Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Một quốc gia, hai chế độ”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 18: Dòng 18:
==Trung Hoa dân quốc/Đài Loan==
==Trung Hoa dân quốc/Đài Loan==
==So sánh với Tây Tạng==
==So sánh với Tây Tạng==
Các nhà lãnh đạo của Tây Tạng cũng tỏ ý mong muốn một chính sách tương tự cho khu tự trị này. Tuy nhiên, [[Bắc Kinh]] đã bác bỏ chúng vì cho rằng Tây Tạng khác với các phần lãnh thổ trên là chưa bao giờ trở thành [[thuộc địa]] chính thức của quốc gia nào.
{{Sơ khai}}
{{Sơ khai}}



Phiên bản lúc 13:02, ngày 27 tháng 6 năm 2011

Một quốc gia, hai chế độ là một ý tưởng được Đặng Tiểu Bình - lãnh tụ tối cao của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đề xuất trong quá trình tái thống nhất Trung Quốc vào đầu thập niên 1980. Đặng mong muốn thành lập một Trung Quốc duy nhất, nhưng các phần lãnh thổ độc lập như Hồng-kông, Ma-caoĐài Loan (ngày nay tồn tại dưới tư cách đặc khu hành chínhtỉnh trên danh nghĩa) có thể duy trì hệ thống kinh tế - chính trị của chủ nghĩa tư bản trong khi phần còn lại: Trung Hoa đại lục nằm dưới chế độ xã hội chủ nghĩa. Theo đề nghị này, mỗi khu vực có thể tiếp tục hệ thống chính trị riêng, các vấn đề pháp lý, kinh tế và tài chính, bao gồm cả các hiệp định thương mại và văn hóa với nước ngoài sẽ được hưởng một số quyền nhất định. Đài Loan có thể tiếp tục duy trì lực lượng quân sự riêng của nó, nhằm tránh công nhận Đài Loan như một phần của Trung Hoa dân quốc.

Chính sách này được thực hiện khá cứng rắn, trong đó Trung Quốc đồng nghĩa với Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa. Nguyên tắc này yêu cầu tất cả các quốc gia muốn thiết lập quan hệ ngoại giao với Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa phải công nhận chính sách này và không được duy trì quan hệ với Trung Hoa dân quốc. Việc công nhận chỉ có một Trung Quốc (mặc dù không nhất thiết phải đồng nhất "Trung Quốc" đồng nghĩa với Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa) cũng là một điều kiện tiên quyết mà Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa đặt ra trong khi đàm phán với chính quyền Trung Hoa dân quốc.

Hồng kông và Macao

Năm 1984, Đặng Tiểu Bình đề xuất áp dụng các nguyên tắc đến Hồng kông trong cuộc hội đàm với Thủ tướng Anh Margaret Thatcher về tương lai của Hồng kông khi việc cho Vương quốc Anh thuê các vùng lãnh thổ mới (bao gồm cả New Kowloon) của Hồng Kông đã hết hạn vào năm 1997. Một nguyên tắc tương tự cũng đã được đề xuất đàm phán với Bồ Đào Nha về Macau.

Nguyên tắc có nội dung: sau khi thống nhất đất nước, dù chủ nghĩa xã hội được thực hiện ở Trung Quốc đại lục, nhưng Hồng KôngMa Cao, tương ứng là thuộc địa của Anh và Bồ Đào Nha, có thể duy trì hệ thống của họ với quyền tự chủ cao ít nhất cho đến 50 năm sau khi Trung Quốc thống nhất. Điều gì sẽ xảy ra sau năm 2047 (Hong Kong) và 2049 (Macau) chưa bao giờ được công khai tuyên bố.

Chương 1, Điều 5 của Luật Cơ bản Hồng Kông, các tài liệu hiến pháp của Hồng Kông đặc khu hành chính, lần đọc:

Hệ thống xã hội chủ nghĩa, chính sách không được thực hành tại Hồng Kông đặc khu hành chính, và hệ thống tư bản chủ nghĩa trước đây và cách sống thì vẫn không thay đổi trong 50 năm.

Việc thành lập các khu vực này, được gọi là đặc khu hành chính(SAR), được ủy quyền theo Điều 31 của Hiến pháp nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, phát biểu rằng Nhà nước có thể thiết lập SAR khi cần thiết, và rằng các hệ thống được thiết lập trong đó có trách nhiệm được pháp luật quy định được ban hành bởi Quốc hội Nhân dân trong ánh sáng của các điều kiện cụ thể.

Các SAR của Hồng Kông và Ma Cao đã được chính thức thành lập vào ngày 01 tháng 7 năm 1997 và ngày 20 tháng 12 năm 1999 tương ứng, ngay lập tức sau khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (Trung Quốc) đảm nhận chủ quyền đối với khu vực tương ứng.

Trung Hoa dân quốc/Đài Loan

So sánh với Tây Tạng

Các nhà lãnh đạo của Tây Tạng cũng tỏ ý mong muốn một chính sách tương tự cho khu tự trị này. Tuy nhiên, Bắc Kinh đã bác bỏ chúng vì cho rằng Tây Tạng khác với các phần lãnh thổ trên là chưa bao giờ trở thành thuộc địa chính thức của quốc gia nào.