Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Trúc Khê (nhà văn)”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Thêm chi tiết
Dòng 16: Dòng 16:
| footnotes =
| footnotes =
}}
}}
'''Trúc Khê''' ([[1901]]-[[1947]]) tên thật là '''Ngô Văn Triện'''; các bút danh khác là: ''Cấm Khê, Kim Phượng, Đỗ Giang, Khâm Trai, Ngô Sơn, Hạo Nhiên Đình''. Ông là [[nhà văn]], [[nhà báo]], nhà cách mạng [[Việt Nam]].
'''Trúc Khê''' ([[1901]]-[[1947]]), tên thật là '''Ngô Văn Triện'''; các bút danh khác là: ''Cấm Khê, Kim Phượng, Đỗ Giang, Khâm Trai, Ngô Sơn, Hạo Nhiên Đình''. Ông là [[nhà văn]], [[nhà báo]], [[nhà cách mạng]] [[Việt Nam]].


==Cuộc đời==
==Cuộc đời==
'''Trúc Khê''' sinh ngày 22 [[tháng 5]] năm [[1901]] trong một gia đình gốc nông dân và tiểu thủ công ở thôn Thị Cấm, xã Phương Canh, huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức, tỉnh [[Hà Đông]] (nay là xã [[Xuân Phương]], huyện [[Từ Liêm]], [[Hà Nội]]).
'''Trúc Khê''' sinh ngày 22 [[tháng 5]] năm [[1901]] trong một gia đình gốc nông dân và tiểu thủ công ở thôn Thị Cấm, xã Phương Canh, huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức, tỉnh [[Hà Đông]] (nay là xã [[Xuân Phương]], huyện [[Từ Liêm]], [[Hà Nội]]).


Năm lên 6 tuổi, ông học [[chữ Hán]] với một ông đồ. Năm 11 tuổi, ông học [[quốc ngữ]] ở trường [[Pháp]]-Việt tự học thêm [[tiếng Pháp]]. Đến năm 14 tuổi ([[1915]]), triều đình [[Huế]] bỏ khoa thi [[chữ Hán]], ông tiếp tục tự học. Năm 16-17 tuổi, ông đi làm thợ đan đăng ten rồi sang làm thợ đóng sách ở nhà in Thực Nghiệp, [[Hà Nội]].
Năm lên 6 tuổi, ông học [[chữ Hán]] với một ông đồ ở trong làng. Năm 11 tuổi, ông học [[Quốc ngữ]] ở trường [[Pháp]]-Việt, tự học thêm [[tiếng Pháp]], đồng thời vẫn tiếp tục học [[chữ Hán]], dù sau này triều đình [[Huế]] đã bỏ thi khoa cử. Vừa học, vừa đi chăn trâu, đến năm 16-17 tuổi, ông đi làm thợ đan đăng ten rồi sang làm thợ đóng sách ở nhà in Thực Nghiệp, [[Hà Nội]] <ref>Theo Đăng Bẩy trong bài viết “Trúc Khê - danh sĩ Bắc Hà” in trong Tuyển tập Trúc Khê Ngô Văn Triện (tr. 1170).</ref>.


Năm 19 tuổi, bài viết đầu tay của ông: ''Cải lương hương tục'', được đăng trên tờ ''Trung Bắc tân văn'' năm [[1920]].
Năm 19 tuổi, bài viết đầu tay của ông: ''Cải lương hương tục'', được đăng trên tờ ''Trung Bắc tân văn'' năm [[1920]].


Khoảng năm [[1927]], ông dự định tìm người đồng chí hướng thành lập đảng Tân Dân, chủ trương đánh đuổi [[thực dân Pháp]]. Nhưng rồi ông gặp [[Phạm Tuấn Tài]] với nhóm ''Nam Đồng thư xã''; rồi sau nữa, khi [[Việt Nam quốc dân đảng]] được thành lập, ông theo đảng phái này.
Năm [[1926]], ông vào làm trong ban biên tập của Thực nghiệp dân báo. Khoảng năm [[1927]], ông dự định tìm người đồng chí hướng thành lập đảng Tân Dân, chủ trương đánh đuổi [[thực dân Pháp]]. Nhưng khi gặp [[Phạm Tuấn Tài]], ông theo nhóm ''Nam Đồng thư xã''; rồi sau nữa, khi [[Việt Nam Quốc dân Đảng]] được thành lập, ông theo đảng phái này.
Ông hoạt động chính trị cho đến năm [[1929]], thì bị nhà cầm quyền [[Pháp]] bắt giam ở [[Hỏa Lò]] (Hà Nội), nhận án 2 năm tù treo và 5 năm quản thúc.
Năm [[1928]], Trúc Khê mở ''Trúc Khê thư cục'' ở trên gác nhà số 196 phố [[Hàng Bông]] ([[Hà Nội]]) để tự xuất bản sách của minh. Ông hoạt động chính trị cho đến năm [[1929]], thì bị nhà cầm quyền [[Pháp]] bắt giam ở [[Hỏa Lò]] ([[Hà Nội]]), nhận án 2 năm tù treo và 5 năm quản thúc.


Ra tù, ông theo hẳn nghề báo. Năm [[1933]], ông làm Chủ bút báo ''Bắc Hà''. Năm [[1934]], ông làm Chủ bút báo ''Thương mại''. Từ [[1935]], ông chuyên viết cho các báo ''Tiểu thuyết thứ bẩy'', ''Phổ thông bán nguyệt san'', ''Tao đàn''...Từ năm [[1941]], ông còn viết cho các báo ''Tri tân, Nước Nam, Đông Tây, Ích hữu, Dân báo, Khuyến học, Tri Tân, Quốc gia, Truyền bá, Đông phương nhật báo, v.v...''
Ra tù, ông theo hẳn nghề báo. Điểm lại trước sau ông đã viết cho các tờ: ''Thực nghiệp dân báo'' ([[1926]]-[[1928]]), ''Tạp chí văn học'' ([[1932]]-[[1933]]), làm Chủ bút báo ''Bắc Hà'' ([[1933]])...

Mặt khác, từ năm [[1937]] đến [[1945]], ông còn trước tác, dịch thuật và biên khảo khoảng 60 cuốn sách.
Năm [[1941]] đến [[1945]], ông tham gia phong trào truyền bá [[Quốc ngữ]] tại [[Hà Nội]].
Từ [[1935]], ông chuyên viết cho ''Tiểu thuyết thứ bẩy'', ''Phổ thông bán nguyệt san'', ''Tao đàn''.

Từ năm [[1941]], ông còn viết cho ''Tri tân, Nước Nam, Đông Tây, Ích hữu, Dân báo, Khuyến học, Tri Tân, Quốc gia, Truyền bá, Thương Mại, Đông phương nhật báo...''

Mặt khác, từ năm [[1937]] đến [[1945]], ông đã trước tác, dịch thuật và biên khảo khoảng 60 cuốn sách.

Ngoài ra, ông còn tham gia sáng lập hội ''Uẩn hoa'', ''Trúc Khê thư cục'' ([[1933]]).

Năm [[1941]] đến [[1945]], ông tham gia phong trào truyền bá Quốc ngữ tại [[Hà Nội]].


Năm [[1946]], [[Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến|Kháng chiến toàn quốc bùng nổ]], ông cùng gia đình lên ở Trại Ro, xã Nghĩa Hương, huyện Quốc Oai, tỉnh [[Hà Tây]] (nay thuộc [[Hà Nội]]). Ở đây, ông giao liên đưa lên chiến khu [[Việt Bắc]] tham gia kháng chiến chống Pháp, nhưng chưa kịp đi thì lâm bệnh nặng rồi mất (26 [[tháng 8]] năm [[1947]]) tại nơi đó, hưởng dương 46 tuổi.
Năm [[1946]], [[Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến|Kháng chiến toàn quốc bùng nổ]], ông cùng gia đình lên ở Trại Ro, xã Nghĩa Hương, huyện Quốc Oai, tỉnh [[Hà Tây]] (nay thuộc [[Hà Nội]]). Ở đây, ông giao liên đưa lên chiến khu [[Việt Bắc]] tham gia kháng chiến chống Pháp, nhưng chưa kịp đi thì lâm bệnh nặng rồi mất (26 [[tháng 8]] năm [[1947]]) tại nơi đó, hưởng dương 46 tuổi.
Dòng 46: Dòng 40:


==Tác phẩm chính==
==Tác phẩm chính==
Trong hơn 20 năm cầm bút Trúc Khê đã để lại gần 60 tác phẩm, không kể các bài bình luận, biên khảo đăng rải rác trên các báo. Theo thống kê chưa đầy đủ, ông đã sáng tác dịch các tác phẩm sau:
Trong hơn 20 năm cầm bút Trúc Khê đã để lại gần 60 tác phẩm, không kể các bài bình luận, biên khảo đăng rải rác trên các báo. Các tác phẩm chính :
===Thơ'''===
===Thơ===
*Chợ chiều
*Chợ chiều
*Đò chiều
===Tiểu thuyết===
===Tiểu thuyết===
*Trăm lạng vàng (Nxb Tân Dân - Hà Nội, 1942)
*Trăm lạng vàng (Nxb Tân Dân - Hà Nội, 1942)
*Nát ngọc (Nxb Tân Dân - Hà Nội, 1939)
*Nát ngọc (Nxb Tân Dân - Hà Nội, 1939)
*Hồn về
*Đò chiều
*Trăm lạng vàng (tiểu thuyết lịch sử)

===Truyện ký danh nhân===
===Truyện ký danh nhân===
*[[Hùng Vương]] diễn nghĩa
*[[Mai Thúc Loan]]
*[[Mai Thúc Loan]]
*[[Phạm Đình Trọng]] (Nxb Thanh Bình - Hà Nội, 1952)
*[[Cao Bá Quát]] (Nxb Tân Dân - Hà Nội, 1940)
*[[Cao Bá Quát]] (Nxb Tân Dân - Hà Nội, 1940)
*[[Nguyễn Trãi]] (Nxb Tân Dân - Hà Nội, 1941)
*[[Nguyễn Trãi]] (Nxb Tân Dân - Hà Nội, 1941)
Dòng 62: Dòng 57:
*[[Chu Mạnh Trinh]] (Nxb Cộng Lực - Hà Nội, 1942)
*[[Chu Mạnh Trinh]] (Nxb Cộng Lực - Hà Nội, 1942)
*[[Bùi Huy Bích]] (Nxb Tân Dân - Hà Nội, 1944), v.v...
*[[Bùi Huy Bích]] (Nxb Tân Dân - Hà Nội, 1944), v.v...
*[[Phạm Đình Trọng]] (Nxb Thanh Bình - Hà Nội, 1952)

*[[Lý Bạch]]
*[[Đỗ Phủ]]
*[[Vũ Phạm Khải]], v.v...
===Biên khảo===
===Biên khảo===
*Lịch sử khôi phục quốc quyền của ba nước Đông phương
*Thánh [[Gandhi]] với cuộc vận động độc lập ở [[Ấn Độ]].
*Lịch sử Nam tiến của dân tộc ta
*[[Hùng Vương]] diễn nghĩa
*Tình sử [[Việt Nam]] (Nxb Tân Dân - Hà Nội, 1941), v.v...
*Tình sử [[Việt Nam]] (2 tập. Nxb Tân Dân - Hà Nội, 1941), v.v...
*Vấn đề cải cách lễ tục [[Việt Nam]]

*Khảo về Đạo giáo
*Khảo về các nguồn gốc các thể thơ từ Trung Quốc
*Ba Lan phục hưng, v.v...
===Tạp văn===
===Tạp văn===
*Hồn quê I, II
*Hồn quê I, II
===Dịch thuật===
===Dịch thuật===
*[[Kinh Thi]] (Nxb Cộng lực)
*Tình sử [[Trung Hoa]] (2 tập. Nxb Tân Dân - Hà Nội, 1940-1941)
*Thánh [[Gandhi]] với cuộc vận động độc lập ở [[Ấn Độ]].
*Đồng mệnh điểu
*Đồng mệnh điểu
*Ngọc Lê hồn
*Ngọc Lê hồn
*Hán sở tranh hùng
*Hán sở tranh hùng
*Tôn Ngô binh pháp
*Tôn Ngô binh pháp
*[[Maxime Gorki]]
*Ẩm băng văn tập
*[[Lĩnh Nam chích quái]]
*Tình sử (Nxb Tân Dân - Hà Nội, 1940-1941)
*Mắng kẻ bàng quan (Ẩm băng văn tập)
*[[Truyền kỳ mạn lục]] (Nxb Tân Dân - Hà Nội, 1943)
*[[Truyền kỳ mạn lục]] (Nxb Tân Dân - Hà Nội, 1943)
*[[Tang thương ngẫu lục]] (Nxb Tân Dân - Hà Nội, 1943)
*[[Tang thương ngẫu lục]] (Nxb Tân Dân - Hà Nội, 1943)
*[[Ức Trai thi văn tập]] (Nxb Lê Cường - Hà Nội, 1945)
*[[Nguyễn Trãi|Ức Trai]] thi văn tập (Nxb Lê Cường - Hà Nội, 1945)
*Mắng kẻ bàng quan
*Phụ nữ [[Đức]]-[[Ý]]
*Phụ nữ [[Đức]]-[[Ý]]
*[[Ba Lan]] phục hưng sử
*[[Ba Lan]] phục hưng sử
*Bao Công kỳ án (Nxb Thực Nghiệp - Hà Nội, 1925)
*[[Bao Công]] kỳ án (Nxb Thực Nghiệp - Hà Nội, 1925)
*[[Lý Đỗ]] (Nxb Cộng Lực - Hà Nội, 1944), v.v...
*[[Lý Bạch|Lý]] [[Đỗ Phủ|Đỗ]] (Nxb Cộng Lực - Hà Nội, 1944)
*Tùy Đường diễn nghĩa

*[[Mãn Thanh]] nhập đế
*Sách thuốc Hoàng đế nội kinh tố vấn, v.v...
===Truyện thiếu nhi===
===Truyện thiếu nhi===
*Ông Hổ (Nxb Tân Dân - Hà Nội, 1942)
*Ông Hổ (Nxb Tân Dân - Hà Nội, 1942)
*Phạm Tử Hư lên chầu trời...<ref> Xem thư mục đầy đủ trong ''Tuyển tập Trúc Khê Ngô Văn Triện'', tr. 1154-1157.</ref>
*Lên trời...


==Nhận xét==
==Nhận xét==
===Tác giả===
===Tác giả===
Nhắc đến Trúc Khê, Lữ Huy Nguyên có lần đã bộc bạch như sau:
Nói đến Trúc Khê, Lữ Huy Nguyên có lần đã bộc bạch như sau:
:''...Tôi vẫn cứ muốn tin rằng nhà văn Trúc Khê đang hiện diện giữa chúng ta, chân đi giày [[Gia Định]], áo the khăn xếp, bộ quốc phục mà ông vẫn thường vận những ngày làm báo ''Tiểu thuyết thứ bảy'' hay ''Phổ thông bán nguyệt san''. Con người phong nhã, lịch thiệp, nghiêm túc, đạo đức ấy không nghiện thứ gì...''
:''...Tôi vẫn cứ muốn tin rằng nhà văn Trúc Khê đang hiện diện giữa chúng ta, chân đi giày [[Gia Định]], áo the khăn xếp, bộ quốc phục mà ông vẫn thường vận những ngày làm báo ''Tiểu thuyết thứ bảy'' hay ''Phổ thông bán nguyệt san''. Con người phong nhã, lịch thiệp, nghiêm túc, đạo đức ấy không nghiện thứ gì...''
Trong Lời bạt in trong tập thơ [[Lý Bạch]] do Trúc Khê dịch, Lữ Huy Nguyên cũng đã viết:
Trong Lời bạt in trong tập thơ [[Lý Bạch]] do Trúc Khê dịch, Lữ Huy Nguyên cũng đã viết:
Dòng 98: Dòng 104:


===Tác phẩm===
===Tác phẩm===
Trúc Khê không lấy văn chương làm mục đích. Mục đích của ông là làm sao cho “ích nước lợi dân”. Ông khảo cứu, dịch thuật, biên soạn…đều nhằm mục đích ấy…Lòng yêu nước của ông là việc nâng cao dân trí. Nói sao cho dân hiểu, gợi sao cho dân tự nghĩ…để tự đứng dậy giải phóng mình. Vì lẽ đó, mặc dù ông tạ thế ở tuổi 46, nhưng cũng đã làm được nhiều việc. Những nhận xét của ông về văn chương, về thời thế, về [[lịch sử]]...đến nay vẫn còn nhiều ý nghĩa...<ref>Theo Vũ Quần Phương, Lời giới thiệu cho bộ sách ''Tuyển tập Trúc Khê Ngô Văn Triện'', tr. 13.</ref>
Trong bộ sách ''Nhà văn hiện đại'', [[Vũ Ngọc Phan]] xếp Trúc Khê vào ''Những nhà viết ký sự & truyện ký''. Đề cập đến hai tác phẩm của Trúc Khê là ''Cao Bá Quát'' và ''Nguyễn Trãi'', Vũ Ngọc Phan có lời nhận xét chung rằng:
:''Quyển Cao Bá Quát là một quyển truyện ký có giá trị. Soạn giả đã sưu tầm công phu.Và tác phẩm này thiết thực thế nào thì quyển ''Nguyễn Trãi'' có nhiều hoang đường thế ấy...Chép chuyện anh hùng hào kiệt, ta không nên xen lẫn những sự hoang đường vào, vì những sự hoang đường chỉ làm giảm sự vẻ vang của người anh hùng thôi. Xét mặt khác, tác giả đã để cho cái vai [[Nguyễn Trãi]] bị chìm đắm trong nhiều đoạn khá dài. Khiến người ta tưởng đây là một quyển chép chuyện [[Lê Lợi]] mà Nguyễn Trãi chỉ là một vai phụ <ref>Vũ Ngọc Phan, ''Nhà văn hiện đại'' (trọn bộ), tr. 552 và 554.</ref>.


Nhà nghiên cứu Văn Tâm trong ''Từ điển Văn học'' (bộ mới), có lời nhận xét khái quát như sau:
Nói về sự nghiệp văn chương của Trúc Khê, nhà nghiên cứu Văn Tâm trong ''Từ điển Văn học'' (bộ mới), có lời nhận xét khái quát như sau:
:''Trúc Khê dịch thơ chưa thật đặc sắc, nhưng cố gắng bám sát nguyên tác; biên khảo với tinh thần cấp tiến... Một bộ phận đáng chú ý trong sự nghiệp văn học của ông là những truyện ký danh nhân. Tất nhiên, không tránh khỏi hạn chế về nội dung tư tưởng & hình thức nghệ thuật; nhưng với quan điểm tiến bộ, vốn Hán học sâu rộng, và bút pháp cũng khá nhuần nhị; ông truyền đạt tư liệu lịch sử có hệ thống, việt được một số trang khá hấp dẫn với những lời bình đúng mực.''
:''Trúc Khê dịch thơ chưa thật đặc sắc, nhưng cố gắng bám sát nguyên tác; biên khảo với tinh thần cấp tiến... Một bộ phận đáng chú ý trong sự nghiệp văn học của ông là những truyện ký danh nhân. Tất nhiên, không tránh khỏi hạn chế về nội dung tư tưởng hình thức nghệ thuật; nhưng với quan điểm tiến bộ, vốn Hán học sâu rộng, và bút pháp cũng khá nhuần nhị; ông truyền đạt tư liệu lịch sử có hệ thống, việt được một số trang khá hấp dẫn với những lời bình đúng mực.''
:''Vốn có lòng yêu nước, cho nên ông đã viết một số phẩm theo thể loại này cốt để đề cao tinh thần dân tộc như chính ông có lần bộc lộ: "Tiểu thuyết lịch sử...phải làm cho người đọc sinh lòng nhớ mến nước cũ, có mối cảm tình thắm thiết với chủng tộc, giang sơn"<ref> Lược theo ''Từ điển Văn học'' (bộ mới) , tr. 1828.</ref>.
:''Vốn có lòng yêu nước, cho nên ông đã viết một số phẩm theo thể loại này cốt để đề cao tinh thần dân tộc như chính ông có lần bộc lộ: "Tiểu thuyết lịch sử...phải làm cho người đọc sinh lòng nhớ mến nước cũ, có mối cảm tình thắm thiết với chủng tộc, giang sơn"<ref> Lược theo ''Từ điển Văn học'' (bộ mới) , tr. 1828.</ref>.


== Sách tham khảo==
*[[Vũ Ngọc Phan]], ''Nhà văn hiện đại (trọn bộ)''. Nxb Sống mới, [[Sài Gòn]], 1960.
*Văn Tâm, mục từ “Trúc Khê” in trong ''Từ điển Văn học'' (bộ mới). Nxb Thế giới, 2004.
*Nguyễn Q. Thắng - Nguyễn Bá Thế, ''Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam'', Nxb KHXH, 1992.
*Tuyển tập Trúc Khê Ngô Văn Triện. Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, 2003.
==Chú thích==
==Chú thích==
{{reflist}}
{{reflist}}

== Tài liệu tham khảo==
*[[Vũ Ngọc Phan]] , ''Nhà văn hiện đại (trọn bộ)''. Nxb Sống mới, [[Sài Gòn]], 1960.
*''Từ điển Văn học'' (bộ mới). Nxb Thế giới, 2004.
*Nguyễn Q. Thắng & Nguyễn Bá Thế, ''Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam'', Nxb KHXH, 1992.

==Liên kết ngoài==
==Liên kết ngoài==
{{wikisource tác giả|Trúc Khê}}
{{wikisource tác giả|Trúc Khê}}
Dòng 121: Dòng 125:
[[Thể loại:Nhà văn Việt Nam thời Pháp thuộc]]
[[Thể loại:Nhà văn Việt Nam thời Pháp thuộc]]
[[Thể loại:Nhà báo Việt Nam]]
[[Thể loại:Nhà báo Việt Nam]]
[[Thể loại:Người chủ báo]]
{{Thời gian sống|sinh=1901|mất=1947}}
{{Thời gian sống|sinh=1901|mất=1947}}

Phiên bản lúc 21:37, ngày 26 tháng 5 năm 2011

Trúc Khê Ngô Văn Triện
Trúc Khê Ngô Văn Triện
Trúc Khê Ngô Văn Triện
Sinh1901
Từ Liêm, Hà Nội, Việt Nam
Mất1947
Hà Nội
Nghề nghiệpnhà văn, nhà báo, nhà cách mạng Việt Nam

Trúc Khê (1901-1947), tên thật là Ngô Văn Triện; các bút danh khác là: Cấm Khê, Kim Phượng, Đỗ Giang, Khâm Trai, Ngô Sơn, Hạo Nhiên Đình. Ông là nhà văn, nhà báo, nhà cách mạng Việt Nam.

Cuộc đời

Trúc Khê sinh ngày 22 tháng 5 năm 1901 trong một gia đình gốc nông dân và tiểu thủ công ở thôn Thị Cấm, xã Phương Canh, huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (nay là xã Xuân Phương, huyện Từ Liêm, Hà Nội).

Năm lên 6 tuổi, ông học chữ Hán với một ông đồ ở trong làng. Năm 11 tuổi, ông học Quốc ngữ ở trường Pháp-Việt, tự học thêm tiếng Pháp, đồng thời vẫn tiếp tục học chữ Hán, dù sau này triều đình Huế đã bỏ thi khoa cử. Vừa học, vừa đi chăn trâu, đến năm 16-17 tuổi, ông đi làm thợ đan đăng ten rồi sang làm thợ đóng sách ở nhà in Thực Nghiệp, Hà Nội [1].

Năm 19 tuổi, bài viết đầu tay của ông: Cải lương hương tục, được đăng trên tờ Trung Bắc tân văn năm 1920.

Năm 1926, ông vào làm trong ban biên tập của Thực nghiệp dân báo. Khoảng năm 1927, ông dự định tìm người đồng chí hướng thành lập đảng Tân Dân, chủ trương đánh đuổi thực dân Pháp. Nhưng khi gặp Phạm Tuấn Tài, ông theo nhóm Nam Đồng thư xã; rồi sau nữa, khi Việt Nam Quốc dân Đảng được thành lập, ông theo đảng phái này.

Năm 1928, Trúc Khê mở Trúc Khê thư cục ở trên gác nhà số 196 phố Hàng Bông (Hà Nội) để tự xuất bản sách của minh. Ông hoạt động chính trị cho đến năm 1929, thì bị nhà cầm quyền Pháp bắt giam ở Hỏa Lò (Hà Nội), nhận án 2 năm tù treo và 5 năm quản thúc.

Ra tù, ông theo hẳn nghề báo. Năm 1933, ông làm Chủ bút báo Bắc Hà. Năm 1934, ông làm Chủ bút báo Thương mại. Từ 1935, ông chuyên viết cho các báo Tiểu thuyết thứ bẩy, Phổ thông bán nguyệt san, Tao đàn...Từ năm 1941, ông còn viết cho các báo Tri tân, Nước Nam, Đông Tây, Ích hữu, Dân báo, Khuyến học, Tri Tân, Quốc gia, Truyền bá, Đông phương nhật báo, v.v...

Mặt khác, từ năm 1937 đến 1945, ông còn trước tác, dịch thuật và biên khảo khoảng 60 cuốn sách.

Năm 1941 đến 1945, ông tham gia phong trào truyền bá Quốc ngữ tại Hà Nội.

Năm 1946, Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, ông cùng gia đình lên ở Trại Ro, xã Nghĩa Hương, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội). Ở đây, ông giao liên đưa lên chiến khu Việt Bắc tham gia kháng chiến chống Pháp, nhưng chưa kịp đi thì lâm bệnh nặng rồi mất (26 tháng 8 năm 1947) tại nơi đó, hưởng dương 46 tuổi.

Năm 2005, Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội đặt tên phố Trúc Khê cho một con đường tại phường Láng Hạ, quận Đống Đa, nối đường Nguyễn Chí Thanh với phố Vũ Ngọc Phan.

Tác phẩm chính

Trong hơn 20 năm cầm bút Trúc Khê đã để lại gần 60 tác phẩm, không kể các bài bình luận, biên khảo đăng rải rác trên các báo. Các tác phẩm chính có:

Thơ

  • Chợ chiều
  • Đò chiều

Tiểu thuyết

  • Trăm lạng vàng (Nxb Tân Dân - Hà Nội, 1942)
  • Nát ngọc (Nxb Tân Dân - Hà Nội, 1939)
  • Hồn về
  • Trăm lạng vàng (tiểu thuyết lịch sử)

Truyện ký danh nhân

Biên khảo

  • Lịch sử khôi phục quốc quyền của ba nước Đông phương
  • Lịch sử Nam tiến của dân tộc ta
  • Tình sử Việt Nam (2 tập. Nxb Tân Dân - Hà Nội, 1941), v.v...
  • Vấn đề cải cách lễ tục Việt Nam
  • Khảo về Đạo giáo
  • Khảo về các nguồn gốc các thể thơ từ Trung Quốc
  • Ba Lan phục hưng, v.v...

Tạp văn

  • Hồn quê I, II

Dịch thuật

Truyện thiếu nhi

  • Ông Hổ (Nxb Tân Dân - Hà Nội, 1942)
  • Phạm Tử Hư lên chầu trời...[2]

Nhận xét

Tác giả

Nói đến Trúc Khê, Lữ Huy Nguyên có lần đã bộc bạch như sau:

...Tôi vẫn cứ muốn tin rằng nhà văn Trúc Khê đang hiện diện giữa chúng ta, chân đi giày Gia Định, áo the khăn xếp, bộ quốc phục mà ông vẫn thường vận những ngày làm báo Tiểu thuyết thứ bảy hay Phổ thông bán nguyệt san. Con người phong nhã, lịch thiệp, nghiêm túc, đạo đức ấy không nghiện thứ gì...

Trong Lời bạt in trong tập thơ Lý Bạch do Trúc Khê dịch, Lữ Huy Nguyên cũng đã viết:

Ông là người ưa thích hoạt động xã hội, tinh thần tự học rất cao và liên tục. Hồi còn đi học, ông học cả trong lúc ăn, lúc xay lúa giã gạo, đi đâu cũng mang sách theo. Ông là người có tinh thần dân tộc ngay cả trong suy nghĩ, sáng tác, nghiên cứu cũng như trong sinh hoạt, ứng xử. Một người giàu lòng hiếu khách, yêu thiên nhiên hoa cỏ[3].

Tác phẩm

Trúc Khê không lấy văn chương làm mục đích. Mục đích của ông là làm sao cho “ích nước lợi dân”. Ông khảo cứu, dịch thuật, biên soạn…đều nhằm mục đích ấy…Lòng yêu nước của ông là việc nâng cao dân trí. Nói sao cho dân hiểu, gợi sao cho dân tự nghĩ…để tự đứng dậy giải phóng mình. Vì lẽ đó, mặc dù ông tạ thế ở tuổi 46, nhưng cũng đã làm được nhiều việc. Những nhận xét của ông về văn chương, về thời thế, về lịch sử...đến nay vẫn còn nhiều ý nghĩa...[4]

Nói về sự nghiệp văn chương của Trúc Khê, nhà nghiên cứu Văn Tâm trong Từ điển Văn học (bộ mới), có lời nhận xét khái quát như sau:

Trúc Khê dịch thơ chưa thật đặc sắc, nhưng cố gắng bám sát nguyên tác; biên khảo với tinh thần cấp tiến... Một bộ phận đáng chú ý trong sự nghiệp văn học của ông là những truyện ký danh nhân. Tất nhiên, không tránh khỏi hạn chế về nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật; nhưng với quan điểm tiến bộ, vốn Hán học sâu rộng, và bút pháp cũng khá nhuần nhị; ông truyền đạt tư liệu lịch sử có hệ thống, việt được một số trang khá hấp dẫn với những lời bình đúng mực.
Vốn có lòng yêu nước, cho nên ông đã viết một số phẩm theo thể loại này cốt để đề cao tinh thần dân tộc như chính ông có lần bộc lộ: "Tiểu thuyết lịch sử...phải làm cho người đọc sinh lòng nhớ mến nước cũ, có mối cảm tình thắm thiết với chủng tộc, giang sơn"[5].

Sách tham khảo

  • Vũ Ngọc Phan, Nhà văn hiện đại (trọn bộ). Nxb Sống mới, Sài Gòn, 1960.
  • Văn Tâm, mục từ “Trúc Khê” in trong Từ điển Văn học (bộ mới). Nxb Thế giới, 2004.
  • Nguyễn Q. Thắng - Nguyễn Bá Thế, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, Nxb KHXH, 1992.
  • Tuyển tập Trúc Khê Ngô Văn Triện. Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, 2003.

Chú thích

  1. ^ Theo Đăng Bẩy trong bài viết “Trúc Khê - danh sĩ Bắc Hà” in trong Tuyển tập Trúc Khê Ngô Văn Triện (tr. 1170).
  2. ^ Xem thư mục đầy đủ trong Tuyển tập Trúc Khê Ngô Văn Triện, tr. 1154-1157.
  3. ^ Trích Nhớ Trúc Khê [1]
  4. ^ Theo Vũ Quần Phương, Lời giới thiệu cho bộ sách Tuyển tập Trúc Khê Ngô Văn Triện, tr. 13.
  5. ^ Lược theo Từ điển Văn học (bộ mới) , tr. 1828.

Liên kết ngoài