Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Trúc Khê (nhà văn)”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
ASM~viwiki (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
thêm ảnh
Dòng 1: Dòng 1:
{{Infobox Writer
'''Trúc Khê''' ([[1901]] - [[1947]]) tên thật là '''Ngô Văn Triện'''; các bút danh khác là: ''Cẩm Khê, Kim Thượng, Đỗ Giang, Khâm Trai, Ngô Sơn, Hạo Nhiên Đình''. Ông là [[nhà văn]], [[nhà báo]], nhà cách mạng [[Việt Nam]].
| name = Trúc Khê Ngô Văn Triện
| image = Ngô Văn Triện.jpg
|bgcolour = silver
| caption = Trúc Khê Ngô Văn Triện
| birth_date = [[1901]]
| birth_place = [[Từ Liêm]], [[Hà Nội]], [[Việt Nam]]
| death_date = [[1947]]
| death_place = [[Hà Nội]]
| occupation = [[nhà văn]], [[nhà báo]], nhà cách mạng [[Việt Nam]]
| movement =
| magnum_opus = Chợ chiều (thơ), Trăm lạng vàng (tiểu thuyết)
| influenced =
| influences =
| website =
| footnotes =
}}
'''Trúc Khê''' ([[1901]]-[[1947]]) tên thật là '''Ngô Văn Triện'''; các bút danh khác là: ''Cẩm Khê, Kim Thượng, Đỗ Giang, Khâm Trai, Ngô Sơn, Hạo Nhiên Đình''. Ông là [[nhà văn]], [[nhà báo]], nhà cách mạng [[Việt Nam]].


==Cuộc đời==
==Cuộc đời==
'''Trúc Khê''' sinh ngày 22 [[tháng 5]] năm [[1901]] trong một gia đình gốc nông dân và tiểu thủ công ở thôn Thị Cấm, xã Phương Canh, huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức, tỉnh [[Hà Đông]] (nay là xã [[Xuân Phương]], huyện [[Từ Liêm]], [[Hà Nội]]).
'''Trúc Khê''' sinh ngày 22 [[tháng 5]] năm [[1901]] trong một gia đình gốc nông dân và tiểu thủ công ở thôn Thị Cấm, xã Phương Canh, huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức, tỉnh [[Hà Đông]] (nay là xã [[Xuân Phương]], huyện [[Từ Liêm]], [[Hà Nội]]).


Năm lên 6 tuổi, ông học [[chữ Hán]] với một ông đồ. Năm 11 tuổi, ông học [[quốc ngữ]] ở trường [[Pháp]]-Việt và tự học thêm [[tiếng Pháp]]. Đến năm 14 tuổi (1915), triều đình [[Huế]] bỏ khoa thi [[chữ Hán]], ông tiếp tục tự học. Năm 16-17 tuổi, ông đi làm thợ đan đăng ten rồi sang làm thợ đóng sách ở nhà in Thực Nghiệp, [[Hà Nội]].
Năm lên 6 tuổi, ông học [[chữ Hán]] với một ông đồ. Năm 11 tuổi, ông học [[quốc ngữ]] ở trường [[Pháp]]-Việt và tự học thêm [[tiếng Pháp]]. Đến năm 14 tuổi ([[1915]]), triều đình [[Huế]] bỏ khoa thi [[chữ Hán]], ông tiếp tục tự học. Năm 16-17 tuổi, ông đi làm thợ đan đăng ten rồi sang làm thợ đóng sách ở nhà in Thực Nghiệp, [[Hà Nội]].


Năm 19 tuổi, bài viết đầu tay của ông: ''Cải lương hương tục'', được đăng trên tờ ''Trung Bắc tân văn'' năm [[1920]].
Năm 19 tuổi, bài viết đầu tay của ông: ''Cải lương hương tục'', được đăng trên tờ ''Trung Bắc tân văn'' năm [[1920]].


Khoảng năm 1927, ông dự định tìm người đồng chí hướng thành lập đảng Tân Dân, chủ trương đánh đuổi [[thực dân Pháp]]. Nhưng rồi ông gặp [[Phạm Tuấn Tài]] với nhóm ''Nam Đồng thư xã''; rồi sau nữa, khi [[Việt Nam quốc dân đảng]] được thành lập, ông theo đảng phái này.
Khoảng năm [[1927]], ông dự định tìm người đồng chí hướng thành lập đảng Tân Dân, chủ trương đánh đuổi [[thực dân Pháp]]. Nhưng rồi ông gặp [[Phạm Tuấn Tài]] với nhóm ''Nam Đồng thư xã''; rồi sau nữa, khi [[Việt Nam quốc dân đảng]] được thành lập, ông theo đảng phái này.
Ông hoạt động chính trị cho đến năm [[1929]], thì bị nhà cầm quyền [[Pháp]] bắt giam ở [[Hỏa Lò]] (Hà Nội), nhận án 2 năm tù treo và 5 năm quản thúc.
Ông hoạt động chính trị cho đến năm [[1929]], thì bị nhà cầm quyền [[Pháp]] bắt giam ở [[Hỏa Lò]] (Hà Nội), nhận án 2 năm tù treo và 5 năm quản thúc.
Dòng 24: Dòng 41:
Năm [[1941]] đến [[1945]], ông tham gia phong trào truyền bá Quốc ngữ tại [[Hà Nội]].
Năm [[1941]] đến [[1945]], ông tham gia phong trào truyền bá Quốc ngữ tại [[Hà Nội]].


Năm [[1946]], [[Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến|Kháng chiến toàn quốc bùng nổ]], ông cùng gia đình lên ở Trại Ro, xã Nghĩa Hương, huyện Quốc Oai, tỉnh [[Hà Tây]] (nay thuộc [[Hà Nội]]). Ở đây, ông giao liên đưa lên chiến khu Việt Bắc tham gia kháng chiến chống Pháp, nhưng chưa kịp đi thì lâm bệnh nặng rồi mất (26 [[tháng 8]] năm [[1947]]) tại nơi đó, hưởng dương 46 tuổi.
Năm [[1946]], [[Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến|Kháng chiến toàn quốc bùng nổ]], ông cùng gia đình lên ở Trại Ro, xã Nghĩa Hương, huyện Quốc Oai, tỉnh [[Hà Tây]] (nay thuộc [[Hà Nội]]). Ở đây, ông giao liên đưa lên chiến khu [[Việt Bắc]] tham gia kháng chiến chống Pháp, nhưng chưa kịp đi thì lâm bệnh nặng rồi mất (26 [[tháng 8]] năm [[1947]]) tại nơi đó, hưởng dương 46 tuổi.


Năm [[2005]], Ủy ban nhân dân [[Thành phố Hà Nội]] đặt tên phố Trúc Khê cho một con đường tại phường Láng Hạ, quận [[Đống Đa]], nối đường [[Nguyễn Chí Thanh]] với phố [[Vũ Ngọc Phan]].
Năm [[2005]], Ủy ban nhân dân [[Thành phố Hà Nội]] đặt tên phố Trúc Khê cho một con đường tại phường Láng Hạ, quận [[Đống Đa]], nối đường [[Nguyễn Chí Thanh]] với phố [[Vũ Ngọc Phan]].
Dòng 76: Dòng 93:
Trong Lời bạt in trong tập thơ [[Lý Bạch]] do Trúc Khê dịch, Lữ Huy Nguyên cũng đã viết:
Trong Lời bạt in trong tập thơ [[Lý Bạch]] do Trúc Khê dịch, Lữ Huy Nguyên cũng đã viết:
:''Ông là người ưa thích hoạt động xã hội, tinh thần tự học rất cao và liên tục. Hồi còn đi học, ông học cả trong lúc ăn, lúc xay lúa giã gạo, đi đâu cũng mang sách theo. Ông là người có tinh thần dân tộc ngay cả trong suy nghĩ, sáng tác, nghiên cứu cũng như trong sinh hoạt, ứng xử. Một người giàu lòng hiếu khách, yêu thiên nhiên hoa cỏ''<ref>Trích ''Nhớ Trúc Khê'' [http://www.xaluan.com/modules.php?name=News&file=article&sid=86399#ixzz0MG1zmo8s]</ref>.
:''Ông là người ưa thích hoạt động xã hội, tinh thần tự học rất cao và liên tục. Hồi còn đi học, ông học cả trong lúc ăn, lúc xay lúa giã gạo, đi đâu cũng mang sách theo. Ông là người có tinh thần dân tộc ngay cả trong suy nghĩ, sáng tác, nghiên cứu cũng như trong sinh hoạt, ứng xử. Một người giàu lòng hiếu khách, yêu thiên nhiên hoa cỏ''<ref>Trích ''Nhớ Trúc Khê'' [http://www.xaluan.com/modules.php?name=News&file=article&sid=86399#ixzz0MG1zmo8s]</ref>.

===Tác phẩm===
===Tác phẩm===
Trong bộ sách ''Nhà văn hiện đại'', [[Vũ Ngọc Phan]] xếp Trúc Khê vào ''Những nhà viết ký sự & truyện ký''. Đề cập đến hai tác phẩm của Trúc Khê là ''Cao Bá Quát'' và ''Nguyễn Trãi'', Vũ Ngọc Phan có lời nhận xét chung rằng:
Trong bộ sách ''Nhà văn hiện đại'', [[Vũ Ngọc Phan]] xếp Trúc Khê vào ''Những nhà viết ký sự & truyện ký''. Đề cập đến hai tác phẩm của Trúc Khê là ''Cao Bá Quát'' và ''Nguyễn Trãi'', Vũ Ngọc Phan có lời nhận xét chung rằng:

Phiên bản lúc 03:42, ngày 18 tháng 4 năm 2011

Trúc Khê Ngô Văn Triện
Trúc Khê Ngô Văn Triện
Trúc Khê Ngô Văn Triện
Sinh1901
Từ Liêm, Hà Nội, Việt Nam
Mất1947
Hà Nội
Nghề nghiệpnhà văn, nhà báo, nhà cách mạng Việt Nam

Trúc Khê (1901-1947) tên thật là Ngô Văn Triện; các bút danh khác là: Cẩm Khê, Kim Thượng, Đỗ Giang, Khâm Trai, Ngô Sơn, Hạo Nhiên Đình. Ông là nhà văn, nhà báo, nhà cách mạng Việt Nam.

Cuộc đời

Trúc Khê sinh ngày 22 tháng 5 năm 1901 trong một gia đình gốc nông dân và tiểu thủ công ở thôn Thị Cấm, xã Phương Canh, huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (nay là xã Xuân Phương, huyện Từ Liêm, Hà Nội).

Năm lên 6 tuổi, ông học chữ Hán với một ông đồ. Năm 11 tuổi, ông học quốc ngữ ở trường Pháp-Việt và tự học thêm tiếng Pháp. Đến năm 14 tuổi (1915), triều đình Huế bỏ khoa thi chữ Hán, ông tiếp tục tự học. Năm 16-17 tuổi, ông đi làm thợ đan đăng ten rồi sang làm thợ đóng sách ở nhà in Thực Nghiệp, Hà Nội.

Năm 19 tuổi, bài viết đầu tay của ông: Cải lương hương tục, được đăng trên tờ Trung Bắc tân văn năm 1920.

Khoảng năm 1927, ông dự định tìm người đồng chí hướng thành lập đảng Tân Dân, chủ trương đánh đuổi thực dân Pháp. Nhưng rồi ông gặp Phạm Tuấn Tài với nhóm Nam Đồng thư xã; rồi sau nữa, khi Việt Nam quốc dân đảng được thành lập, ông theo đảng phái này.

Ông hoạt động chính trị cho đến năm 1929, thì bị nhà cầm quyền Pháp bắt giam ở Hỏa Lò (Hà Nội), nhận án 2 năm tù treo và 5 năm quản thúc.

Ra tù, ông theo hẳn nghề báo. Điểm lại trước sau ông đã viết cho các tờ: Thực nghiệp dân báo (1926-1928), Tạp chí văn học (1932-1933), làm Chủ bút báo Bắc Hà (1933)...

Từ 1935, ông chuyên viết cho Tiểu thuyết thứ bẩy, Phổ thông bán nguyệt san, Tao đàn.

Từ năm 1941, ông còn viết cho Tri tân, Nước Nam, Đông Tây, Ích hữu, Dân báo, Khuyến học, Tri Tân, Quốc gia, Truyền bá, Thương Mại, Đông phương nhật báo...

Mặt khác, từ năm 1937 đến 1945, ông đã trước tác, dịch thuật và biên khảo khoảng 60 cuốn sách.

Ngoài ra, ông còn tham gia sáng lập hội Uẩn hoa, Trúc Khê thư cục (1933).

Năm 1941 đến 1945, ông tham gia phong trào truyền bá Quốc ngữ tại Hà Nội.

Năm 1946, Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, ông cùng gia đình lên ở Trại Ro, xã Nghĩa Hương, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội). Ở đây, ông giao liên đưa lên chiến khu Việt Bắc tham gia kháng chiến chống Pháp, nhưng chưa kịp đi thì lâm bệnh nặng rồi mất (26 tháng 8 năm 1947) tại nơi đó, hưởng dương 46 tuổi.

Năm 2005, Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội đặt tên phố Trúc Khê cho một con đường tại phường Láng Hạ, quận Đống Đa, nối đường Nguyễn Chí Thanh với phố Vũ Ngọc Phan.

Tác phẩm chính

Trong hơn 20 năm cầm bút Trúc Khê đã để lại gần 60 tác phẩm, không kể các bài bình luận, biên khảo đăng rải rác trên các báo. Theo thống kê chưa đầy đủ, ông đã sáng tác và dịch các tác phẩm sau:

Thơ

  • Chợ chiều

Tiểu thuyết

  • Trăm lạng vàng
  • Nét ngọc
  • Đò chiều

Truyện ký danh nhân

Biên khảo

Tạp văn

  • Hồn quê I, II

Dịch thuật

Truyện thiếu nhi

  • Lê Như Hổ
  • Lên trời...

Nhận xét

Tác giả

Nhắc đến Trúc Khê, Lữ Huy Nguyên có lần đã bộc bạch như sau:

...Tôi vẫn cứ muốn tin rằng nhà văn Trúc Khê đang hiện diện giữa chúng ta, chân đi giày Gia Định, áo the khăn xếp, bộ quốc phục mà ông vẫn thường vận những ngày làm báo Tiểu thuyết thứ bảy hay Phổ thông bán nguyệt san. Con người phong nhã, lịch thiệp, nghiêm túc, đạo đức ấy không nghiện thứ gì...

Trong Lời bạt in trong tập thơ Lý Bạch do Trúc Khê dịch, Lữ Huy Nguyên cũng đã viết:

Ông là người ưa thích hoạt động xã hội, tinh thần tự học rất cao và liên tục. Hồi còn đi học, ông học cả trong lúc ăn, lúc xay lúa giã gạo, đi đâu cũng mang sách theo. Ông là người có tinh thần dân tộc ngay cả trong suy nghĩ, sáng tác, nghiên cứu cũng như trong sinh hoạt, ứng xử. Một người giàu lòng hiếu khách, yêu thiên nhiên hoa cỏ[1].

Tác phẩm

Trong bộ sách Nhà văn hiện đại, Vũ Ngọc Phan xếp Trúc Khê vào Những nhà viết ký sự & truyện ký. Đề cập đến hai tác phẩm của Trúc Khê là Cao Bá QuátNguyễn Trãi, Vũ Ngọc Phan có lời nhận xét chung rằng:

Quyển Cao Bá Quát là một quyển truyện ký có giá trị. Soạn giả đã sưu tầm công phu.Và tác phẩm này thiết thực thế nào thì quyển Nguyễn Trãi có nhiều hoang đường thế ấy...Chép chuyện anh hùng hào kiệt, ta không nên xen lẫn những sự hoang đường vào, vì những sự hoang đường chỉ làm giảm sự vẻ vang của người anh hùng thôi. Xét mặt khác, tác giả đã để cho cái vai Nguyễn Trãi bị chìm đắm trong nhiều đoạn khá dài. Khiến người ta tưởng đây là một quyển chép chuyện Lê Lợi mà Nguyễn Trãi chỉ là một vai phụ [2].

Nhà nghiên cứu Văn Tâm trong Từ điển Văn học (bộ mới), có lời nhận xét khái quát như sau:

Trúc Khê dịch thơ chưa thật đặc sắc, nhưng cố gắng bám sát nguyên tác; biên khảo với tinh thần cấp tiến... Một bộ phận đáng chú ý trong sự nghiệp văn học của ông là những truyện ký danh nhân. Tất nhiên, không tránh khỏi hạn chế về nội dung tư tưởng & hình thức nghệ thuật; nhưng với quan điểm tiến bộ, vốn Hán học sâu rộng, và bút pháp cũng khá nhuần nhị; ông truyền đạt tư liệu lịch sử có hệ thống, việt được một số trang khá hấp dẫn với những lời bình đúng mực.
Vốn có lòng yêu nước, cho nên ông đã viết một số phẩm theo thể loại này cốt để đề cao tinh thần dân tộc như chính ông có lần bộc lộ: "Tiểu thuyết lịch sử...phải làm cho người đọc sinh lòng nhớ mến nước cũ, có mối cảm tình thắm thiết với chủng tộc, giang sơn"[3].

Chú thích

  1. ^ Trích Nhớ Trúc Khê [1]
  2. ^ Vũ Ngọc Phan, Nhà văn hiện đại (trọn bộ), tr. 552 và 554.
  3. ^ Lược theo Từ điển Văn học (bộ mới) , tr. 1828.

Tài liệu tham khảo

  • Vũ Ngọc Phan , Nhà văn hiện đại (trọn bộ). Nxb Sống mới, Sài Gòn, 1960.
  • Từ điển Văn học (bộ mới). Nxb Thế giới, 2004.
  • Nguyễn Q. Thắng & Nguyễn Bá Thế, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, Nxb KHXH, 1992.

Liên kết ngoài