Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tiểu hành tinh”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Đã lùi lại sửa đổi của 14.232.112.206 (Thảo luận) quay về phiên bản cuối của Nhatminh01
Thẻ: Lùi tất cả
Dòng 180: Dòng 180:
{{thể loại Commons|Asteroids}}
{{thể loại Commons|Asteroids}}
* {{britannica|39730}}
* {{britannica|39730}}
* {{TĐBKVN|7838}}
* [http://www.armageddononline.org/asteroid.php Known Asteroid Impacts & Their Effects]
* [http://www.armageddononline.org/asteroid.php Known Asteroid Impacts & Their Effects]
* [http://cfa-www.harvard.edu/iau/lists/MPNames.html Alphabetical list of minor planet names (ASCII)] (Minor Planet Center)
* [http://cfa-www.harvard.edu/iau/lists/MPNames.html Alphabetical list of minor planet names (ASCII)] (Minor Planet Center)

Phiên bản lúc 08:34, ngày 27 tháng 2 năm 2019

Tiểu hành tinh, hành tinh nhỏ là những từ đồng nghĩa để chỉ một nhóm các thiên thể nhỏ trôi nổi trong hệ mặt trời trên quỹ đạo quanh Mặt trời. Asteroid (từ tiếng Hy Lạp có nghĩa "giống sao") là từ được sử dụng nhiều nhất trong tiếng Anh để chỉ các tiểu hành tinh, và đã trở thành thuật ngữ ưu tiên của Liên đoàn Thiên văn học Quốc tế; một số ngôn ngữ khác thường sử dụng planetoid (tiếng Hy lạp: "giống hành tinh"), vì từ này miêu tả chính xác hơn thực tế hiện trạng của chúng. Cuối tháng 8 năm 2006, IAU đã đưa ra thuật ngữ "các vật thể nhỏ hệ mặt trời" (SSSBs), bao gồm đa phần các vật thể không được xếp hạng là hành tinh nhỏ, cũng như là sao chổi; chúng đồng thời được xếp loại "hành tinh lùn" đối với những vật thể lớn nhất. Bài viết này đặc biệt chú trọng tới các hành tinh nhỏ ở phía bên trong hệ mặt trời (gần quỹ đạo Sao Mộc) và có lẽ có thành phần chính là "đá". Đối với các loại vật thể khác, như sao chổi, các thiên thể cắt ngang quỹ đạo Sao Hải Vương, và các tiểu hành tinh Centaur, xem bài Vật thể nhỏ Hệ Mặt trời.

Trong Hệ Mặt trời, tiểu hành tinh đầu tiên và lớn nhất được phát hiện là Ceres, hiện tại nó được xếp loại là một hành tinh lùn, trong khi số còn lại hiện được xếp loại như những vật thể nhỏ Hệ Mặt trời. Số lượng to lớn các tiểu hành tinh được khám phá bên trong vành đai tiểu hành tinh chính, với các quỹ đạo elíp giữa quỹ đạo Sao HoảSao Mộc. Mọi người cho rằng các tiểu hành tinh là tàn tích của một đĩa tiền hành tinh, và trong vùng này sự hợp nhất của các tàn tích tiền hành tinh thành các hành tinh không thể diễn ra vì những ảnh hưởng hấp dẫn to lớn từ Sao Mộc trong giai đoạn thành tạo của Hệ Mặt trời. Một số tiểu hành tinh có các Mặt Trăng hay đi thành cặp trở thành các hệ đôi.

253 Mathilde, một tiểu hành tinh dạng C.

Các tiểu hành tinh trong Hệ Mặt trời

Từ trái sang phải: 4 Vesta, 1 Ceres, Mặt Trăng của Trái Đất.

Hàng trăm nghìn tiểu hành tinh đã được khám phá bên trong hệ mặt trời và tỷ lệ khám phá hiện nay là khoảng 5000 tiểu hành tinh/tháng. Tới ngày 17 tháng 9 năm 2006, trong tổng số 342.358 tiểu hành tinh được biết, 136.563 có quỹ đạo được xác định đủ để được đánh ký hiệu chính thức. Trong số đó, 13.422[1] có tên chính thức.[2] Hành tinh nhỏ được đánh số nhỏ nhất nhưng chưa được đặt tên là (3360) 1981 VA; hành tinh nhỏ có số lớn nhất và chưa có tên (ngoài các hành tinh lùn 136199 Eris134340 Pluto) là 129342 Ependes.[3]

Ước tính hiện nay tổng số tiểu hành tinh có đường kính hơn 1 km trong hệ mặt trời là khoảng từ 1.1 đến 1.9 triệu.[4] tiểu hành tinh lớn nhất phía bên trong hệ mặt trời là 1 Ceres, với đường kính 900–1000 km. Hai vật thể lớn khác ở vành đai tiểu hành tinh của hệ mặt trời là 2 Pallas4 Vesta; cả hai đều có đường kính ~500 km. Vesta là tiểu hành tinh duy nhất trong vành đai tiểu hành tinh chính thỉnh thoảng có thể được quan sát thấy bằng mắt thường (trong một số dịp rất hiếm hoi, một tiểu hành tinh gần Trái Đất có thể được quan sát thấy bằng mắt thường; xem 99942 Apophis).

Khối lượng của toàn bộ các tiểu hành tinh trong Vành đai chính được ước tính khoảng 3.0-3.6×1021 kg,[5][6] hay khoảng 4% khối lượng Mặt Trăng của chúng ta. Trong số đó, 1 Ceres chiếm 0.95×1021 kg, khoảng 32% tổng khối lượng. Ba tiểu hành tinh có khối lượng lớn tiếp theo là 4 Vesta (9%), 2 Pallas (7%), và 10 Hygiea (3%), tổng khối lượng của chúng chiếm tới 51%; trong khi ba tiểu hành tinh sau đó là 511 Davida (1.2%), 704 Interamnia (1.0%), và 3 Juno (0.9%), chỉ chiếm 3% tổng khối lượng. Số lượng tiểu hành tinh tăng lên nhanh chóng khi khối lượng riêng lẻ của chúng giảm đi.

Xem thêm Danh sách các tiểu hành tinh đáng chú ý trong Hệ Mặt trời, hay Danh sách các tiểu hành tinh.

Xếp hạng tiểu hành tinh

Các tiểu hành tinh thường được xếp vào hai nhóm dựa trên tính chất quỹ đạo của chúng và trên các chi tiết quang phổ ánh sáng mặt trời do chúng phản chiếu.

Các nhóm quỹ đạo và các gia đình

Nhiều tiểu hành tinh đã được xếp vào các nhóm và các gia đình dựa trên tính chất quỹ đạo của chúng. Thông thường việc đặt tên một gia đình tiểu hành tinh tiến hành dựa theo thành viên đầu tiên được phát hiện. Các nhóm có liên kết động học khá lỏng lẻo với nhau, trong khi các gia đình có quan hệ "chặt chẽ" hơn, và là kết quả của một vụ tan rã một tiểu hành tinh lớn hơn trong quá khứ.

Để biết danh sách đầy đủ các nhóm và các gia đình tiểu hành tinh đã biết, xem hành tinh nhỏgia đình tiểu hành tinh.

Xếp hạng quang phổ

Bức ảnh này của 433 Eros cho thấy hình ảnh nhìn từ một phía tiểu hành tinh qua rãnh máng ở mặt trên của nó về phía đối diện. Các đặc điểm lớn cỡ 35m có thể được nhìn thấy.

Năm 1975, một hệ thống phân loại dựa trên màu sắc, albedo, và hình dạng quang phổ đã được Clark R. Chapman, David Morrison, và Ben Zellner phát triển.[7] Các tính chất đó được cho là tương ứng với thành phần vật chất bề mặt tiểu hành tinh. Ban đầu, họ chỉ xếp tiểu hành tinh vào ba loại:

Từ đó danh sách này đã được mở rộng bao gồm một số kiểu tiểu hành tinh khác. Số lượng các kiểu tiếp tục tăng lên khi càng nhiều tiểu hành tinh được nghiên cứu. Xem Các kiểu quang phổ tiểu hành tinh để biết thêm chi tiết hay Thể loại:Các lớp quang phổ tiểu hành tinh để có danh sách.

Cần nhớ rằng tỷ lệ các tiểu hành tinh đã biết được xếp vào nhiều kiểu quang phổ khác nhau không nhất thiết phản ánh tỷ lệ tất cả các tiểu hành tinh thuộc kiểu đó; một số kiểu dễ dàng phát hiện hơn những kiểu khác, ảnh hưởng tới những con số tổng kết.

Những vấn đề khi sử dụng Xếp hạng theo quang phổ

Trước kia, việc xác định quang phổ dựa trên sự suy luận thành phần của tiểu hành tinh:[8]

Tuy nhiên, sự tương ứng giữa lớp quang phổ và thành phần không phải lúc nào cũng tốt đẹp, và có rất nhiều kiểu xếp hạng được sử dụng. Điều này dẫn tới sự lẫn lộn rất lớn. Trong khi các tiểu hành tinh thuộc các lớp quang phổ khác nhau có vẻ được cấu thành từ những vật liệu khác nhau, thì lại không có những sự đảm bảo rằng các tiểu hành tinh trong cùng một lớp phân loại được cấu thành từ những vật liệu như nhau.

Hiện tại, việc xếp hạng quang phổ dựa trên nhiều cuộc khảo sát phân tích quang phổ không chính xác trong thập kỷ 1990 vẫn được coi là tiêu chuẩn. Các nhà khoa học không thể đồng thuận cho một hệ thống xếp hạng tốt hơn, phần lớn bởi sự khó khăn để thu được các số đo chi tiết thường xuyên cho một lượng lớn các tiểu hành tinh (ví dụ phân tích các quang phổ chính xác hơn, hay các dữ liệu phi quang phổ như mật độ sẽ rất hữu ích).

Khám phá tiểu hành tinh

243 Ida và Mặt Trăng Dactyl của nó, vệ tinh đầu tiên của một tiểu hành tinh được khám phá.

Các phương pháp khám phá lịch sử

Trong hai thế kỷ qua các phương pháp khám phá tiểu hành tinh đã có những bước tiến bộ to lớn.

Những năm cuối thế kỷ 18, Baron Franz Xaver von Zach đã tổ chức một nhóm 24 nhà thiên văn học để khảo sát bầu trời nhằm tìm kiếm "hành tinh bí ẩn" được tiên đoán nằm ở khoảng cách 2.8 AU từ Mặt trời theo Quy luật Titius-Bode, một phần có cảm hứng từ khám phá ra Sao Thiên Vương trước đó ở đúng vị trí "tiên đoán" theo quy luật này của Ngài William Herschel năm 1781. Nhiệm vụ này đỏi hỏi phải vẽ tay các biểu đồ bầu trời với toàn bộ những ngôi sao trong dải hoàng đạo với giới hạn phát sáng nhỏ nhất của ngôi sao theo thoả thuận trước. Trong những đêm tiếp sau, bầu trời sẽ được vẽ lần nữa và bất kỳ một vật thể nào chuyển động, sẽ biến thành một vạch. Chuyển động theo tiên đoán của hành tinh bí ẩn đó là khoảng 30 cung một giờ, rõ ràng có thể phân biệt đối với các nhà quan sát.

Trớ trêu thay, tiểu hành tinh đầu tiên, 1 Ceres, không phải do một thành viên trong nhóm này khám phá, mà là một phát hiện tình cờ năm 1801 của Giuseppe Piazzi, khi ấy đang là giám đốc đài quan sát Palermo, tại Sicilia. Ông đã khám phá ra một vật thể tương tự sao mới trong khu vực chòm sao Taurus và theo dõi sự dịch chuyển của nó trong nhiều đêm. Đồng nghiệp của ông, Carl Friedrich Gauss, đã sử dụng những quan sát đó để xác định khoảng cách chính xác của vật thể chưa biết đó tới Trái Đất. Những tính toán của Gauss cho thấy vật thể nằm giữa hai hành tinh Sao HoảSao Mộc. Piazzi đặt tên nó là Ceres, vị nữ thần nông nghiệp của người La Mã.

Ba tiểu hành tinh khác (2 Pallas, 3 Juno, 4 Vesta) được khám phá trong vài năm sau đó, Vesta được tìm thấy năm 1807. Sau tám năm tìm kiếm không hiệu quả tiếp theo, đa số các nhà thiên văn kết luận rằng không còn một tiểu hành tinh nào nữa và dừng tìm kiếm.

Tuy nhiên, Karl Ludwig Hencke vẫn bền bỉ và bắt đầu tìm kiếm thêm các tiểu hành tinh khác năm 1830. Mười lăm năm sau, ông tìm ra 5 Astraea, tiểu hành tinh mới đầu tiên sau 38 năm. Ông cũng phát hiện 6 Hebe chỉ chưa tới hai năm sau. Sau đó, các nhà thiên văn học khác cùng tham gia tìm kiếm và ít nhất mỗi năm lại có một tiểu hành tinh được tìm thấy (trừ thời năm 1945 đang có chiến tranh). Những người tìm kiếm tiểu hành tinh nổi tiếng nhất thời kỳ đầu này gồm J. R. Hind, Annibale de Gasparis, Robert Luther, H. M. S. Goldschmidt, Jean Chacornac, James Ferguson, Norman Robert Pogson, E. W. Tempel, J. C. Watson, C. H. F. Peters, A. Borrelly, J. Palisa, Paul Henry và Prosper HenryAuguste Charlois.

Năm 1891 Max Wolf đã tiên phong sử dụng kỹ thuật chụp ảnh thiên văn để tìm kiếm các tiểu hành tinh, chúng sẽ biến thành các vệt trên những tấm kính ảnh có thời gian lộ sáng dài. Kỹ thuật này đã cải thiện đáng kể tỷ lệ khám phá so với những phương pháp trước đó: chỉ mình Wolf đã phát hiện ra 248 tiểu hành tinh, đầu tiên là 323 Brucia, trong khi từ trước tới đó chỉ hơn 300 tiểu hành tinh được phát hiện. Tuy vậy, một thế kỷ sau, chỉ vài nghìn tiểu hành tinh được xác định, đánh số và đặt tên. Mọi người biết rằng còn nhiều tiểu hành tinh khác, nhưng đa số các nhà thiên văn học không chú ý tới chúng, gọi chúng là "ký sinh của bầu trời".

Các phương pháp khám phá hiện đại

Tới tận năm 1998, các tiểu hành tinh vẫn được khám phá theo quy trình bốn bước. Đầu tiên, một vùng bầu trời được chụp ảnh bằng kính thiên văn có thị trường rộng. Thông thường cứ mỗi giờ lại chụp hai bức (một cặp). Một ngày có thể chụp nhiều cặp. Thứ hai, hai film của cùng một vùng bầu trời được quan sát dưới kính nổi. Bất kỳ một vật thể nào có quỹ đạo quanh Mặt trời sẽ hơi chuyển chỗ sau mỗi cặp phim. Dưới kính nổi, hình ảnh vật thể sẽ thể hiện hơi nổi lên trên nền các ngôi sao phía sau. Thứ ba, một khi vật thể di chuyển đã được xác định, vị trí của nó sẽ được đo đạc chính xác bằng kính hiển vi số. Vị trí này sẽ được đo so với vị trí các ngôi sao đã được biết trước.[9]

Ba bước đầu tiên đó chưa hoàn thành việc khám phá tiểu hành tinh: người quan sát chỉ mới tìm thấy một sự xuất hiện (apparition), và nó được cấp một số định danh tạm thời, gồm năm khám phá, một chữ thể hiện tuần lễ khám phá, và cuối cùng là một chữ và một số thể hiện số dãy (sequential number) của sự khám phá (ví dụ: 1998 FJ74).

Bước cuối cùng là gửi những dữ liệu vị trí và thời gian quan sát tới Brian Marsden thuộc Trung tâm tiểu hành tinh. Dr. Marsden có các chương trình máy tính tính toán xem liệu một sự xuất hiện có liên quan tới những sự xuất hiện trước đó thành một quỹ đạo duy nhất không. Nếu đúng vậy, vật thể sẽ được gắn một số. Người quan sát sự xuất hiện đầu tiên và tính ra được quỹ đạo của nó được tuyên bố là người khám phá ra tiểu hành tinh, và anh ta có được vinh dự đặt tên cho nó (phải được Liên đoàn Thiên văn học Quốc tế chấp nhận) một khi nó được đánh số.

Kỹ thuật mới nhất

2004 FH là chấm ở giữa being followed by the sequence; vật thể vụt ngang qua là một vệ tinh.

Ngày càng có nhiều người quan tâm tới việc xác định các tiểu hành tinh có quỹ đạo cắt ngang quỹ đạo Trái Đất, và vì thế có khả năng đâm vào Trái Đất (xem những Tiểu hành tinh cắt ngang Trái Đất). Ba nhóm tiểu hành tinh gần Trái Đất quan trọng nhất là các tiểu hành tinh Apollo, các tiểu hành tinh Amor, và các tiểu hành tinh Aten. Nhiều Chiến lược làm chệch hướng tiểu hành tinh đã được đề xuất.

Tiểu hành tinh 433 Eros gần Trái Đất đã được khám phá từ năm 1898, và trong thập kỷ 1930 nhiều vật thể tương tự đã được khám phá. Theo thời điểm phát hiện, chúng gồm: 1221 Amor, 1862 Apollo, 2101 Adonis, và cuối cùng là 69230 Hermes, nó đã từng tiếp cận Trái Đất ở khoảng cách 0.005 AU năm 1937. Các nhà thiên văn học đã nhận thấy một số dấu hiệu va chạm với Trái Đất.

Hai sự kiện trong những thập kỷ gần đây càng làm tăng nguy cơ đó: lý thuyết của Walter Alvarez về sự tuyệt chủng của khủng long do nguyên nhân va chạm ngày càng được chấp nhận rộng rãi, và vụ Sao chổi Shoemaker-Levy 9 đâm vào Sao Mộc năm 1994. Quân đội Hoa Kỳ cũng đã giải mật một số thông tin rằng các vệ tinh quân sự của họ, được chế tạo để theo dõi các vụ nổ hạt nhân, đã phát hiện thấy hàng trăm vụ va chạm trên tầng cao khí quyển bởi những vật thể lớn từ 1 tới 10 mét.

Tất cả những nghiên cứu đó đã giúp khuyến khích áp dụng những hệ thống hoàn toàn tự động hữu hiệu gồm các Thiết bị cặp đôi (CCD) camera và computer kết nối trực tiếp với các kính thiên văn. Từ năm 1998, một lượng lớn các tiểu hành tinh đã được các hệ thống tự động đó phát hiện. Danh sách các nhóm sử dụng các hệ thống tự động đó gồm:[10]

Chỉ riêng hệ thống LINEAR cho tới ngày 13 tháng 6 năm 2006 đã phát hiện 67.820 tiểu hành tinh.[11] Giữa tất cả các hệ thống tự động, 4076 tiểu hành tinh gần Trái Đất đã được phát hiện[12] gồm hơn 600 tiểu hành tinh đường kính hơn 1 km.

Đặt tên tiểu hành tinh

Tổng quan: Quy ước đặt tên

Một tiểu hành tinh mới được phát hiện được đặt một tên tạm thời gồm năm phát hiện và một mã chữ (như 2002 AT4). Khi quỹ đạo của nó đã được xác định, nó được trao một số, và sau này có thể được đặt một cái tên (ví dụ 433 Eros). Quy ước đặt tên chính thức sử dụng dấu ngoặc quanh số (ví dụ (433) Eros), nhưng việc bỏ dấu ngoặc cũng khá thường xuyên. Một cách không chính thức, mọi người thường gộp tất cả số lại với nhau, hay bỏ nó sau khi đã được đề cập tới lần đầu tiên ở những tên lặp lại sau đó.

Các tiểu hành tinh đã được trao một con số nhưng không phải là tên thì vẫn giữ tên tạm thời của mình, ví dụ (29075) 1950 DA. Khi các kỹ thuật khám phá tiểu hành tinh hiện đại khiến số lượng chúng tăng vọt, dần dần chúng bị bỏ mặc vô danh như cũ. Tiểu hành tinh đầu tiên không có tên như vậy là (3360) 1981 VA. Trong những dịp hiếm hoi, một tên tạm thời của tiểu hành tinh có thể được dùng làm tên gọi của chính nó: tiểu hành tinh chưa được đặt tên (15760) 1992 QB1 gave its name to a group of asteroids which became known as cubewanos.

Đánh số tiểu hành tinh

Các tiểu hành tinh sẽ được trao một con số chính thức ngay khi quỹ đạo của chúng được xác định. Với tốc độ phát hiện tiểu hành tinh ngày càng tăng, chúng hiện được đánh theo dãy sáu số. Việc chuyển từ dãy năm số sang dãy sáu số diễn ra sau việc xuất bản Tờ tin Hành tinh Nhỏ (Minor Planet Circular - MPC) ngày 19 tháng 10 năm 2005, với việc số tiểu hành tinh được đánh số nhảy vọt từ 99947 lên 118161. Sự thay đổi này đã gây ra một cơn khủng hoảng kiểu "Y2k" nhỏ với nhiều trung tâm dịch vụ dữ liệu tự động, bởi chúng chỉ được quy định định dạng dãy năm số cho tiểu hành tinh. Đa số các trung tâm dã mở rộng phạm vi số tiểu hành tinh. Những trung tâm không làm tương tự xử lý vấn đề này bằng cách thay con số xa nhất bên trái (đơn vị mười ngàn) bằng chữ. A=10, B=11,…, Z=35, a=36,…, z=61. Vì thế, dãy số dài như 120437 sẽ được định dạng thành C0437 trên một số bản danh sách.

Nguồn tên

Một số ít tiểu hành tinh đầu tiên được đặt tên theo những nhân vật trong Thần thoại Hy Lạp - La Mã, nhưng khi tên những vị thần đã được sử dụng hết, những nhân vật khác —người nổi tiếng, nhân vật văn học, tên vợ những người có công khám phá, tên trẻ em, và thậm chí cả những nhân vật truyền hình cũng được dùng.

Tiểu hành tinh đầu tiên được đặt tên không theo thần thoại là 20 Massalia, theo tên thành phố Marseille. Trong một thời gian chỉ tên phụ nữ (hay nữ hoá) mới được sử dụng; Alexander von Humboldt là người đàn ông đầu tiên có tên được đặt cho một tiểu hành tinh, nhưng tên ông đã được nữ hóa thành 54 Alexandra. Quy ước truyền thống ngầm này kéo dài tới tận khi đặt tên cho 334 Chicago; thậm chí sau đó, nhiều tên nữ hóa kỳ quặc vẫn xuất hiện trong những bản danh sách trong nhiều năm sau.

Khi số lượng tiểu hành tinh bắt đầu lên tới hàng trăm, và cuối cùng là hàng nghìn, những người khám phá ra chúng dần ít chú ý tới việc đặt tên nên đã xuất hiện những cái tên kỳ cục. Những ví dụ đầu tiên là 482 Petrina483 Seppina, được đặt theo tên những chú chó của người tìm ra chúng. Tuy nhiên, cho tới năm 1971 vẫn có cuộc tranh cãi nhỏ về vấn đề này, khi đặt tên cho 2309 Mr. Spock (nó không được đặt theo tên nhân vật trong phim Star Trek, mà là tên con mèo của người phát hiện tiểu hành tinh, vốn có vẻ ngoài khá giống nhân vật kia). Dù Liên đoàn Thiên văn học Quốc tế (IAU) sau đó đã cấm dùng tên thú nuôi đặt cho tiểu hành tinh, nhưng những cái tên kỳ cục vẫn được đề xuất và chấp nhận như 6042 Cheshirecat, 9007 James Bond, hay 26858 Misterrogers.

Các quy định đặt tên đặc biệt

Việc đặt tên tiểu hành tinh không phải tùy thích: có một số kiểu tiểu hành tinh phải được đặt theo một nguồn tên. Ví dụ các tiểu hành tinh Centaurs (nằm giữa Sao Thổ và Sao Hải Vương) đều phải được đặt tên theo các centaur trong thần thoại, các tiểu hành tinh Troia theo tên các vị anh hùng chiến tranh thành Troia, và các vật thể ngoài Sao Hải Vương theo tên những linh hồn dưới địa ngục.

Một quy định từ lâu khác là các sao chổi phải được đặt theo tên người phát hiện ra chúng, trong khi đó các tiểu hành tinh thì không cần như avạy. Các nhà thiên văn có một cách để "lách" quy định này là dùng tên lẫn nhau để đặt cho khám phá của họ. Một trường hợp ngoại trừ đặc biệt của quy định này là 96747 Crespodasilva, nó được đặt theo tên người phát hiện là Lucy d'Escoffier Crespo da Silva, vì bà đã qua đời chỉ một thời gian ngắn sau thành công, ở tuổi 22.[13][14]

Các biểu tượng tiểu hành tinh

Một số ít tiểu hành tinh phát hiện đầu tiên được gắn các biểu tượng như kiểu những biểu tượng truyền thống thường dùng cho Trái Đất, Mặt Trăng, Mặt trời và các hành tinh. Các biểu tượng này nhanh chóng trở nên vô duyên, khó viết và nhận dạng. Tới cuối năm 1851 đã có 15 tiểu hành tinh được phát hiện, 14 tiểu hành tinh đã có biểu tượng riêng. Bốn biến thể chính đầu tiên:

1 Ceres Old planetary symbol of Ceres Variant symbol of Ceres Sickle variant symbol of Ceres Other sickle variant symbol of Ceres
2 Pallas Old symbol of Pallas Variant symbol of Pallas
3 Juno Old symbol of Juno Other symbol of Juno
4 Vesta Old symbol of Vesta Modern astrological symbol of Vesta

Johann Franz Encke đã tiến hành một thay đổi lớn trong cuốn Berliner Astronomisches Jahrbuch (BAJ, "Berlin Astronomical Yearbook") năm 1854. Ông sử dụng các số được khoanh tròn thay cho các biểu tượng, dù ông bắt đầu đánh số từ Astraea, bốn tiểu hành tinh đầu tiên vẫn tiếp tục được biểu thị bằng các biểu tượng của chúng. Cải tiến mới này nhanh chóng được cộng đồng thiên văn học chấp nhận. Năm sau đó, (1855), dãy số của Astraea lên tới 5 số, nhưng từ Ceres tới Vesta sẽ chỉ được biểu thị bằng dãy số từ năm 1867. Một số tiểu hành tinh khác (28 Bellona, 35 Leukothea, và 37 Fides) vừa có biểu tượng vừa có dãy số định danh.

Vòng tròn sau này trở thành hai dấu ngoặc, và trong vài thập kỷ sau thì cả dấu ngoặc thỉnh thoảng cũng bị bỏ đi.[15]

Khảo sát tiểu hành tinh

Trước thời du hành vũ trụ, các tiểu hành tinh chỉ đơn giản là những hình ảnh nhỏ như đầu đinh ghim, thậm chí khi quan sát bằng các kính viễn vọng lớn nhất và hình dạng cũng như địa hình của chúng còn là điều bí ẩn.

Những bức ảnh gần đầu tiên của những vật thể như tiểu hành tinh được chụp năm 1971 khi tàu thăm dò vũ trụ Mariner 9 chụp ảnh PhobosDeimos, hai vệ tinh nhỏ của Sao Hoả, có lẽ là những tiểu hành tinh đã bị bắt giữ. Những hình ảnh này cho thấy hình dạng không đều, giống như củ khoai tây của hầu hết tiểu hành tinh, tương tự như những hình ảnh sau này về các Mặt Trăng nhỏ của các hành tinh khí khổng lồ do tàu thăm dò vũ trụ Voyager chụp.

951 Gaspra, tiểu hành tinh đầu tiên được chụp cận cảnh.

Tiểu hành tinh thật sự đầu tiên được chụp gần là 951 Gaspra năm 1991, sau đó là 243 Ida và Mặt Trăng của nó là Dactyl năm 1993, tất cả những bức ảnh này đều do tàu thăm dò vũ trụ Galileo chụp khi đang trên đường tới Sao Mộc.

Tàu thăm dò vũ trụ đầu tiên dành riêng cho mục đích nghiên cứu tiểu hành tinh là NEAR Shoemaker, nó đã chụp ảnh 253 Mathilde năm 1997, trước khi đi vào quỹ đạo quay quanh 433 Eros, cuối cùng đổ bộ xuống bề mặt tiểu hành tinh này năm 2001.

Các tiểu hành tinh khác từng được tàu vũ trụ viếng thăm trong một khoảng thời gian khi chúng đang trên đường thi hành nhiệm vụ khác gồm 9969 Braille (bởi Deep Space 1 năm 1999), và 5535 Annefrank (bởi Stardust năm 2002).

Tháng 12 năm 2005, tàu thăm dò vũ trụ Hayabusa của Nhật Bản đã bắt đầu nghiên cứu chi tiết 25143 Itokawa và sẽ quay trở lại Trái Đất với những mẫu lấy từ bề mặt tiểu hành tinh này. Chương trình nghiên cứu tiếp sau sẽ là của châu Âu với tàu thăm dò vũ trụ Rosetta (được phóng năm 2004), sẽ nghiên cứu 2867 Šteins21 Lutetia năm 2008 và 2010.

NASA đang có kế hoạch phóng Dawn Mission năm 2007, sẽ bay quanh quỹ đạo 1 Ceres4 Vesta năm 2011-2015, và nhiệm vụ của nó có thể sẽ mở rộng sang cả 2 Pallas.

Từng có ý kiến đề xuất sử dụng các tiểu hành tinh trong tương lai như một nguồn nguyên liệu thay thế cho nguồn nguyên liệu sẽ cạn kiệt trên Trái Đất (khai thác tiểu hành tinh).

Tiểu hành tinh trong khoa học viễn tưởng

Thông thường các tiểu hành tinh (và có ít hơn là các Sao chổi) trong khoa học viễn tưởng được thể hiện như những mối đe dọa bởi sự va chạm giữa chúng và Trái Đất có thể gây nên nguy cơ nghiêm trọng với thế giới.[16][17] Điều này có cơ sở từ giả thuyết khoa học cho rằng những vụ va chạm như vậy trong quá khứ Trái Đất đã dẫn tới sự tuyệt chủng của loài khủng long —dù dường như chúng xảy ra các nhau hàng chục triệu năm, không hề có lý do đặc biệt nào để cho rằng sự va chạm như vậy có thể xảy ra trong vài nghìn năm tới đây.

Một cách khác để coi các tiểu hành tinh là một mối nguy hiểm là biểu hiện chúng như những vật có thể đe dọa tới những con tàu vũ trụ bay từ Trái Đất ra phía ngoài Hệ Mặt trời khi bay ngang qua Vành đai Tiểu hành tinh (hay phải buộc bay vòng -tốn thời gian và nhiên liệu- để tránh nó). Các tiểu hành tinh được thể hiện như vậy thường giống như những bãi cát ngầm hay những quả núi ngầm dưới mặt biển xuất hiện trong những câu chuyện chinh phục đại dương thời cổ.[18] Và cũng giống như những bãi cát hay đá ngầm dưới đại dương, các tiểu hành tinh cũng có thể được dùng làm nơi trú ẩn cho những kẻ ngoài vòng pháp luật phải sống trốn tránh. Vành đai Tiểu hành tinh được thể hiện trong phim ảnh thường là những phiến đá bay hỗn loạn đầy nguy hiểm phi hiện thực. Các tiểu hành tinh trong thực tế, thậm chí cả vành đai chính, nằm rất xa nhau.

Trước khi việc chinh phục các tiểu hành tinh có thể trở thành một khả năng hiện thực, sự quan tâm chính tới chúng chính là lý thuyết nguồn gốc tiểu hành tinh, cụ thể lý thuyết cho rằng các tiểu hành tinh là tàn tích của một hành tinh đã nổ tung. Điều này tự nhiên dẫn tới giả thuyết viễn tưởng rằng trên hành tinh này từng có người ở, và vì thế chính các cư dân ở đó đã gây ra sự hủy diệt của chính họ, bởi chiến tranh hay những hành động tàn phá môi trường. Mở rộng thêm lý thuyết đó, nếu các tiểu hành tinh là tàn dư của một hành tinh trong quá khứ thì tương lai hủy diệt Trái Đất và các hành tinh khác thành các tiểu hành tinh mới cũng không thể bỏ qua.[19][20]

Khi đề tài chinh phục liên hành tinh lần đầu trở thành một chủ đề trong khoa học viễn tưởng, Vành đai Tiểu hành tinh không phải là nơi đáng thèm muốn, kém xa rất nhiều so với các hành tinh như Sao HoảSao Kim (thường được coi là một kiểu hành tinh thiên đường, cho tới khi các tàu thăm dò vũ trụ thập kỷ 1960 vén bức màn bí mật cho thấy nhiệt độ và điều kiện thực tế che giấu bên dưới những đám mây của chúng). Vì thế, trong nhiều câu chuyện và cuốn sách về Vành đai Tiểu hành tinh, nếu không thực sự là một nguy cơ, thì nó cũng chỉ là một nơi tù túng hiếm khi được đặt chân đến trong quá trình chinh phục Hệ Mặt trời.[21]

Viễn cảnh chinh phục các hành tinh trong Hệ Mặt trời càng trở nên tăm tối khi những khám phá ngày càng nhiều về điều kiện trên bề mặt của chúng. Trái lại, giá trị tiềm năng của các tiểu hành tinh lại tăng lên nhiều, như một nguồn tài nguyên khoáng vật, dễ dàng tiếp cận trong điều kiện lực hút hấp dẫn nhỏ, và khi những nguồn tài nguyên trên Trái Đất đang cạn đi. Những câu chuyện về khai thác tiểu hành tinh đã bắt đầu xuất hiện ngày càng nhiều kể từ cuối thập kỷ 1940, và bước tiến hợp lô gích tiếp theo chính là các xã hội kiểu Trái Đất trên những tiểu hành tinh đó.

Ghi chú

  1. ^ “Minor Planet Names”. Truy cập ngày 11 tháng 10 năm 2006.
  2. ^ trivia: about 650 of these names require diacritics
  3. ^ “Discovery Circumstances: Numbered Minor Planets (125001)-(130000)”. Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2006.
  4. ^ “New study reveals twice as many asteroids as previously believed”. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2006.
  5. ^ Krasinsky, G. A.; Pitjeva, E. V.; Vasilyev, M. V.; Yagudina, E. I. (2002). “Hidden Mass in the Asteroid Belt”. Icarus. 158 (1): 98–105.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  6. ^ Pitjeva, E. V. (2005). “High-Precision Ephemerides of Planets - EPM and Determination of Some Astronomical Constants”. Solar System Research. 39: 176.
  7. ^ Chapman, C. R., Morrison, D., & Zellner, B. (1975). “Surface properties of asteroids: A synthesis of polarimetry, radiometry, and spectrophotometry”. Icarus. 25: 104–130.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  8. ^ McSween Jr., Harry Y. Meteorites and Their Parent Planets. ISBN 0-521-58751-4.
  9. ^ “Carolyn Shoemaker”. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2003.
  10. ^ “Near Earth Object Program”. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2004.
  11. ^ “Minor Planet Discover Sites”. Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2006.
  12. ^ “Unusual Minor Planets”. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2006.
  13. ^ “Citation from MPC 55988”. Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2006.
  14. ^ “MIT News Office: Lucy Crespo da Silva, 22, a senior, dies in fall”. Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2006.
  15. ^ “When Did the Asteroids Become Minor Planets”. James L. Hilton. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2006.
  16. ^ Clarke, Arthur C. (1993). The Hammer of God.
  17. ^ Niven, Larry (1977). Lucifer's Hammer.
  18. ^ Asimov, Isaac (1953). Lucky Starr and the Pirates of the Asteroids.
  19. ^ Hogan, James P. (1977). Inherit the Stars.
  20. ^ Heinlein, Robert (1948). Space Cadet.
  21. ^ Isaac Asimov (tháng 3 năm 1939). “Marooned off Vesta”. Amazing Stories.

Xem thêm

Liên kết ngoài

(asteroid navigator) | First asteroid |...