 17 tháng 1 năm 1915.

Wyoming rời Hampton Roads ngày 21 tháng 1 sau khi kết thúc việc sửa chữa để tham gia việc tập trận hàng năm tại vùng biển Cuba và Caribbe. Quay trở về khu vực Tidewater vào ngày 7 tháng 4, chiếc thiết giáp hạm tiến hành các hoạt động diễn tập chiến thuật và cơ động dọc theo bờ Đông Hoa Kỳ, chủ yếu ngoài khơi Block Island và khu vực thực tập phía Nam, cho đến cuối mùa Thu khi nó lại quay trở vào Xưởng hải quân New York để đại tu.

Sau đợt sửa chữa kéo dài từ ngày 20 tháng 12 năm 1915 đến ngày 6 tháng 1 năm 1916, Wyoming lên đường tham gia các cuộc tập trận tại khu vực luyện tập phía Nam. Sau đó nó di chuyển hơn nữa về phía Nam, đến Culebra, Puerto Rico vào ngày 16 tháng 1. Sau khi ghé thăm Port-au-Prince, Haiti vào ngày 27 tháng 1, Wyoming đi vào vịnh Guantanamo vào ngày 28 tháng 1 rồi hoạt động tại vùng biển Cuba ngoài khơi các vịnh Guantanamo và Guacanayabo cùng cảng Manzanillo, Cuba cho đến ngày 10 tháng 4, khi nó lên đường đi New York.

Wyoming được sửa chữa tại Xưởng hải quân New York từ ngày 16 tháng 4 đến ngày 26 tháng 6, rồi hoạt động ngoài khơi bờ biển New England, Newport và Virginia Capes cho đến hết năm 1916. Rời New York vào ngày 9 tháng 1 năm 1917, Wyoming tiến hành các cuộc cơ động thường xuyên tại khu vực vịnh Guantanamo cho đến giữa tháng 3. Nó rời vùng biển Caribbe vào ngày 27 tháng 3 để có mặt ngoài khơi Yorktown, Virginia lúc mà Hoa Kỳ tham gia Chiến tranh Thế giới thứ nhất vào ngày 6 tháng 4 năm 1917.

Chiến tranh Thế giới thứ nhất

Trong những tháng tiếp theo, Wyoming hoạt động tại khu vực vịnh Chesapeake cho đến ngày 13 tháng 11 năm 1917; khi Chuẩn Đô đốc Hugh Rodman đặt cờ hiệu của mình trên thiết giáp hạm New York như là Tư lệnh của Hải đội Thiết giáp hạm 9. Sau những chuẩn bị để "hoạt động xa", Wyoming, New York, DelawareFlorida lên đường vào ngày 25 tháng 11 hướng sang quần đảo Anh Quốc, và đã đến Scapa Flow thuộc quần đảo Orkney vào ngày 7 tháng 12 năm 1917. Cho dù vẫn giữ lại tên gọi Hải đội Thiết giáp hạm 9 của Hải quân Mỹ, bốn chiếc thiết giáp hạm dreadnought này trở thành Hải đội 6 trực thuộc Hạm đội Grand Anh Quốc khi đi đến vùng biển Anh.


Tham khảo

Chú thích

  1. ^ Breyer 1973 p. 202

Thư mục

  • Breyer, Siegfried (1973). Battleships and Battle Cruisers 1905–1970. Doubleday and Company. ISBN 0385-0-7247-0 Kiểm tra giá trị |isbn=: giá trị tổng kiểm (trợ giúp).
  • Bài này có các trích dẫn từ nguồn en:Dictionary_of_American_Naval_Fighting_Ships thuộc phạm vi công cộng.

Liên kết ngoài