Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tố Hữu”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 112: Dòng 112:
Ở Tố Hữu có sự thống nhất đẹp đẽ giữa cuộc đời cách mạng và cuộc đời thơ. Chặng đường thơ của Tố Hữu là chặng đường lịch sử của cả một dân tộc. Ông được coi là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng và kháng chiến, được tôn vinh là ''“nhà thơ của cách mạng”, “nhà thơ của nhân dân”, “ngọn cờ chiến đấu của thơ ca cách mạng Việt Nam”, “người có công đầu xây dựng nền thơ ca cách mạng Việt Nam”, "một cuộc đời trọn vẹn với Cách mạng - Nghệ thuật - Tình yêu”, “nhà thơ của chủ nghĩa nhân văn cách mạng”''<ref>http://www.nhandan.com.vn/hangthang/van-hoa/tho/item/27826102-to-huu-%E2%80%9Cong-hoang%E2%80%9D-cua-tho-tinh-yeu-lang-man-cach-mang.html</ref>
Ở Tố Hữu có sự thống nhất đẹp đẽ giữa cuộc đời cách mạng và cuộc đời thơ. Chặng đường thơ của Tố Hữu là chặng đường lịch sử của cả một dân tộc. Ông được coi là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng và kháng chiến, được tôn vinh là ''“nhà thơ của cách mạng”, “nhà thơ của nhân dân”, “ngọn cờ chiến đấu của thơ ca cách mạng Việt Nam”, “người có công đầu xây dựng nền thơ ca cách mạng Việt Nam”, "một cuộc đời trọn vẹn với Cách mạng - Nghệ thuật - Tình yêu”, “nhà thơ của chủ nghĩa nhân văn cách mạng”''<ref>http://www.nhandan.com.vn/hangthang/van-hoa/tho/item/27826102-to-huu-%E2%80%9Cong-hoang%E2%80%9D-cua-tho-tinh-yeu-lang-man-cach-mang.html</ref>


Trong 2 cuộc kháng chiến, Tố Hữu đã sáng tác rất nhiều bài thơ để cổ vũ tinh thần cho chiến sỹ và nhân dân. Nổi tiếng nhất là những bài thơ như ''"Việt Bắc", "Lượm", "Hoan Hô Chiến Sĩ Điện Biên", "Việt Nam Máu Và Hoa", "Từ Cu-ba"'':
Trong 2 cuộc kháng chiến, Tố Hữu đã sáng tác rất nhiều bài thơ để cổ vũ tinh thần cho chiến sỹ và nhân dân. Nổi tiếng nhất là những bài thơ như ''"Việt Bắc", "Lượm", "Hoan Hô Chiến Sĩ Điện Biên", "Việt Nam Máu Và Hoa", "Từ Cu-ba"''... với những đoạn trích tiêu biểu:
*Bài thơ "Việt Bắc": ''"Ở đâu u ám quân thù/ Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi/ Ở đâu đau đớn giống nòi/ Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền."''
*
*Tháng 5/1954, ông sáng tác bài thơ "Hoan Hô Chiến Sĩ Điện Biên": ''"Kháng chiến ba nghìn ngày/ Không đêm nào vui bằng đêm nay/ Đêm lịch sử Điện Biên sáng rực/ Trên đất nước, như Huân chương trên ngực/ Dân tộc ta dân tộc anh hùng!... Hoan hô chiến sĩ Điện Biên/ Chiến sĩ anh hùng/ Đầu nung lửa sắt/ Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt/ Máu trộn bùn non/ Gan không núng/ Chí không mòn!"''
*Năm [[1966]], bức ảnh ''[[O du kích nhỏ]]'' được trưng bày trong Triển lãm ảnh toàn quốc và lập tức gây được tiếng vang lớn, nhà thơ [[Tố Hữu]] đã nảy ra những câu thơ nổi tiếng, có thể coi là mẫu mực của loại thơ ''"xem ảnh đề thơ"'' hoặc là ''"vịnh ảnh"'' và bình bức ảnh bằng bốn câu thơ:
*Năm [[1966]], bức ảnh ''[[O du kích nhỏ]]'' được trưng bày trong Triển lãm ảnh toàn quốc và lập tức gây được tiếng vang lớn, nhà thơ [[Tố Hữu]] đã nảy ra những câu thơ nổi tiếng, có thể coi là mẫu mực của loại thơ ''"xem ảnh đề thơ"'' hoặc là ''"vịnh ảnh"'' và bình bức ảnh bằng bốn câu thơ:
{|
{|
|{{cquote|''O du kích nhỏ giương cao súng''.<br />''Thằng Mỹ lênh khênh bước cúi đầu''.<br />''Ra thế! To gan hơn béo bụng''.<br />''Anh hùng đâu cứ phải mày râu!''}}
|{{cquote|''O du kích nhỏ giương cao súng''.<br />''Thằng Mỹ lênh khênh bước cúi đầu''.<br />''Ra thế! To gan hơn béo bụng''.<br />''Anh hùng đâu cứ phải mày râu!''}}
*Tháng 1/1973, sau chiến thắng [[Điện Biên Phủ trên không]], ông sáng tác Bài thơ "Việt Nam Máu Và Hoa": "Trắng khăn tang, em chẳng khóc đâu/ Hỡi em gái mất cha mất mẹ/ Nước mắt rơi, làm nhoà mặt quân thù/ Em phải bắn, trúng đầu giặc Mỹ.../ Lịch sử muốn bay cúi đầu tội lỗi/ Dưới gươm thiêng hùng khí Thủ đô/ Cả bốn biển hoan hô Hà Nội/ Pháo đài bay rụng đỏ mặt hồ."


Thơ Tố Hữu thanh đạm, dịu ngọt, thấm sâu vào tâm hồn mọi thế hệ, từ người 'đã ngã xuống cánh rừng trai trẻ' hay 'người đến với thơ ông suốt thời thơ ấu' (nhận xét của [[Nguyễn Khoa Ðiềm]]), được lưu giữ và phát huy như một sức mạnh tinh thần, một giá trị văn hóa tiềm ẩn trong con người thời đại Hồ Chí Minh<ref>http://www.nhandan.com.vn/vanhoa/item/11779102-.html</ref>.
Thơ Tố Hữu thanh đạm, dịu ngọt, thấm sâu vào tâm hồn mọi thế hệ, từ người 'đã ngã xuống cánh rừng trai trẻ' hay 'người đến với thơ ông suốt thời thơ ấu' (nhận xét của [[Nguyễn Khoa Ðiềm]]), được lưu giữ và phát huy như một sức mạnh tinh thần, một giá trị văn hóa tiềm ẩn trong con người thời đại Hồ Chí Minh<ref>http://www.nhandan.com.vn/vanhoa/item/11779102-.html</ref>.

Phiên bản lúc 01:25, ngày 26 tháng 2 năm 2019

Tố Hữu
Tố Hữu
Chức vụ
Nhiệm kỳ7 tháng 2 năm 1980 – 21 tháng 6 năm 1986
6 năm, 134 ngày
Thủ tướngPhạm Văn Đồng
Nhiệm kỳ1968 – 1982
Tiền nhiệmTrường Chinh
Kế nhiệmBùi Thanh Khiết
Nhiệm kỳ1976 – 1986
Nhiệm kỳ1960 – 1980
Thông tin chung
Danh hiệuGiải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật (năm 1996)
Quốc tịchViệt Nam
Nghề nghiệpNhà thơ, chính trị
Học vấnTrường Quốc học Huế

Tố Hữu, tên thật là Nguyễn Kim Thành (4 tháng 10 năm 19209 tháng 12 năm 2002), quê gốc ở làng Phù Lai, nay thuộc xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên-Huế. Ông là một nhà thơ tiêu biểu của thơ cách mạng Việt Nam, đồng thời là một chính trị gia. Ông đã từng giữ các chức vụ quan trọng trong hệ thống chính trị của Việt Nam như Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Phó Chủ tịch thứ Nhất Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

Nguồn gốc bút danh Tố Hữu

Theo lời Tố Hữu tự giải thích về bút danh của mình thì năm 1938 ông sang Lào thăm một người anh. Ở đây ông gặp một cụ đồ người Quảng Bình. Cụ đồ đã đặt cho ông bút danh "Tố Hữu" (chữ Hán: 素有), lấy từ câu nói của Đỗ Thị[1] "Ngô nhi tố hữu đại chí" 吾兒素有大志. Tố Hữu 素有 có nghĩa là "sẵn có, ý chỉ khí phách tiềm ẩn trong người". Tố Hữu nhận tên gọi này nhưng hiểu theo nghĩa là "người bạn trong trắng", viết bằng chữ Hán là "素友", khác với tên do cụ đồ đặt ở chữ "hữu".

Tiểu sử

Thiếu niên

Nguyễn Kim Thành sinh ngày 4 tháng 10 năm 1920 tại Thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam. Đến năm 9 tuổi, ông cùng cha trở về sống tại làng Phù Lai, nay thuộc xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Cha ông là một nhà nho nghèo, không đỗ đạt và phải kiếm sống rất chật vật nhưng lại thích thơ, thích sưu tập ca dao tục ngữ. Ông đã dạy Tố Hữu làm thơ cổ. Mẹ ông cũng là con của một nhà nho, thuộc nhiều ca dao dân ca Huế và rất thương con. Cha mẹ đã góp phần nuôi dưỡng tâm hồn thơ Tố Hữu.[2]

Mẹ ông mất vào năm ông lên 12 tuổi. Năm 13 tuổi, ông vào trường Quốc học Huế. Tại đây, được trực tiếp tiếp xúc với tư tưởng của Karl Marx, Friedrich Engels, Vladimir Ilyich Lenin, Maxim Gorky,... qua sách báo, kết hợp với sự vận động của các đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam bấy giờ (Lê Duẩn, Phan Đăng Lưu, Nguyễn Chí Diểu), Nguyễn Kim Thành sớm tiếp cận với lý tưởng cộng sản. Năm 1936 ông gia nhập Đoàn thanh niên Dân chủ Đông Dương.

Hoạt động cách mạng

Năm 1938 ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Tháng 4/1939, ông bị bắt, bị tra tấn dã man và đày đi nhà lao Thừa Phủ (Huế) rồi chuyển sang nhà tù Lao Bảo (Quảng Trị) và nhiều nhà tù khác ở Tây Nguyên. Tháng 3-1942, ông vượt ngục Đắc Glêi (nay thuộc Kon Tum)[2][3] rồi tìm ra Thanh Hóa, bắt liên lạc với Đảng (về hoạt động bí mật ở huyện Hậu Lộc và thôn Tâm Quy, xã Hà Tân, huyện Hà Trung, Thanh Hóa). Đến năm 1945, khi Cách mạng tháng Tám bùng nổ, ông được bầu làm Chủ tịch Ủy ban Khởi nghĩa Thừa Thiên - Huế.

Năm 1946, ông là Bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa. Cuối 1947, ông lên Việt Bắc làm công tác văn nghệ, tuyên huấn. Từ đó, ông được giao những chức vụ quan trọng trong công tác văn nghệ, trong bộ máy lãnh đạo Đảng và nhà nước:

  • 1948: Phó Tổng thư ký Hội Văn nghệ Việt Nam;
  • 1952: Giám đốc Nha Tuyên truyền và Văn nghệ thuộc Thủ tướng phủ;
  • 1954: Thứ trưởng Bộ Tuyên truyền;
  • 1963: Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam;
  • Tại đại hội Đảng lần II (1951): Ủy viên dự khuyết Trung ương; 1955: Ủy viên chính thức;
  • Tại đại hội Đảng lần III (1960): vào Ban Bí thư;
  • Tại đại hội Đảng lần IV (1976): Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị, Bí thư Ban chấp hành Trung ương, Trưởng ban Tuyên truyền Trung ương, Phó Ban Nông nghiệp Trung ương;
  • Từ 1980: Ủy viên chính thức Bộ Chính trị;
  • 1981: Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, rồi Phó Chủ tịch thứ nhất Hội đồng Bộ trưởng (nay gọi là Phó Thủ tướng) cho tới 1986. Ngoài ra ông còn là Bí thư Ban chấp hành Trung ương.

Trong thời gian phụ trách mảng văn nghệ, ông là người đã phê phán quyết liệt phong trào Nhân văn - Giai phẩm (1958). Nhiều ý kiến coi ông là người đóng vai trò chủ chốt trong sự kiện này[4]. Ông từng đảm nhiệm nhiều chức vụ khác như Hiệu trưởng Trường Nguyễn Ái Quốc, Trưởng ban Thống nhất Trung ương, Trưởng ban Tuyên huấn Trung ương, Trưởng ban Khoa giáo Trung ương. Ông còn là Đại biểu Quốc hội khoá II và VII.

Sau năm 1986, Việt Nam tiến hành đổi mới nhằm thoát khỏi khủng hoảng kinh tế toàn diện. Ông bị mất uy tín chính trị vì phải chịu trách nhiệm trong những vụ khủng hoảng tiền tệ những năm 1980 nên bị miễn nhiệm các chức vụ quản lý, chỉ còn giữ chức danh đại biểu quốc hội và các vai trò nghiên cứu mang tính học thuật về văn chương.

Năm 1996, ông được Nhà nước phong tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật (đợt 1).

Ông qua đời lúc 9 giờ 15 phút 7 giây, ngày 9 tháng 12 năm 2002 tại Bệnh viện 108.

Quan điểm sáng tác

  • Là nhà thơ đã chọn con đường Cách mạng từ thời thanh niên, trải qua những năm tháng tù đày, thơ của ông là tiêu biểu của quan niệm nghệ thuật Cách mạng. Ông quan niệm: "Muốn có thơ hay, trước hết, phải tạo lấy tình. Nhà thơ chân chính phải không ngừng phấn đấu, tu dưỡng về lập trường tư tưởng; xác định thật rõ ràng tầm nhìn, cách nhìn. Tự nguyện gắn bó chân thành là yêu cầu cao nhất đối với người nghệ sĩ trong quan hệ với đất nước, với nhân dân. Ngoài ra, các nhà thơ Cách mạng còn phải kiên quyết đấu tranh, không khoan nhượng trước những biểu hiện lệch lạc, với cái xấu cái ác. Tóm lại, viết thơ phải xứng đáng là người chiến sĩ xung kích trên mặt trận văn hóa tư tưởng."
  • Ngoài vai trò nhà thơ, ông còn là một nhà chính trị, một chiến sỹ cách mạng trung thành với lý tưởng Cộng sản, ông có một số bài thơ ca ngợi các lãnh tụ phong trào cộng sản quốc tế như Vladimir Lenin (Người đứng đó, Lenin), Stalin (Đời đời nhớ Ông), Mao Trạch Đông (Đường sang nước bạn), Hồ Chí Minh (Bác ơi, Cháu nhớ Bác Hồ), Fidel Castro (Từ Cuba)... Khi Liên Xô tan rã, Tố Hữu phê phán sự tráo trở, phản bội lý tưởng với những lời lên án gay gắt, xót xa: "Cả đàn sói chồm lên, cắn vào lịch sử/ Cào chiến công, xé cả xác anh hùng/ Ôi! Nỗi đau này là nỗi đau chung/ Lương tâm hỡi, lẽ nào ta tự sát". Đồng thời, ông vẫn kiên định vào niềm tin, vào lý tưởng của mình: "Lũ phản bội, điên cuồng, hèn nhát/ Và cả bầy quân cướp nước, giết người/ Chớ vội cười! Chân lý vẫn xanh tươi", "Chí ta sáng mãi một niềm tin" (Ta vẫn là xuân 1997), "Tôi giữ trọn lương tâm và lẽ phải/ Bởi Việt Nam là Hồ Chí Minh"[5][6]
  • Từ thập niên 1990, mặt trái của cơ chế thị trường bộc lộ, con người chỉ biết chạy theo danh lợi, trở nên tha hóa về đạo đức, lý tưởng. Tố Hữu đã trình bày trong thơ những tâm sự, nỗi niềm trăn trở của mình. Ông đã sớm lên án và cảnh báo sự suy đồi của đạo đức xã hội trong nhiều bài thơ như "Mùa xuân mới", "Chào xuân 99" với những câu thơ: "Mặt nạ người che lòng dạ quỷ", "Mặt đất mù sương/ Thiên hạ bâng khuâng. Rối rắm những con đường", "Cạm bẫy mạ vàng, hãy cảnh giác người ơi"... Tâm sự của nhà thơ Tố Hữu cũng là những nỗi niềm không chỉ của mình ông, vẫn mang tầm vóc thời đại và vẫn luôn thể hiện ý chí, khí phách Việt Nam và niềm tự hào dân tộc cao độ theo một giọng điệu hào sảng[7].
  • Ông từng tâm sự: “Bây giờ có người bảo thơ tôi chỉ là “thơ thời sự”, tôi đồng ý ngay vì khi làm thơ, tôi đâu có mơ nó tồn tại thiên thu. Lại có người nói thơ tôi là loại “thơ phải đạo”. Tôi bảo họ, anh nói không sai vì cổ nhân nói “văn dĩ tải đạo” (văn là để chở đạo lý), vậy tôi cũng chỉ làm thơ theo lời dạy của cổ nhân thôi. Xét cho cùng, riêng cho tôi thì chẳng có gì đáng nói, nhưng tôi không biết lớp trẻ bây giờ có hiểu sai lạc thời kỳ đẹp nhất của văn nghệ nước ta?”. Khi qua đời, Tố Hữu để lại mấy dòng thơ thể hiện triết lý cuộc đời mình: "Tạm biệt đời ta yêu quý nhất/Còn mấy dòng thơ, một nắm tro/Thơ gửi bạn đường. Tro bón đất/Sống là cho. Chết cũng là cho."[8]

Đóng góp văn học

Ở Tố Hữu có sự thống nhất đẹp đẽ giữa cuộc đời cách mạng và cuộc đời thơ. Chặng đường thơ của Tố Hữu là chặng đường lịch sử của cả một dân tộc. Ông được coi là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng và kháng chiến, được tôn vinh là “nhà thơ của cách mạng”, “nhà thơ của nhân dân”, “ngọn cờ chiến đấu của thơ ca cách mạng Việt Nam”, “người có công đầu xây dựng nền thơ ca cách mạng Việt Nam”, "một cuộc đời trọn vẹn với Cách mạng - Nghệ thuật - Tình yêu”, “nhà thơ của chủ nghĩa nhân văn cách mạng”[9]

Trong 2 cuộc kháng chiến, Tố Hữu đã sáng tác rất nhiều bài thơ để cổ vũ tinh thần cho chiến sỹ và nhân dân. Nổi tiếng nhất là những bài thơ như "Việt Bắc", "Lượm", "Hoan Hô Chiến Sĩ Điện Biên", "Việt Nam Máu Và Hoa", "Từ Cu-ba"... với những đoạn trích tiêu biểu:

  • Bài thơ "Việt Bắc": "Ở đâu u ám quân thù/ Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi/ Ở đâu đau đớn giống nòi/ Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền."
  • Tháng 5/1954, ông sáng tác bài thơ "Hoan Hô Chiến Sĩ Điện Biên": "Kháng chiến ba nghìn ngày/ Không đêm nào vui bằng đêm nay/ Đêm lịch sử Điện Biên sáng rực/ Trên đất nước, như Huân chương trên ngực/ Dân tộc ta dân tộc anh hùng!... Hoan hô chiến sĩ Điện Biên/ Chiến sĩ anh hùng/ Đầu nung lửa sắt/ Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt/ Máu trộn bùn non/ Gan không núng/ Chí không mòn!"
  • Năm 1966, bức ảnh O du kích nhỏ được trưng bày trong Triển lãm ảnh toàn quốc và lập tức gây được tiếng vang lớn, nhà thơ Tố Hữu đã nảy ra những câu thơ nổi tiếng, có thể coi là mẫu mực của loại thơ "xem ảnh đề thơ" hoặc là "vịnh ảnh" và bình bức ảnh bằng bốn câu thơ:
  • Tháng 1/1973, sau chiến thắng Điện Biên Phủ trên không, ông sáng tác Bài thơ "Việt Nam Máu Và Hoa": "Trắng khăn tang, em chẳng khóc đâu/ Hỡi em gái mất cha mất mẹ/ Nước mắt rơi, làm nhoà mặt quân thù/ Em phải bắn, trúng đầu giặc Mỹ.../ Lịch sử muốn bay cúi đầu tội lỗi/ Dưới gươm thiêng hùng khí Thủ đô/ Cả bốn biển hoan hô Hà Nội/ Pháo đài bay rụng đỏ mặt hồ."

Thơ Tố Hữu thanh đạm, dịu ngọt, thấm sâu vào tâm hồn mọi thế hệ, từ người 'đã ngã xuống cánh rừng trai trẻ' hay 'người đến với thơ ông suốt thời thơ ấu' (nhận xét của Nguyễn Khoa Ðiềm), được lưu giữ và phát huy như một sức mạnh tinh thần, một giá trị văn hóa tiềm ẩn trong con người thời đại Hồ Chí Minh[10].

Các tác phẩm

  • " Lượm " (1949)
  • Từ ấy (1946)
  • Việt Bắc (1954)
  • Gió lộng (1961)
  • Ra trận (1962-1971)
  • Máu và Hoa (1977)
  • Từ Cuba ("...Lởn vởn ngoài khơi những bóng ma/ Hai con tàu Mỹ ngó dòm ta/ Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!/ Chẳng thấy Cu-ba đứng đấy à?/ Cho lũ bay rình, giương mắt trông:/ Cu-ba đây, chói ngọn cờ hồng/ Cu-ba đạp sóng trùng dương tiến/ Oai hùng như chiến hạm Rạng Đông!...")
  • Một tiếng đờn (1992)
  • Ta với ta (1999)
  • Xây dựng một nền văn nghệ lớn xứng đáng với nhân dân ta, thời đại ta (tiểu luận, 1973)
  • Cuộc sống cách mạng và văn học nghệ thuật (tiểu luận, 1981)

Bài thơ tiêu biểu


Bài thơ cuối cùng

Tạm biệt đời ta yêu quý nhất

Còn mấy dòng thơ, một nắm tro.

Thơ gửi bạn đường. Tro bón đất

Sống là cho. Chết cũng là cho.[12]

Phong tặng và Giải thưởng văn học chính

  • Giải nhất giải thưởng văn học Hội Văn nghệ Việt Nam 1954-1955 (tập thơ Việt Bắc)
  • Giải thưởng Văn học ASEAN của Thái Lan năm 1996 cho tập thơ "Một tiếng đờn".
  • Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học – Nghệ thuật (đợt 1, 1996)
  • Huân chương Sao Vàng (1994)
  • Nhiều giải thưởng, danh hiệu khác...

Sự kiện rắc rối sau khi ông mất

Ông qua đời năm 2002 vì bệnh nặng. Bài phỏng vấn Tố Hữu với tựa đề: "Gặp Tố Hữu tại biệt thự 76 Phan Đình Phùng" của Nhật Hoa Khanh được công bố sau khi ông mất đã gặp phải sự phản đối từ gia đình ông. Vào tháng 4 năm 2004, tài liệu này bắt đầu được phổ biến trong giới văn nghệ, báo chí tại Việt Nam. Vào tháng 5 năm 2004, báo Quân đội Nhân dân trích đăng 3 kì từ tài liệu này với nhan đề "Tố Hữu" và "Hoan hô chiến sĩ Điện Biên" (kì số 3 vào ngày 7 tháng 5 năm 2004). Ngoài ra bài này cũng được đăng thành nhiều phần nhỏ trong các báo khác như Nhân dân, Tiền Phong Chủ Nhật, Người Hà Nội... Nội dung bài phỏng vấn có nhắc tới các sự kiện văn hóa trước đây như Nhân văn-Giai phẩm, phong trào sáng tác thơ văn cách mạng, ông Tố Hữu có những lời ca ngợi các người này.

Bài phỏng vấn được thực hiện năm 1997, nhưng đến khi phổ biến thì bị bà Vũ Thị Thanh, vợ của Tố Hữu, phủ nhận và cho đó là những tài liệu giả mạo "pha chế nhiều ý kiến riêng, mượn danh Tố Hữu, biến Tố Hữu thành người phát ngôn cho ý mình". Bà yêu cầu cơ quan chức năng vào cuộc để điều tra làm rõ sự giả mạo của tài liệu này, nhưng ông Nhật Hoa Khanh nói có đầy đủ băng ghi âm ghi lại cuộc nói chuyện của ông với Tố Hữu. Bài phỏng vấn là thực hay giả chưa rõ, nhưng thực tế nó đã được các tờ báo chính thống ở Việt Nam phổ biến. Sau đó sự kiện này không được các cơ quan báo chí, văn nghệ nhắc tới nữa[13].

Câu nói

Đấu tranh chống Nhân văn giai phẩm

Tố Hữu, khi đó là Ủy viên Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, phụ trách về công tác văn hóa văn nghệ, tuyên truyền được coi là người kiên quyết phản đối và tham gia dập tắt Nhân văn–giai Phẩm, một phong trào mà ông cho là đã lợi dụng phê bình văn nghệ để tuyên truyền chống phá về chính trị, chống lại sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Trong cuốn Qua cuộc đấu tranh chống nhóm phá hoại "Nhân Văn - Giai Phẩm" trên mặt trận văn nghệ, nhà xuất bản Văn Hoá, 1958, mà ông là tác giả, Tố Hữu đã nhận định về phong trào này và những người bị coi là dính líu như sau:

Lật bộ áo "Nhân Văn - Giai Phẩm" thối tha, người ta thấy ra cả một ổ phản động toàn những gián điệp, mật thám, lưu manh, trốt-kít, địa chủ tư sản phản động, quần tụ trong những tổ quỷ với những gái điếm, bàn đèn, sách báo chống cộng, phim ảnh khiêu dâm; (trg 9. Sđd). Trong cái công ty phản động "Nhân Văn - Giai Phẩm" ấy thật sự đủ mặt các loại "biệt tính": từ bọn Phan Khôi, Trần Duy mật thám cũ của thực dân Pháp đến bọn gián điệp Thụy An, từ bọn trốt-kít Trương Tửu, Trần Đức Thảo đến bọn phản Đảng Nguyễn Hữu Đang, Trần Dần, Lê Đạt. Một đặc điểm chung là hầu hết bọn chúng đều là những phần tử thuộc giai cấp địa chủ và tư sản phản động, và đều ngoan cố giữ lập trường quyền lợi giai cấp cũ của mình, cố tình chống lại cách mạng và chế độ;. (trg 17. Sđd). Báo cáo tổng kết vụ "Nhân Văn - Giai Phẩm" cũng do Tố Hữu viết có kết luận về tư tưởng chính trị và quan điểm văn nghệ của phong trào Nhân Văn–Giai Phẩm như sau:

Những tư tưởng chính trị thù địch Kích thích chủ nghĩa cá nhân tư sản, bôi nhọ chủ nghĩa cộng sản. Xuyên tạc mâu thuẫn xã hội, khiêu khích nhân dân chống lại chế độ và Đảng lãnh đạo. Chống lại chuyên chính dân chủ nhân dân, chống lại cách mạng xã hội chủ nghĩa. Gieo rắc chủ nghĩa dân tộc tư sản, gãi vào đầu óc sô-vanh chống lại chủ nghĩa quốc tế vô sản. Những quan điểm văn nghệ phản động Nhóm "Nhân Văn - Giai Phẩm" phản đối văn nghệ phục vụ chính trị, thực tế là phản đối văn nghệ phục vụ đường lối chính trị cách mạng của giai cấp công nhân. Chúng đòi "tự do, độc lập" của văn nghệ, rêu rao "sứ mạng chống đối" của văn nghệ, thực ra chúng muốn lái văn nghệ sang đường lối chính trị phản động. Nhóm "Nhân Văn - Giai Phẩm" phản đối văn nghệ phục vụ công nông binh, nêu lên "con người" trừu tượng, thực ra chúng đòi văn nghệ trở về chủ nghĩa cá nhân tư sản đồi trụy. Nhóm "Nhân Văn - Giai Phẩm" hằn học đả kích nền văn nghệ xã hội chủ nghĩa, nhất là văn nghệ Liên Xô, đả kích nền văn nghệ kháng chiến của ta. Thực ra, chúng phản đối chế độ xã hội chủ nghĩa, chúng đòi đi theo chế độ tư bản chủ nghĩa. Nhóm "Nhân Văn - Giai Phẩm" phản đối sự lãnh đạo của Đảng đối với văn nghệ, chúng đòi "trả văn nghệ cho văn nghệ sĩ", thực ra chúng đòi đưa quyền lãnh đạo văn nghệ vào tay bọn phản cách mạng.

Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng, trong nhật ký của mình, sau khi nhắc tới tên một số người trong nhóm Nhân văn - Giai phẩm cũng đã cho hay: “Bọn họ có người nói: Đừng viết nữa, để dành cho trẻ viết. Vô luận một bài, một sáng tác nào của anh em mà họ gọi là “cây đa cây đề”, họ đều gạt đi, cho là tồi. Trong khi đó thì họ tâng bốc những bài của họ mà phần lớn là không ngửi được!” (trích nhật ký ngày 23 tháng 1 năm 1956).

Nhận định

Nguyễn Huy Tưởng đã dành cho Tố Hữu những dòng bày tỏ sự yêu quý, kính trọng, như: “Tố Hữu vững chắc quá, được toàn thể anh em văn nghệ sĩ kính phục” (trích nhật ký ngày 28 tháng 9 năm 1949); “Nghĩ đến Tố Hữu, rực rỡ như vàng, như ánh sáng” (trích nhật ký tháng 12-1949); “Hôm nay lại tranh thủ ý kiến Tố Hữu. ý kiến hay...” (trích nhật ký ngày 28 tháng 4 năm 1959); “Lên chơi Tố Hữu. Thoải mái. Nói chuyện sắp đi Vĩnh Linh. Tố Hữu tán thành. Cần phải đi cho biết rộng” (trích nhật ký ngày 8 tháng 8 năm 1959); “Lên gặp Tố Hữu. Nhắc chuyện 1956, một dự định kịch và tiểu thuyết của ta cái hồi ấy... Tố Hữu đã góp cho nhiều ý kiến về vấn đề này”. Qua buổi gặp đó, Nguyễn Huy Tưởng thấy “yêu Đảng, yêu cách mạng” (trích nhật ký ngày 11 tháng 10 năm 1959)

Gia đình

  • Phu nhân là Vũ Thị Thanh, nguyên Phó Trưởng ban Ban Tuyên huấn Trung ương (nay là Ban Tuyên giáo Trung ương). Mối tình của hai người được họ tự khen ngợi là một mối tình đẹp và bà Thanh đã viết hồi ký về Tố Hữu mang tên Ký ức người ở lại.[18] Bà qua đời năm 2012.
  • Vợ chồng Tố Hữu có ba con, hai gái và một trai.

Vinh danh

Chú thích

  1. ^ Thực ra câu "Ngô nhi tố hữu đại chí" 吾兒素有大志 không phải là của Khổng Tử mà là lời của Đỗ thị (杜氏) nói về con trai của mình là Triệu Khuông Dận (趙匡胤) (陳邦瞻,宋史紀事本末,卷十 金匱之盟。[2013年8月14日]。). Nguyên văn như sau:
    Hán văn:
    吾兒素有大志,今果然矣。
    Phiên âm Hán Việt:
    Ngô nhi tố hữu đại chí, kim quả nhiên hĩ.
    Dịch nghĩa:
    Con ta sẵn có chí lớn, nay quả nhiên như vậy.
  2. ^ {{Chú thích web|tiêu đề=A Nhic đưa Tố Hữu vượt ngục Đắc Glei|url=http://www.qdnd.vn/phong-su-dieu-tra/dieu-tra/a-nhic-dua-to-huu-vuot-nguc-dac-glei-479019%7Cngày tháng=2008-09-12|tác giả=Lê Quang Hồi|nhà xuất bản=[[Quân đội nhân dân (báo)|Quân đội nhân dân|ngày truy cập=2018-02-11|url lưu trữ=|ngày lưu trữ=}}
  3. ^ Liễu Hạnh; Hoài Tiến (22 tháng 2 năm 2016). “Đầu xuân, đến thăm Ngục Đăk Glei”. Báo Kon Tum. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 11 tháng 2 năm 2018.
  4. ^ Qua cuộc đấu tranh chống nhóm phá hoại "Nhân Văn - Giai Phẩm" trên mặt trận văn nghệ, Nhà xuất bản Văn Hoá, 1958
  5. ^ http://tuanbaovannghetphcm.vn/khong-duoc-xuyen-tac-lich-su-so-507/
  6. ^ http://www.nhandan.com.vn/vanhoa/item/11779102-.html
  7. ^ http://www.nhandan.com.vn/vanhoa/item/11779102-.html
  8. ^ http://www.nhandan.com.vn/hangthang/van-hoa/tho/item/27826102-to-huu-%E2%80%9Cong-hoang%E2%80%9D-cua-tho-tinh-yeu-lang-man-cach-mang.html
  9. ^ http://www.nhandan.com.vn/hangthang/van-hoa/tho/item/27826102-to-huu-%E2%80%9Cong-hoang%E2%80%9D-cua-tho-tinh-yeu-lang-man-cach-mang.html
  10. ^ http://www.nhandan.com.vn/vanhoa/item/11779102-.html
  11. ^ “Thơ của Tố Hữu về Joseph Stalin”. BBC tiếng Việt. 31 tháng 10 năm 2007.
  12. ^ Thơ Tố Hữu, Hà Minh Đức, Nhà xuất bản văn học
  13. ^ “Mượn danh nhà thơ Tố Hữu truyền bá quan điểm riêng”. Truy cập 29 tháng 11 năm 2004. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |ngày truy cập= (trợ giúp)
  14. ^ Tức Bác Hồ
  15. ^ “Tố Hữu và ngọn đèn cô đơn đã tắt”. Truy cập 14 tháng 9 năm 2008. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |accessdate= (trợ giúp)
  16. ^ “Tố Hữu - ông hoàng của thơ cách mạng”. Truy cập 11 tháng 10 năm 2018. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |accessdate= (trợ giúp)
  17. ^ [1] Nhà phê bình văn học Hoài Thanh: Nỗi oan không khó gỡ
  18. ^ Bà Vũ Thị Thanh viết hồi ký về Tố Hữu - Mối tình đẹp trong đời và cả trong thơ

Liên kết ngoài