Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Sông Cổ Chiên”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 29: Dòng 29:
*''Vietnam Administrative Atlas'', Nhà xuất bản Bản Đồ, 2004
*''Vietnam Administrative Atlas'', Nhà xuất bản Bản Đồ, 2004


{{DEFAULTSORT:Cổ Chiên}}
==Liên kết ngoài==
[[Thể loại:Hệ thống sông Cửu Long]]

{{Sơ khai địa lý}}

[[Thể loại:Hệ thống sông Cửu Long|Cổ Chiên]]
[[Thể loại:Sông tại Bến Tre]]
[[Thể loại:Sông tại Bến Tre]]
[[Thể loại:Sông tại Trà Vinh]]
[[Thể loại:Sông tại Trà Vinh]]

Phiên bản lúc 06:47, ngày 5 tháng 8 năm 2018

Sông Cổ Chiên, đoạn qua thành phố Vĩnh Long.
Bến phà ở Mỹ Long Bắc Cầu Ngang

Sông Cổ Chiên là một phân lưu của sông Tiền, dài khoảng 82 km[1], làm thành ranh giới tự nhiên giữa các tỉnh Vĩnh LongTrà Vinh với Bến Tre.

Địa lý

Sông bắt đầu từ thành phố Vĩnh Long, chảy theo hướng tây bắc-đông nam, dọc theo ranh giới giữa các huyện Long Hồ (Vĩnh Long), Chợ Lách, Mỏ Cày Bắc, Mỏ Cày Nam, Thạnh Phú (đều của Bến Tre) ở bên tả với thành phố Vĩnh Long, Mang Thít, Vũng Liêm (đều của Vĩnh Long), Càng Long, Châu Thành, Cầu Ngang (đều của Trà Vinh) bên hữu.

Đến ranh giới ngã ba giữa Châu Thành và Cầu Ngang, sông chia làm hai đổ ra biển Đông qua 2 cửa sông là cửa Cung Hầu và cửa Cổ Chiên. Cửa Cổ Chiên ở giữa Thạnh Phú (Bến Tre) và Châu Thành (Trà Vinh). Cửa Cung Hầu lệch về phía Trà Vinh, giữa Châu Thành và Cầu Ngang.

Trên dòng sông Cổ Chiên cũng có nhiều cù lao và cồn như: cù lao Nai, cồn Chen, cồn Dung, cồn Lớn. Các cồn này thuộc về tỉnh Bến Tre.

Nguồn gốc tên gọi

Thuyết thứ nhất:

Theo Lý Đăng Thạnh, trong 'Lịch sử Đông Dương tập 7- Nước Việt thời Nam - Bắc phân tranh' (1994), thì tên gọi Cochinchine bao gồm hai từ tố là 'Cochin' và 'Chine'. Trong đó, Cochin có nguồn gốc từ tên gọi sông Koh Chin (កោះជីន), là một đoạn sông của Thủy Chân Lạp thuộc hệ thống sông Mekong (sông Cửu Long), chảy qua nhiều cù lao (đảo nhỏ trong châu thổ) từ địa phận thành phố Vĩnh Long ngày nay, qua các tỉnh Vĩnh Long, Bến Tre, Trà Vinh, rồi đổ ra biển Đông tại Cửa Koh Chin. Các nhà thám hiểm hàng hải châu Âu vào thế kỷ 15 khi đến vùng đất đồng bằng sông Cửu Long để mua nước ngọt và lương thực, thực phẩm, có thể đã lấy tên cửa sông Koh Chin và sông Koh Chin của dải đất có cư dân đông đúc nhất đồng bằng sông Cửu Long thời ấy để gọi tên chung cho cả vùng đồng bằng sông Cửu Long là: Vùng Cochin. Do sợ nhầm với thành phố cảng Ấn Độ Cochin, nên người phương Tây thêm hậu tố chine vào thành Cochinchine. Tên gọi Cochinchine này sang đầu thế kỷ 17 có lúc đã được người Phương Tây đồng hóa với tên gọi toàn bộ dòng sông Mekong. Trong bản đồ Đông Nam Á năm 1609 (bên cạnh), có hai dòng chữ Cochinchine (in dòng lớn và dòng nhỏ) ở vị trí thuộc tỉnh Vân Nam ngày nay, tại thượng nguồn sông Mekong, mà rõ ràng không liên quan gì đến khu vực đồng bằng sông Hồng (Giao Chỉ cũ).

Tài liệu nói trên cũng trích dẫn một đoạn trong tác phẩm của học giả Lê Hương nhan đề ‘Việt Kiều ở Kampuchia’, do Nhà xuất bản Khai Trí ấn hành tại Sài Gòn năm 1971, nguyên văn tại cuối trang 10 như sau:  “Sau ngày 11-4-1970, Chánh phủ Cao Miên trở thành một nước Cộng hòa, chấm dứt chế độ quân chủ 1.400 năm, báo chí Miên đả kích Hoàng gia cho rằng Quốc vương Chey Chetta II mê bà vợ Việt Nam tên ‘CÔ CHÍNH XINH’ mới làm mất phần đất ‘Cao Miên miền dưới’ (Kampuchéa Krom) chỉ miền Nam Việt Nam. Tài liệu Cao Miên cho rằng Công chúa Ngọc Vạn tên CÔ CHÍNH XINH nên vị quốc vương ấy mới đặt cho miền Nam và Pháp gọi là COCHINCHINE.” Và Lý Đăng Thạnh chú thêm là nếu việc đặt tên như thế  là có thật thì sẽ xảy ra sau năm 1620, vì đây là thời điểm mà nhiều tài liệu cho rằng là năm Công nữ Ngọc Vạn được cha là Chúa Sãi Nguyễn Phước Nguyên gả cho vua Cao Miên. Công nữ Nguyễn Phước Ngọc Vạn sinh khoảng năm 1605, mất sau năm 1658, là con gái thứ hai của Chúa Sãi, nhưng chưa rõ có phải là ‘người con thứ chín’ nếu tính cả các người con trai của Chúa Sãi hay không, hoặc là Bà còn có một tên gọi ‘thân mật’ là Cô Chính hay không. 

Đầu thế kỷ 17, dưới thời Trịnh-Nguyễn phân tranh, nước Việt Nam phân đôi thành Đàng Trong và Đàng Ngoài, thì Cochinchine được người Phương Tây dùng để chỉ Đàng Trong, còn Tonkin chỉ Đàng Ngoài. Cuối thế kỷ 17, Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh khi vào thu phục vùng đồng bằng sông Cửu Long thì triều đình Đàng Trong đã gọi sông Koh Chin theo âm Hán-Việt là Cổ Chiên Giang (鼓栴江), và cửa sông Koh Chin là Cổ Chiên Môn (鼓栴门). Trên một số bản đồ cổ của Phương Tây in vào thế kỷ 18-19 còn đọc Koh Chin bằng những âm khác như Kho Cin, Cocin. Coghien..., hoặc như bản đồ do Stielers Handatlas xuất bản vào tháng 8-1891 tại Đức còn ghi cửa sông Koh Chin là Ko-kien.

Thuyết thứ hai:

Về tên Cổ Chiên cũng có thuyết cho rằng tên sông có liên quan đến một sự kiện lịch sử cuối thế kỷ XVIII. Vào năm 1785, khi bị đại bại ở trận Rạch Gầm – Xoài Mút, tàn quân của Nguyễn Ánh phải dùng thuyền chạy trốn xuống phía Nam, đến dòng sông này bị thuyền của Tây Sơn đuổi theo sát quá, quan quân của Nguyễn Ánh cuống quýt, sợ hãi đã làm rơi cả trống và chiêng lệnh xuống sông (theo từ Hán - Việt, Cổ là cái trống, Chinh là chiêng). Từ sự kiện này, nhân dân địa phương gọi sông Cổ Chiên (do đọc trại từ "Cổ Chinh" mà ra)[2]

Chú thích

  1. ^ Lê Thông (2006) [2006]. Địa lý các tỉnh và thành phố Việt Nam (tập 6) . Hà Nội (Việt Nam): Nhà xuất bản Giáo dục. tr. 104. ISBN 8934980639184. Đã bỏ qua tham số không rõ |coauthors= (gợi ý |author=) (trợ giúp)
  2. ^ “Tinh Ben Tre”. Truy cập 21 tháng 3 năm 2015.

Tham khảo

  • Vietnam Administrative Atlas, Nhà xuất bản Bản Đồ, 2004