Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Trung Quốc”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Đã lùi lại sửa đổi 5016079 của 87.65.70.196 (Thảo luận) cái tên Tàu khựa chó chết này
Dòng 471: Dòng 471:
| align="center" | Thiên nhiên
| align="center" | Thiên nhiên
|}
|}
Ngoài ra còn có các thắng cảnh khác nằm trong khu tự trị phía nam Trung quốc như:

[[Vịnh Hạ Long, Động Phong Nhã, Nhóm quần đảo Tây sa, Nam sa, Hà-Nội, Huế, Nhóm đảo Phú Quốc,Côn Sơn thuộc khu tự trị Việt Nam]]

<!--Nên bổ sung thêm phần từ sau năm 2003-->
<!--Nên bổ sung thêm phần từ sau năm 2003-->



Phiên bản lúc 07:37, ngày 2 tháng 10 năm 2011

Thông tin khác
HDI?0,772
cao

Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (giản thể: 中华人民共和国; phồn thể: 中華人民共和國; bính âm: Zhōnghuá Rénmín Gònghéguó, nghe phát âm; Hán-Việt: Trung Hoa Nhân dân Cộng hòa quốc; từ dưới sẽ viết tắt là CHNDTH), gọi tắt là Trung Quốc (中国) hay Trung Cộng (中共), là một nước ở khu vực Đông Á. Đây là nước đông dân nhất trên thế giới với hơn 1,3 tỷ người, phần nhiều thuộc sắc tộc Hán. CHNDTH được điều hành bởi Đảng Cộng sản Trung Quốc dưới chế độ một chính trị một đảng [1]. Đơn vị hành chính của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa gồm 22 tỉnh, năm khu tự trị, bốn thành phố trực thuộc trung ương (Bắc Kinh, Thiên Tân, Thượng Hải, Trùng Khánh) và hai vùng hành chính đặc biệt[2] (Hồng KôngMa Cao). Thủ đô của CHNDTH là Bắc Kinh.

Với diện tích 9.6 triệu km2, CHNDTH là quốc gia lớn thứ ba hoặc thứ tư thế giới về tổng diện tích[3] và lớn thứ hai về diện tích đất.[4]. Đây là quốc gia có địa hình đa dạng với với cao nguyên và sa mạc ở khu vực phía bắc gần Mông CổSiberi của Nga, rừng cận nhiệt đới ở miền nam gần Việt Nam, Lào, Myanmar. Địa hình ở phía tây gồ ghề với các dãy núi cao HimalayaThiên Sơn hình thành biên giới tự nhiên với Ấn ĐộTrung Á. Ngược lại, phía đông là vùng đồng bằng thấp và có 14.500 km chiều dài bờ biển với biển Đông ở phía đông nam và Đông Hải ở phía đông giáp với Đài Loan, Hàn QuốcNhật Bản.

Nền văn minh Trung Hoa cổ đại - là một trong những nền văn minh lâu đời nhất thế giới - phát triển rực rỡ trên lưu vực Hoàng Hà chảy qua Đồng bằng Hoa Bắc[5]. Trong hơn 4000 năm, hệ thống chính trị Trung Quốc dựa trên chế độ quân chủ cha truyền con nối. Triều đại đầu tiên là Nhà Hạ (khoảng năm 2000 trước CN) và sau đó Nhà Tần thống nhất Trung Quốc năm 221 trước CN. Triều đại cuối cùng là Nhà Thanh kết thúc năm 1911 với sự thành lập của Trung Hoa Dân Quốc bởi Quốc Dân Đảng. Nửa đầu của thế kỷ 20 chứng kiến Trung Quốc chìm trong cuộc nội chiến phân chia quốc gia theo hai đảng phái chính trị - Quốc Dân Đảng và Đảng Cộng Sản. Cuộc chiến chấm dứt năm 1949 sau khi Đảng Cộng Sản dành chiến thắng và thành lập Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ở đại lục. Chính quyền Trung Hoa Dân Quốc phải rút ra đảo Đài Loan với chủ quyền giới hạn gồm Đài Loan và vài hòn đảo ngoài khơi. Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa liên tục đòi chủ quyền lãnh thổ đối với Đài Loan (cùng với quần đảo Bành Hồ (澎湖群島), Kim Môn (金門) và quần đảo Mã Tổ (馬祖列島)), hiện do chính quyền Trung Hoa Dân Quốc quản lý. (Xem thêm Vị thế chính trị Đài Loan). Thuật ngữ "Trung Quốc Đại lục" hay "Hoa Lục" thường dùng để chỉ lãnh thổ dưới sự quản lý của CHNDTH (thường không tính hai đặc khu hành chính Hồng KôngMa Cao).

Từ khi tiến hành đổi mới kinh tế năm 1978, CHNDTH đã trở thành nền kinh tế phát triển nhanh nhất thế giới,[6] với tốc độ phát triển thần kỳ trung bình 10% trong vòng ba thập kỷ liên tiếp và trở thành quốc gia xuất khẩu lớn nhất thế giới cũng như là quốc gia nhập khẩu đứng thứ hai thế giới. Quá trình công nghiệp hóa nhanh chóng đã giúp Trung Quốc giảm tỉ lệ nghèo từ 53% năm 1981 xuống còn 8% năm 2001[7].

CHNDTH là một cường quốc và là nền kinh tế lớn thứ hai thế giới theo GDP danh nghĩa (thứ hai theo PPP) và là thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, cũng như thành viên của các tổ chức quốc tế như WTO, APEC, G-20Tổ chức Hợp tác Thượng Hải. Trung Quốc là quốc gia được công nhận có sở hữu vũ khí hạt nhân và là quốc gia có quân đội chính quy lớn nhất thế giới. Trung Quốc được nhiều học giả[8], nhà phân tích quân sự[9], nhà phân tích kinh tế[10] đánh giá là một siêu cường tiềm năng.

Vị trí địa lý

Hiện nay, Trung Quốc có đường biên giới giáp 14 quốc gia khác ở châu Á. Phía bắc giáp Mông Cổ, Nga; phía tây giáp Afghanistan, Kazakhstan, Kyrgyzstan, Tajikistan; phía nam giáp Nepal, Bhutan, Myanma, Ấn Độ, Lào, Việt Nam; phía đông giáp Bắc Triều TiênBiển Hoa Đông. Hiện nay, có thể coi rằng Trung Quốc là nước có đường biên giới tương đối dài trên thế giới.

Ngày 12 tháng 1 năm 2011, Quốc hội Tajikistan đã bỏ phiếu đồng ý nhượng 1,000 km vuông (386,1 dặm vuông) lãnh thổ cho Trung Quốc, chấm dứt cuộc tranh chấp kéo dài nhiều thế kỷ giữa hai nước.[11]

Lịch sử

Sau Thế chiến thứ hai, nội chiến xảy ra giữa Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc Quốc dân đảngĐảng Cộng Sản và chấm dứt vào năm 1949 với kết quả là Quốc Dân đảng mất đại lục Trung Quốc (cả đảo Hải Nam) vào phe Cộng sản, chỉ còn quản lý Đài Loan cùng một số đảo ngoài khơi xa của Phúc Kiến. Ngày 1 tháng 10 năm 1949, Mao Trạch Đông tuyên bố thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa theo thể chế nhà nước cộng sản tại đại lục.Dưới thời Mao Trạch Đông, chủ quyền và tính thống nhất của Trung Quốc lần đầu tiên sau hàng thập kỷ đã được bảo đảm, và đã có sự phát triển về mặt cơ sở hạ tầng, công nghiệp, y tế, và giáo dục.Tất cả điều này đã giúp nâng cao tiêu chuẩn dân sinh cho đại bộ phận người dân Trung Quốc. Họ cũng tin tưởng rằng những phong trào như Đại nhảy vọtCách mạng Văn hóa đã tác động tích cực đến sự phát triển của Trung Quốc và làm trong sạch nền văn hóa.

Tuy nhiên vào thời kỳ đầu Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã có một số sai lầm như Đại nhảy vọt, Cách mạng Văn hóa và Trăm hoa đua nở, gây thiệt hại nặng nề cho nền kinh tế, đồng thời phá hoại nghiêm trọng di sản văn hóa Trung Hoa. Đặc biệt từ khi có phong trào Đại nhảy vọt đã xảy ra một nạn đói khủng khiếp ở Trung Quốc. Đại hội Đại biểu Nhân dân toàn quốc đã bầu Lưu Thiếu Kỳ làm chủ tịch nước, khởi xướng cải cách kinh tế.

Chính trị

Tập tin:China, Mao (2).jpg
Mao Trạch Đông tuyên bố thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 1949 tại Quảng trường Thiên An Môn

Theo thuật ngữ kỹ thuật của khoa học chính trị, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (CHNDTH) được nhiều người coi là một nhà nước cộng sản trong gần như suốt thế kỷ thứ 20, thế nhưng nhiều nhà khoa học chính trị lại không coi đơn giản như vậy. Mọi cố gắng để lột tả một cách đơn giản bản chất của cấu trúc chính trị của Trung Quốc đều không đạt được kết quả. Chế độ này có nhiều cách miêu tả với tính chất như độc tài, cộng sản, hay xã hội, hay thậm chí bằng kết hợp của các tính chất trên. Còn một số người cộng sản thiên tả thì gọi nó là tư bản nhà nước.

Chính phủ CHNDTH do Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo. Trong khi có một vài xu hướng cho tự do chính trị, ở chỗ các cuộc bầu cử được tiến hành ở cấp làng xã và các cơ quan lập pháp đôi khi còn quyết đoán và Đảng vẫn giữ kiểm soát trong việc chỉ định các các chức vụ trong chính quyền. Trong khi đó, nhà nước dùng các phương pháp độc quyền để ứng xử với các thách thức đối với sự thống trị của nó, đồng thời, lại tìm cách hạn chế những bất đồng (chính kiến) bằng cách nâng cao nền kinh tế, cho phép người dân biểu lộ những bất bình, và có các đối đãi khoan dung với những người biểu thị sự bất đồng, nếu như họ được chính quyền tin là không có các tổ chức đứng sau.

Các phương tiện truyền thông dần dà chủ động tăng cường việc công khai hóa các vấn đề xã hội, tệ nạn tham nhũng, và sự thiếu hiệu quả của chính quyền cấp dưới. Đảng cũng đã không thành công lắm trong việc kiểm soát thông tin, và trong nhiều trường hợp phải thay đổi chính sách cho phù hợp với những phản ứng của quần chúng. Mặc dù sự chống đối có tổ chức không được dung tha, các cuộc biểu tình liên quan đến các vấn đề ở cấp địa phương diễn ra ngày càng phổ biến và được chấp nhận. Hiện chưa có thông tin rõ ràng về mức độ ủng hộ của dân chúng đối với Đảng Cộng sản Trung Quốc, vì chưa có tuyển cử quốc gia đúng nghĩa, cũng như các đối thoại riêng tư, các tin đồn thường thể hiện những quan điểm mâu thuẫn. Nhiều người hài lòng về vai trò của chính quyền trong việc giữ ổn định xã hội tạo tiền đề cho tăng trưởng kinh tế liên tục. Những lo ngại chính trị tại Trung Quốc hiện bao gồm khoảng cách giàu và nghèo ngày càng lớn, và ngày càng nhiều bất đồng đối với sự lan tràn của tham nhũng trong giới lãnh đạo và cán bộ các cấp.

Tại CHNDTH hiện còn có một số đảng phái khác, mặc dù chúng thường được coi như gắn với hoặc như một bộ phận trong ĐCSTQ. ĐCSTQ phối hợp với các đảng này thông qua một hội nghị hiệp thương đặc biệt, gọi là Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân Trung Quốc (HNHTCTNDTQ) do ĐCSTQ lãnh đạo. Mặc dù vậy, hiệu quả các đảng phái này trong chính quyền còn rất yếu. Với vai trò cố vấn không có quyền lực, HNHTCTNDTQ giống như một con mắt bên ngoài, mặc dù có các viên chức của hội đồng này hầu hết là nằm trong các bộ ngành của chính quyền.

Quan hệ ngoại giao

Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa có quan hệ ngoại giao với hầu hết các nước trên thế giới, và yêu cầu công nhận Đài Loan là một phần không thể tách khỏi của CHNDTH cũng như không có quan hệ chính thức với Trung Hoa Dân Quốc là điều kiện tiên quyết để thiết lập quan hệ ngoại giao với CHNDTH. Chính quyền Trung Quốc cũng cực lực phản đối các chuyến công du nước ngoài của những lãnh đạo chính trị Đài Loan như Lý Đăng HuyTrần Thủy Biển, cũng như Dalai Lama thứ 14.

Giang Trạch DânBill Clinton

Từ 1971, trong giai đoạn chuẩn bị cho Chuyến thăm Trung Hoa của Richard Nixon năm 1972, phía Mỹ đã ủng hộ CHNDTH thay thế Trung Hoa Dân Quốc trong vai trò đại diện duy nhất của nước "Trung Quốc" tại Liên Hiệp Quốc và trở thành một trong năm thành viên của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc. (Xem Trung Hoa và Liên Hiệp Quốc).

Đã có một thời gian Trung Quốc có quan hệ thân thiện với Phong trào không liên kết, và hiện tại chỉ ở vị trí quan sát viên. Phần lớn các chính sách ngoại giao của Trung Quốc hiện nay dựa trên khái niệm Sự trỗi dậy hòa bình của Trung Quốc.

Quan hệ Hoa-Mỹ đã gặp trở ngại nhiều lần trong một vài thập niên. Sau chiến thắng của phe Cộng sản trên toàn bộ Hoa lục năm 1949, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa mới được thành lập không mấy thân thiện với Mỹ. Mao Trạch Đông trong tháng 6/1946 đã ra lệnh thực hiện chiến dịch bài Mỹ. Lực lượng của Mao đã sách nhiễu người Mỹ ở Trung Quốc. Một nhà ngoại giao Mỹ đã bị cảnh sát của Mao ở Thượng Hải đánh đập. Tổng lãnh sự Mỹ ở Thẩm Dương cũng bị quản thúc trong một năm liền và tháng 10/1950 khi quân cộng sản Trung Quốc can thiệp vào Chiến tranh Triều Tiên, chống lại các lực lượng của Liên Hợp Quốc do Mỹ lãnh đạo khi lực lượng này đang cố gắng đẩy lui cuộc xâm lăng Nam Hàn của quân Bắc Hàn do Kim Nhật Thành chỉ huy thì Quan hệ Ngoại giao giữa 2 nước chấm dứt. Năm 1972, quan hệ này mới được khôi phục sau Chuyến thăm Trung Hoa của Richard Nixon

Tháng 5 năm 1999, một máy bay tàng hình B-2 đã thả ba trái bom loại 900 kg, có vệ tinh nhân tạo hướng dẫn, vào ngay đại sứ quán của Trung Quốc ở Belgrade trong thời gian chiến tranh Kosovo, làm chết ba nhân viên. Hoa Kỳ đã nhấn mạnh rằng đó là một nhầm lẫn không chủ ý, cho rằng tài liệu dùng trong việc lựa chọn tòa nhà làm mục tiêu tấn công đã dựa trên bản đồ quá cũ được in ra bởi Cơ quan Ảnh và Bản đồ Quốc gia (tên mới của nó là Cơ quan Tình báo Địa dư Quốc gia. Họ đã nhận lầm toà nhà này là một cơ quan quân sự của chính quyền Nam Tư. Mặc dù Mỹ đã gửi đại diện ngoại giao đặc biệt tới Trung Quốc để giải thích sự nhầm lẫn, nhưng chính quyền Trung Quốc vẫn cho đó là hành động có chủ ý. Tháng 4 năm 2001, một máy bay nhận dạng tín hiệu EP-3E Aries II của Mỹ hoạt động tình báo gần đảo Hải Nam đã đụng độ với một chiếc máy bay chiến đấu của Trung Quốc đang theo dõi nó. Chiếc phản lực Trung Quốc bị hỏng nát và viên phi công bị chết. Còn chiếc máy bay của Mỹ bị hư hại buộc phải đáp khẩn cấp xuống đảo Hải Nam, tại đó, 24 thành viên phi hành đoàn Mỹ đã bị giữ 12 ngày và các thiết bị dò thám đã bị tịch thu. Báo cáo Cox năm 1999 tiết lộ rằng các bí mật về hạt nhân của Mỹ bị CHNDTH hoạt động gián điệp đánh cắp trong nhiều thập niên.

Sau nhiều thập niên cải cách, việc giải quyết các tranh chấp lãnh thổ của Trung quốc đã có nhiều thay đổi. Từ chủ trương dùng vũ lực hoặc hăm doa dùng vũ lực để giải quyết vấn đề như đưa quân xâm chiếm một phần và toàn bộ quần đảo Hoàng Sa thập kỷ 50 và 70, xâm chiếm một phần quần đảo Trường Sa từ thập kỷ 80, đe dọa thống nhất Đài Loan bằng mọi biện pháp nếu Đài Loan tuyên bố độc lập,đưa tàu ngầm vào lãnh hải Nhật, ra nhiều tuyên bố về chủ quyền về các đảo và vùng biển tranh chấp với Nhật, đơn phương khai thác tài nguyên vùng biển chồng lấn, từ chỗ bị nhiều người cho là nhân tố gây bất ổn ở eo biển Đài Loan, biển Đông và biển Nam Trung hoa, Trung quốc đã thay đổi chủ trương giải quyết bất đồng thông qua đàm phán và thương lượng, cùng gạt qua bất đồng chủ quyền để hợp tác khảo sát và khai thác tài nguyên biển, cũng như các hoạt động ngoại giao thiện chí với Ấn độ và Pakistan. Trung quốc hiện nay tỏ rõ quyết tâm về "sự trỗi dậy trong hòa bình của Trung quốc". Cho dù còn có nhiều ý kiến khác nhau, ngày càng có nhiều giới tỏ ý tin rằng Trung quốc ngày nay là một nước lớn trong khu vực có trách nhiệm và có thành ý hướng tới việc tôn trọng công pháp quốc tế và sẽ sớm trở thành nhân tố an ninh, hòa bình ở khu vực biển Đông và trên thế giới.

Ngoài vấn đề Đài Loan, Trung Quốc đã có những tranh chấp khác về lãnh thổ như:

Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa luôn coi trọng việc gắn ngoại giao phục vụ cho ngoại thương, xúc tiến và tiếp thị hàng hóa nhất là khi cả thế giới nghi ngờ hàng hóa Trung Quốc có chứa chất độc hại hoặc chất lượng thấp. Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã can thiệp nhắc nhở với tư cách láng giềng anh em xã hội chủ nghĩa rằng Việt Nam cần chỉ đạo cho báo chí mà nhà nước kiểm soát phải giảm nhẹ tầm quan trọng của vấn đề chứ không reo rắc nghi ngại cho người tiêu dùng Việt Nam.[12]

Quân sự

CHNDTH duy trì một lực lượng quân đội lớn nhất thế giới, tuy nhiên theo nhiều chuyên gia, số lượng không phải là cơ sở để đánh giá sức mạnh của một quân đội. Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc (QGPNDTQ) bao gồm lục quân, không quânhải quân. Ngân sách quốc phòng của Trung Quốc năm 2005 theo như công bố chính thức là 30 tỷ đô la Mỹ, chưa kể chi tiêu cho việc mua vũ khí từ nước ngoài, ngân sách cho các nghiên cứu trong quân sự, cũng như chi phí cho các lực lượng bán quân sự (Bộ đội cảnh sát Vũ trang Nhân dân). Nghiên cứu gần đây nhất của RAND ước tính tổng chi phí cho quân sự của CHDNTH là gấp khoảng 1.4 đến 1.7 lần con số chính thức.

Như vậy theo ước lượng này thì ngân sách của Trung Quốc chi tiêu cho quân sự vào khoảng 56 tỷ đô la Mỹ, đứng thứ ba trên thế giới chỉ sau Mỹ (khoảng 400 tỷ đô la) và Nga. CHNDTH, mặc dù sở hữu vũ khí hạt nhân và hệ thống đẩy, được trong cũng như ngoài Trung Quốc đánh giá là khả năng quân sự hạn chế trong trường hợp có xung đột bên ngoài biên giới, và thường không được coi là siêu cường quốc tế thực sự mà chỉ là cường quốc tương đối trong khu vực. Nguyên nhân là vì hải quân và không quân thiếu các trang bị và vũ khí quy mô, hiện đại. Tuy nhiên, gần đây Trung Quốc đã mua một tàu sân bay của Nga, nhưng tàu này đã bị phá hủy trước khi Trung Quốc nhận được. Nhiều người cho rằng CHNDTH sẽ không sửa lại con tàu này mà sẽ dùng nó làm mẫu để thiết kế một con tàu sân bay hiện đại hơn.

Quân đội Trung Quốc tăng cường vũ trang cho các lực lượng của mình trong trường hợp có đụng độ với Mỹ tại Đài Loan. CHNDTH cũng tích cực mua các loại máy bay chiến đấu đời mới nhất như Su-27, Su-30, đồng thời cũng có các kế hoạch tự sản xuất các loại máy bay chiến đấu tương đối hiện đại. Chứng kiến hiệu quả của không quân Mỹ tại Iraq nên quân đội CHNDTH đã tích cực hiện đại hóa lực lượng không quân của mình. Không quân được sắm các tên lửa đất đối không cực kỳ hiện đại S-300, được coi là thiết bị ngăn chặn máy bay hiện đại nhất thế giới hiện nay. CHNDTH cũng nhanh chóng cải tiến và nâng cấp các lực lượng quân sự bằng cách nâng cao các năng lực điện tử và nhắm mục tiêu của chúng. CHNDTH được coi là mối đe dọa thực sự đối với Mỹ và Mỹ cũng không hài lòng vì CHNDTH đã can thiệp vào các mục tiêu của nó ở phương Đông. Tuy nhiên hình ảnh quốc tế của QGPNDTQ đã bị một vết nhơ khi đàn áp bắn chết hàng trăm, thậm chí có thể đến hàng nghìn sinh viên trong sự kiện Thiên An Môn tháng sáu năm 1989.

Phân chia hành chính

Các đơn vị hành chính cấp tỉnh của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa

Toàn Trung Quốc có tất cả 34 đơn vị hành chính. Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa kiểm soát hơn 22 tỉnh (省); chính quyền Trung Quốc xem Đài Loan như là tỉnh thứ 23 của họ. (Xem Tình trạng chính trị của Đài Loan). Cùng với các tỉnh này CHNDTH cũng quản lý 5 khu tự trị (自治区) tập trung các sắc dân thiểu số, 4 thành phố trực thuộc trung ương (直辖市) là những thành phố lớn nhất của Trung Quốc và hai đặc khu hành chính (Ma CaoHồng Kông) (ĐKHC) (特别行政区). Toàn bộ 22 tỉnh, 5 khu tự trị và 4 thành phố lớn nhất thường được gọi chung như Đại lục Trung Quốc, thuật ngữ này thường không tính Hồng Kông, Ma Cao và Đài Loan.

Một góc thủ đô Bắc Kinh.
Toàn cảnh thành phố Thượng Hải.

Sau đây là danh sách các đơn vị hành chính do CHNDTH quản lý:

Tỉnh (22)

Tỉnh Tên tiếng Trung Tỉnh Tên tiếng Trung Tỉnh Tên tiếng Trung Tỉnh Tên tiếng Trung Tỉnh Tên tiếng Trung
An Huy (安徽) Giang Tô (江苏) Hắc Long Giang (黑龙江) Phúc Kiến (福建) Sơn Tây (山西)
Cam Túc (甘肃) Hà Bắc (河北) Hồ Bắc (湖北) Quảng Đông (广东) Thanh Hải (青海)
Cát Lâm (吉林) Hà Nam (河南) Hồ Nam (湖南) Quý Châu (贵州) Thiểm Tây (陕西)
Giang Tây (江西) Hải Nam Liêu Ninh (辽宁) Sơn Đông (山东) Tứ Xuyên (四川)
Triết Giang (浙江) Vân Nam (云南)

Khu tự trị (5)

Thành phố trực thuộc trung ương (4)

Đặc khu hành chính (2)

CHNDTH đòi chủ quyền, Trung Hoa Dân Quốc quản lý (1)

Địa lý

Địa lý Trung Quốc
Lượng mưa trung bình hằng năm tại Trung Quốc

CHNDTH là nước lớn thứ tư trên thế giới và có rất nhiều dạng khí hậu và địa dư khác nhau. Phía đông, dọc theo bờ biển Hoàng HảiĐông Hải Trung Quốc là các bình nguyên phù sa với mật độ dân cư rất dày đặc; dọc theo bờ Biển Đông (Trung Quốc gọi là Nam Hải) có nhiều núi non và miền nam đặc trưng bởi đồi và các dãy núi thấp. Trong vùng trung tâm của phía đông là các châu thổ của hai con sông chính Hoàng HàDương Tử. Những con sông lớn khác gồm có Tây Giang, Lan Thương Giang (Mê Kông), BrahmaputraHắc Long Giang.

Phía tây phần lớn là các dãy núi, đáng lưu ý nhất là dãy Hy Mã Lạp Sơn với đỉnh cao nhất của Trung Hoa cũng như của thế giới là đỉnh Everest, và các cao nguyên ở vị trí cao mà có đặc tính khô cằn của sa mạc như Takla-Makansa mạc Gobi. Do hạn hán kéo dài và có lẽ kỹ thuật canh tác nông nghiệp nghèo nàn, các cơn bão cát thường xuyên xảy ra vào mùa xuân ở Trung Quốc. Theo cơ quan Bảo vệ môi trường Trung Quốc, sa mạc Gobi đang mở rộng và trở thành khởi nguồn của những cơn bão cát ảnh hưởng đến Trung Quốc và các khu vực khác ở đông bắc Á như Đài Loan, Triều TiênNhật. Cát bụi từ đồng bằng phía bắc Trung Quốc còn tìm thấy ở Bờ Tây nước Mỹ. Việc vứt chất thải tiêu dùng cũng như chất thải công nghiệp bừa bãi vào các con sông, việc sử dụng tài nguyên nước không hiệu quả cho tưới tiêu và tiêu dùng, việc xây dựng nhiều đập chứa nước, cũng như vấn đề sói mòn đất đai đang trở thành mối quan ngại trong quan hệ giữa Trung Quốc với các nước láng giềng.

Kinh tế

Bài chi tiết: Kinh tế Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa

Đảng Cộng sản Trung Quốc gọi nền kinh tế của Trung Quốc là kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa mang màu sắc Trung Quốc (具有中国特色的社会主义市场经济). Bắt đầu từ cuối năm 1978 các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã tiến hành cải tổ nền kinh tế từ mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung kiểu Xô viết sang nền kinh tế hướng thị trường hơn nhưng vẫn trong khuôn khổ kiểm soát của Đảng. Theo mục tiêu này, chính quyền đã chuyển sang cơ chế khoán trong nông nghiệp thay cho hình thức hợp tác xã, tăng quyền hành đối với cán bộ địa phương và lãnh đạo các nhà máy trong công nghiệp, cho phép hoạt động đối với một loạt các doanh nghiệp cỡ nhỏ trong các ngành dịch vụ và sản xuất nhỏ, và mở cửa nền kinh tế cho ngoại thương và đầu tư nước ngoài. Các chính sách kiểm soát giá cả cũng được nới lỏng. Kết quả là nền kinh tế Hoa Lục đã chuyển từ một nền kinh tế mệnh lệnh sang hình thức kinh tế hỗn hợp, dung hòa cả khuynh hướng tư sản lẫn vô sản.

Chính phủ không còn nhấn mạnh đến sự công bằng mà chú trọng việc tăng thu nhập cũng như sức tiêu thụ cá nhân đồng thời áp dụng những hệ thống quản lý mới để tăng năng suất. Chính phủ cũng tập trung vào ngoại thương như một động cơ chính cho tăng trưởng kinh tế, theo đó 5 đặc khu kinh tế (ĐKKT) đã được thành lập với luật lệ đầu tư được nới lỏng để thu hút vốn nước ngoài. Kết quả là từ 1978 GDP đã tăng lên bốn lần. Năm 1999, với số dân là 1,25 tỷ người và GDP chỉ vào $3.800 đầu người, CHNDTH đã trở thành nền kinh tế đứng thứ sáu trên thế giới về quy mô theo tỷ giá hối đoái và thứ ba trên thế giới chỉ sau Liên Minh Châu ÂuHoa Kỳ theo sức mua. Thu nhập bình quân mỗi năm của một người công nhân Trung Quốc là 1.300 đô la Mỹ. Tốc độ phát triển của nền kinh tế Trung Quốc được đánh giá thuộc hàng nhanh nhất trên thế giới, vào khoảng 7-8% mỗi năm theo các số liệu thống kê của chính phủ Trung Quốc. Trung Quốc hiện nay đã trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới.

Đại lục Trung Quốc còn nổi tiếng là nơi sản xuất hàng hóa giá thấp vì nguồn nhân công dồi đào, rẻ tiền. Một công nhân trong một xí nghiệp đặt tại nông thôn Trung Quốc thường được trả 50 xu tới 1 đô la Mỹ mỗi giờ (trung bình là 0,86 đô la), so với 2$ đến 2,50 đô la một giờ tại Mêhicô và 5,50 đô la tại Mỹ là mức lương tối thiểu. Thêm vào đó đa số công nhân Trung Quốc thường không thích tham gia công đoàn. Đây là một điểm lợi đối với giới chủ vì cho họ cơ hội tận dụng thoải mái nguồn lao động. Sự thiếu vắng công đoàn lao động tại Trung Quốc có thể được giải thích bởi sự e ngại rằng công đoàn là nơi để Đảng cộng sản Trung Quốc tìm những nhân vật bất đồng chính kiến.

Một khía cạnh khác của nền kinh tế Trung Quốc là chi phí đầu vào ngoài nhân công khá thấp. Điều này là do môi trường cạnh tranh khốc liệt với nhiều nhà sản xuất và xu hướng chung nghiêng về nguồn cung cấp dư thừa và giá thành thấp. Ngoài ra còn phải kể đến sự kiểm soát giá cả và sự đảm bảo nguồn cung thừa hưởng từ nền kinh tế mệnh lệnh theo kiểu Sô viết lúc trước. Trong khi các doanh nghiệp Nhà nước tiếp tục được giải thể và nhân công chuyển sang làm trong các lĩnh vực có năng suất cao và hiệu ứng lạm phát này sẽ tiếp tục đặt áp lực lên giá cả thị trường.

Các chính sách ưu đãi về thuế là một trong những chính sách khích lệ áp dụng cho ngành sản xuất tại Trung Quốc, bất kể là sản xuất để xuất khẩu hay cho thị trường nội địa 1,3 tỷ dân. Trung Quốc đang cố gắng hài hòa chính sách thuế khóa áp dụng trên các doanh nghiệp, trong nước cũng như nước ngoài đều như nhau. Kết quả là các chính sách thuế quan áp dụng cho các doanh nghiệp xuất khẩu đặt tại các đặc khu kinh tế và các thành phố ven biển trở thành mục tiêu của cải cách. Tổng sản lượng xuất khẩu của Trung Quốc sang Mỹ là 125 tỷ đô la Mỹ năm 2002; trong khi xuất khẩu từ Mỹ vào Trung Quốc là 19 tỷ. Sự mất cân đối này chủ yếu là do Mỹ tiêu dùng nhiều hơn mức sản xuất và phần đông những người Trung Quốc được trả lương thấp không có khả năng mua hàng hóa đắt tiền của Mỹ. Một lý do khác cũng được đưa ra là tỷ giá bất lợi giữa đồng nhân dân tệđô la Mỹ trong đó nhân dân tệ không được thả nổi. Ngày 21 tháng 7 năm 2005, Ngân hàng nhân dân Trung Quốc tuyên bố chuyển sang chính sách thả nổi tỷ giá, cho phép biến động tới 0,3% một ngày. Lượng hàng hóa xuất khẩu của Trung Quốc sang Mỹ tăng mỗi năm 20%, gấp nhiều lần so với hàng Mỹ vào Trung Quốc. Cùng với việc xóa bỏ hạn ngạch trên hàng may mặc, Trung Quốc đã chiếm phần lớn thị phần trong ngành may mặc thế giới. [1], [2] Bản mẫu:Chiến lược kinh tế khu vực của Trung Quốc

Năm 2003, GDP của Trung Quốc tính theo sức mua tương đương đạt 6.400 tỷ đô la, trở thành nước đứng thứ hai trên thế giới. Theo các phương pháp tính toán truyền thống thì Trung Quốc xếp thứ sáu. Ngay cả với số dân đông thì thu nhập bình quân đầu người dân Trung Quốc hiện vào khoảng 5.000 đô la, bằng 1/7 so với Mỹ. Tốc độ phát triển theo như báo cáo chính thức năm 2003 là 9,1%. Theo ước lượng của CIA năm 2002 nông nghiệp chiếm 14,5% tổng sản lượng quốc gia, công nghiệp và xây dựng chiếm 51,7% và dịch vụ là 33,8%. Thu nhập bình quân khu vực nông thôn bằng một phần ba so với khu vực thành thị, và khoảng cách này ngày càng gia tăng trong những năm gần đây. Các khu vực kinh tế của Đại lục Trung Quốc vận hành theo các chiến lược do chính quyền trung ương công bố.

Mức độ thịnh vượng không đồng đều giữa khu vực ven biển với phần còn lại của đất nước tương đối rõ rệt. Để giải bài toán bất ổn định này, chính phủ Trung Quốc đã đề ra các sáng kiến chiến lược Phát triển miền tây Trung Quốc (2000), sáng kiến Hồi sinh miền đông bắc Trung Quốc (2003), và chính sách Sự vươn lên của miền trung Trung Quốc (2004), tất cả đều nhắm đến việc giúp khu vực bên trong Trung Quốc theo kịp.

Con người

Trung Quốc là quốc gia đa dân tộc với 56 dân tộc được chính thức công nhận. Trung Quốc là nước có dân số lớn nhất thế giới khoảng 1,3 tỉ người. Dân tộc chủ yếu là người Hán chiếm tới 93% số dân cả nước và là dân tộc chính trên một nửa diện tích Trung Quốc. Ngay người Hán cũng là một dân tộc tương đối không đồng nhất về mặt chủng tộc, có thể coi như là sự kết hợp giữa nhiều nhóm dân tộc khác nhau cùng chia sẻ những đặc điểm văn hóa và ngôn ngữ chung. Người Kinh (người Việt) tạo thành một nhóm nhỏ tập trung ở vùng ven biển Quảng Tây.

Là một nước đông dân, chính phủ có chính sách hạn chế phát triển dân số, chính sách này yêu cầu các gia đình ở các vùng đô thị (ngoại trừ các dân tộc "thiểu số" như Tây Tạng) chỉ nên có một con còn các hộ gia đình ở các vùng nông thôn có thể có hai con nếu con đầu là gái. Do ở các vùng nông thôn, người con trai được coi có lợi về mặt kinh tế hơn cộng với yếu tố văn hóa, tâm lý truyền thống của người Trung Quốc là chuộng con trai hơn, do vậy có vẻ như tỷ lệ phá thai chọn giới tínhvứt bỏ trẻ sơ sinh khá cao ở những vùng nông thôn. Đặc biệt chính sách này chỉ áp dụng đối với người Hán. Và ngày càng có nhiều viện cô nhi nuôi trẻ em bị bỏ rơi, và khoảng 98% những trẻ em này không có ai nhận làm con nuôi mà sống hẳn trong các viện này cho đến lúc trưởng thành. Trước tình hình đó, Trung Quốc đã mở một chương trình nhận con nuôi quốc tế nhưng hiện cũng chỉ đáp ứng được một tỷ lệ nhỏ những trẻ em này.

Kết quả là năm 2000 tỷ lệ giới tính của trẻ sơ sinh tại Trung Quốc là 177 bé trai so với 100 bé gái, cao hơn rất nhiều so với tỷ lệ tự nhiên (106 trên 100). Mặc dù có thể giải thích bằng những nguyên nhân đề cập ở trên, có một nguyên nhân nữa cũng phải kể ra là do tỷ lệ mắc bệnh viêm gan cao ở người Trung Quốc (xem phần nói về sức khỏe cộng đồng dưới đây). Do vậy chính phủ CHNDTH đã cố gắng xử lý vấn đề này bằng cách đề cao hơn vai trò của người phụ nữ và lên án những trung tâm y tế và bác sỹ nào cho cha mẹ của đứa trẻ sắp sinh biết trước giới tính của nó. Sự bất cân đối trong tỷ lệ giới tính khiến cho khoảng 30-40 triệu đàn ông Trung Quốc không thể lấy vợ Trung Quốc được. Ngoài việc di cư gia tăng (hoặc có thể khiến tình trạng đa phu trở nên phổ biến), tình hình này cũng có thể làm gia tăng số lượng mại dâm, hoặc thậm chí có những trường hợp bắt cóc, mua bán phụ nữ từ nước ngoài hay từ các vùng quê hẻo lánh. Các vùng có mật độ dân cư đông nhất là: Đồng bằng sông Hoàng Hà, Trường Giang, Châu Giang và vùng đông bắc. Vùng miền núi phía tây gồm Tây Tạng, Tân Cương... dân cư thưa thớt.

Y tế

Một số vấn đề về sức khoẻ cộng đồng tại CHNDTH đang trở nên trầm trọng: các vấn đề về sức khoẻ do ô nhiễm không khí và nước tiêu dùng, sự lan tràn của dịch bệnh AIDS cùng với hàng trăm triệu người hút thuốc lá. Bệnh dịch HIV, ngoài những đường lây nhiễm thông thường, đã trầm trọng hơn do việc tiếp nhận và truyền máu không hợp vệ sinh trong thời gian trước đây, chủ yếu tại các vùng nông thôn. Vấn đề thuốc lá khá phức tạp do chính phủ độc quyền và phụ thuộc vào nguồn thu trong ngành kinh doanh này nên dường như lưỡng lự khi xử lý vấn đề thuốc lá so với các vấn đề sức khỏe cộng đồng khác.

Viêm gan B là một bệnh dịch ở Đại lục Trung Quốc, với tỷ lệ dân chúng nhiễm bệnh nghiêm trọng vào khoảng 10%. Do đó bệnh hư gan hay ung thư gan là một nguyên nhân tử vong phổ biến ở Trung Quốc. Bệnh viêm gan cũng là một trong những nguyên nhân của việc mất cân đối giới tính tại Trung Quốc (Số trẻ sơ sinh nữ ít hơn. Xem bài viết bằng tiếng Anh Hepatitus B and the Case of the Missing Women). Một chương trình khởi động năm 2002 phấn đấu trong vòng 5 năm sẽ chủng ngừa cho toàn bộ số trẻ sơ sinh tại Trung Quốc.

Vào tháng 11 năm 2002, bệnh viêm phổi không điển hình SARS xuất hiện ở tỉnh Quảng Đông. Tuy nhiên, vào những giai đoạn đầu của dịch bệnh, Trung Quốc đã giấu nhẹm cả trong lẫn ngoài nước tin tức về bùng nổ ổ dịch nên đã để dịch bệnh lan tràn tới các khu vực và các nước xung quanh như Hồng Kông, Việt Nam và các nước khác qua bước chân của khách du lịch. Chỉ tính trong Trung Quốc đã có 5327 ca nhiễm và 348 trường hợp tử vong được thông báo chính thức, khiến Trung Quốc trở thành nước nhiễm SARS nhiều nhất tính đến thời điểm hiện nay. Ngày 19 tháng 5 năm 2004, Tổ chức Y tế Thế giới đã công nhận Trung Quốc không còn trường hợp nào nhiễm dịch bệnh này.

Một vấn đề nữa mà Trung Quốc phải đối mặt là các dịch bệnh cúm gia cầm bùng nổ trong những năm gần đây cho các loài gia cầm và chim chóc, cùng với một số người nhiễm. Loại virus này chủ yếu lây từ gia cầm sang người, tuy vậy mối lo ngại hiện nay theo các chuyên gia là dự báo loại virus gây ra dịch bệnh toàn cầu này có khả năng biến thể sang hình thức lây nhiễm từ người sang người. Một vấn đề nữa Trung Quốc cũng gặp phải là việc truyền vi khuẩn Streptococcus từ lợn sang người trong thời gian gần đây đã dẫn đến số tử vong cao bất thường tại tỉnh Tứ Xuyên và các vùng xung quanh.

Khoa học và kỹ thuật

Các thành tựu thời cổ đại

Trung Quốc cổ đại đã đạt được rất nhiều thành tựu trong nghiên cứu khoa học và kỹ thuật. Trong số những thành tựu về khoa học của Trung Quốc cổ đại phải kể đến la bàn, thuốc súng, kỹ thuật làm giấykỹ thuật in ấn, được coi là tứ đại phát minh. Ngoài ra cũng còn nhiều phát minh trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Chương trình không gian của CHNDTH ngày nay là thành tựu đáng kể, sử dụng và phối hợp nhiều tiến bộ khoa học và kỹ thuật tiên tiến.

Chương trình không gian

Sau khi Trung Quốc và Liên Xô cắt đứt quan hệ ngoại giao, CHNDTH đã tiến hành phát triển riêng hệ thống đánh chặn có sử dụng vũ khí hạt nhân (có sức tàn phá lớn) và hệ thống đẩy đi kèm. Từ đó CHNDTH trở thành một trong năm nước sở hữu vũ khí hạt nhân; nhưng cho tới nay CHNDTH là nước duy nhất không ký vào công ước không đánh đòn hạt nhân phủ đầu đối với các nước không có vũ khí hạt nhân nhằm răn đe Trung Hoa Dân Quốc. Chương trình phóng vệ tinh nhân tạo là một trong những thành quả của kế hoạch này. Năm 1970, Trung Quốc phóng vệ tinh nhân tạo đầu tiên của mình là Đông Phương Hồng I vào không gian. Thành tựu này đưa Trung Quốc trở thành quốc gia thứ năm tự phóng được vệ tinh nhân tạo. Nước này cũng có các kế hoạch để xây dựng chương trình tàu không gian có người lái cũng vào khoảng năm 1970, với dự án 714 và tàu không gian có người lái Thự Quang. Dự án này sau đó bị hủy bỏ vì một loạt những trục trặc chính trị và kinh tế.

Năm 1992, chương trình tàu không gian có người lái theo dự án 992 được triển khai. Vào ngày 19 tháng 11 năm 1999, tàu không gian không người lái Thần Châu 1 được phóng lên không gian coi như chuyến bay thử nghiệm đầu tiên của chương trình. Sau ba lần thử nghiệm nữa, phi thuyền Thần Châu 5 được tên lửa Trường Chinh 2F phóng lên vào ngày 15 tháng 10 năm 2003, mang theo nhà du hành vũ trụ Dương Lợi Vỹ, đưa Trung Quốc thành nước thứ ba trên thế giới đưa được người vào không gian bằng khả năng của riêng mình. Lần phóng thứ hai tàu có người lái Thần Châu 6 vào ngày 12 tháng 10 năm 2005 với 2 nhà du hành vũ trụ Phí Tuấn Long và Nhiếp Hải Thắng cũng đã thành công. Nhiều chuyên gia cho rằng tàu không gian Thần Châu được phát triển từ thiết kế của tàu không gian Soyuz của Liên Xô, tuy nhiên nhiều người Trung Quốc phản đối điều này. Một tuần sau khi phóng tàu Thần Châu 5, một bài xã luận của Thời báo Ấn Độ nói là Trung Quốc chỉ thể hiện kết quả của một công nghệ cũ 40 năm. Tuy vậy, thành quả này của Trung Quốc có thể dấy lên một cuộc chạy đua vào không gian mới.

Văn hóa

Các giá trị truyền thống của Trung Quốc đa phần bắt nguồn từ các tư tưởng chính thống của Nho giáo/chủ nghĩa bảo thủ, những tư tưởng này đã từng là nội dung giảng dạy chính trong trường học và được đưa vào một phần trong các kỳ thi tuyển quan chức cho chế độ phong kiến. Tuy nhiên, thuật ngữ Nho giáo hơi có vấn đề ở chỗ hệ tư tưởng đã từng đạt đến đỉnh cao vào thời Trung Quốc phong kiến nhà Thanh, thực ra là kết quả của nhiều khuynh hướng tư tưởng khác nhau, trong đó có Pháp gia, mà dưới nhiều khía cạnh bắt nguồn từ tư tưởng chính thống ban đầu của Nho gia; thực tế là khi chế độ phong kiến Trung Quốc đạt tới đỉnh cao thì những vấn đề như ý thức quyền lợi cá nhân, góp ý với chính quyền, và đòi hỏi những thay đổi cho cuộc sống càng bị những triết gia "chính thống" tìm cách ngăn cản, cho rằng Nho giáo là đồng nghĩa với sự quy phục và ổn định chính trị. Hiện nay, có những nhà Nho đương đại lại phản đối kiểu diễn giải đó và cho rằng những lý tưởng dân chủ và quyền con người hoàn toàn phù hợp với những "giá trị châu Á" Nho giáo cổ truyền.

Những nhà lãnh đạo đã cố gắng thay đổi xã hội Trung Hoa sau khi Cộng hòa nhân dân Trung Hoa được thành lập vào năm 1949 đều là những người được đào tạo dưới xã hội cũ cùng với những dấu ấn giá trị của nó. Mặc dù đều là những người có ý thức cách mạng, họ không có ý định biến đổi hoàn toàn nền văn hóa Trung Hoa. Là những nhà quản lý thực dụng, lãnh đạo của CHNDTH tìm cách thay đổi một số khía cạnh truyền thống như vấn đề sở hữu đất canh tác và vấn đề giáo dục, tuy vậy vẫn giữ những giá trị cũ như cơ cấu gia đình. Thực ra, nhiều người cho rằng thời kỳ cộng sản sau năm 1949 thực ra chỉ là sự nối tiếp lịch sử Trung Quốc truyền thống, chứ không phải là những gì thực sự cách mạng–quần chúng vẫn chấp nhận quan điểm phục tùng giai cấp lãnh đạo như xưa mà không hề phản đối. Chính quyền mới được coi như nắm giữ Thiên mệnh, giành quyền từ chế độ cũ và thiết lập triều đại mới. Cũng giống như thời phong kiến, người cai trị (Mao Trạch Đông) được tôn sùng và coi như không bao giờ mắc lỗi. Do vậy, thay đổi trong xã hội Trung Quốc không phải là toàn diện và nhất quán theo như phát ngôn chính thức.

Trong thời kỳ Cách mạng văn hóa do Hồng vệ binh tiến hành, nhiều khía cạnh của văn hóa truyền thống Trung Quốc như nghệ thuật, văn học, ngôn ngữ, bị chế độ coi là "tàn dư của chế độ phong kiến", là độc hại và đi lùi so với thời đại nên đã bị xóa bỏ khá nhiều. CHNDTH đã cải cách nhiều loại hình nghệ thuật, theo kiểu như "biến đổi" Kinh kịch để phù hợp với các khẩu hiệu tuyên truyền hiện thực xã hội chủ nghĩa. Theo thời gian, phần lớn văn hóa truyền thống Trung Quốc được người dân và chế độ chấp nhận là một phần của của xã hội Trung Quốc; thực tế là chính sách quốc gia của Trung Quốc thường tán dương đây là những thành tựu quan trọng của nền văn minh Trung Quốc, và nhấn mạnh chúng là những yếu tố quan trọng trong việc hình thành một bản sắc quốc gia Trung Quốc. Trong những năm gần đây, CHNDTH cũng thường xuyên củng cố tinh thần quốc gia mà nhiều người cho là chiến thuật để duy trì sự lãnh đạo hợp pháp của họ.

Du lịch

Khái quát về du lịch Trung Quốc

Là một đất nước rộng lớn và với bề dày lịch sử trên 5.000 năm, Trung Quốc ngày nay là một nơi hấp dẫn du lịch vào loại bậc nhất trên thế giới theo phong cách văn hóa Phương Đông. Năm 2000, Trung Quốc đón 84 triệu du khách nước ngoài (Kể cả Hongkong và Macao). Với 32 địa danh được UNESCO công nhận là di sản thế giới đến năm 2003, Trung quốc trở thành quốc gia xếp thứ 3 trên thế giới về sở hữu số lượng di sản thế giới (Di sản vật thể). Với địa hình đa dạng và với lịch sử phong kiến tập quyền hàng ngàn năm, ngành du lịch Trung Quốc vẫn đang trong quá trình tìm kiếm và khai quật khảo cổ những địa danh thiên nhiên và lịch sử sẽ làm sửng sốt thêm hàng triệu du khách và chắc chắn rằng con số mà UNESCO công nhận ở Trung quốc không dừng lại ở con số 32. Có thể nói, những di tích, những công trình kiến trúc, những hiện vật liên quan, thậm chí là những giai thoại lịch sử của người Trung quốc... cách đây hàng mấy trăm năm thậm chí hàng ngàn năm nhưng các chính quyền Trung Quốc trước nay phần lớn đều gìn giữ nguyên vẹn. Đây là một thế mạnh quan trọng nhất của ngành du lịch về loại hình văn hóa - lịch sử.

Hiện tại du lịch Trung quốc đã rất đa dạng về loại hình là nhằm mục đích phát triển đa dạng về nguồn khách. Ví dụ như muốn tìm hiểu đất nước Trung quốc trong 10 năm qua thì nên đến thành phố Thâm Quyến; Trong 100 năm thì đến Thượng Hải; Trong 1.000 năm thì đến Bắc Kinh... Nhưng hầu hết khi nói đến du lịch Trung Quốc thì người ta nghĩ ngay đến các cảnh quan thiên nhiên huyền bí và các lăng tẩm, đền đài, thành luỹ rất cổ kính và đồ sộ của người Trung quốc xưa. Và đó cũng là lý do để UNESCO công nhận, xếp hạng và bảo tồn các địa danh du lịch chính của Trung quốc hiện nay.

Sau đây là danh sách các địa danh du lịch nổi tiếng của Trung Quốc đã được UNESCO công nhận đến năm 2003.

Các kỳ quan được UNESCO công nhận

Tên địa danh Năm xây dựng Tỉnh/TP Năm UNESCO công nhận Thể loại
Vạn lý Trường thành TK XII - IV TrCN. Nhiều tỉnh thành 12/1987 Văn hóa
Cố Cung 1406 - 1420 Bắc Kinh 12/1987 Văn hóa
Hang đá Mạc Cao Cam Túc 12/1987 Văn hóa
Lăng mộ Tần Thủy Hoàngcác tượng binh mã 246-208 TCN Thiểm Tây 12/1987 Văn hóa
Di chỉ người vượn Bắc Kinh Bắc Kinh 12/1987 Khảo cổ học
Núi Thái Sơn Sơn Đông 12/1987 T. nhiên - V. hóa
Khu danh thắng Hoàng Sơn An Huy 12/1990 T. nhiên - V. hóa
Khu danh thắng Võ Lăng Nguyên Hồ Nam 12/1992 Thiên nhiên
Khu danh thắng Cửu Trại Câu Tứ Xuyên 12/1992 Thiên nhiên
Khu danh thắng Thừa Đức 1703 Hà Bắc 12/1994 Văn hóa
Khổng Miếu, Khổng Phủ, Khổng Lâm 478 TCN Sơn Đông 12/1994 Văn hóa
Núi Võ Đang Hồ Bắc 12/1994 Văn hóa
Cung điện Potala TK VII Tây Tạng 12/1994 Văn hóa
Khu danh thắng Lư Sơn Giang Tây 12/1996 Văn hóa
Nga Mi Sơn - Lạc Sơn Đại Phật Tứ Xuyên 12/1996 T. nhiên - V. hóa
Di Hòa Viên Bắc Kinh 12/1998 Văn hóa
Thiên Đàn Bắc Kinh 12/1998 Văn hóa
Lăng tẩm hoàng gia Minh-Thanh Bắc Kinh 10/2000 Văn hóa
Thành cổ Bình Dao Sơn Tây 12/1997 Văn hóa
Tô Châu Viên Lâm Giang Tô 12/1997 Văn hóa
Thành cổ Lệ Giang Vân Nam 12/1997 Văn hóa
Thôn cổ Tây Đệ - Hoành thôn An Huy 12/2000 Văn hóa
Vũ Di Sơn Phúc Kiến 12/1999 Văn hóa
Điêu khắc Đại Túc Trùng Khánh 12/1999 Văn hóa
Núi Thanh Thành - Công trình thủy lợi Đô Giang Yển Tứ Xuyên 12/2000 T. nhiên - V. hóa
Hang đá nhân tạo Long Môn Hà Nam 12/2000 Văn hóa
Hang đá Vân Cương Sơn Tây 2001 Văn hóa
Khu lịch sử Ma Cao Ma Cao 2005 Văn hóa
Vũng Tam Giang Vân Nam 12/2003 Thiên nhiên
Ân Khư khoảng thế kỷ 2 TCN Hà Nam 2006 Văn hóa
Khu danh thắng Hoàng Long Tứ Xuyên 1992 Thiên nhiên
Khu bảo tồn Gấu Trúc Lớn tại Tứ Xuyên Tứ Xuyên 2006 Thiên nhiên

Xem thêm

Chú thích

  1. ^ Walton, Greg (2001). “Executive Summary”. China's golden shield: Corporations and the development of surveillance technology in the People's Republic of China. Rights & Democracy. tr. 5. ISBN 9782922084429. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2009. Đã bỏ qua tham số không rõ |coauthors= (gợi ý |author=) (trợ giúp)
  2. ^ “Sino-British Joint Declaration”. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2008.
  3. ^ The ranking is disputed with the United States and is either ranked third or fourth. See List of countries and outlying territories by area for more information.
  4. ^ Countries of the world ordered by land area
  5. ^ “Rivers and Lakes”. China.org.cn. Truy cập ngày 15 tháng 6 năm 2009.
  6. ^ “Country profile: China”. BBC News. 1 tháng 7 năm 2009. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2009.
  7. ^ Fighting Poverty: Findings and Lessons from China’s Success (World Bank). Retrieved 10 August 2006.
  8. ^ Muldavin, Joshua (9 tháng 2 năm 2006). “From Rural Transformation to Global Integration: The Environmental and Social Impacts of China's Rise to Superpower”. Carnegie Endowment for International Peace. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2010.
  9. ^ (Lt Colonel, USAF) Uckert, Merri B. (tháng 4 năm 1995). “China as an Economic and Military Superpower: A Dangerous Combination?” (PDF). Maxwell Air Force Base, Alabama: Air War College, Air University: 33. Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp)
  10. ^ Bergsten, C. Fred; Gill, Bates; Lardy, Nicholas R.; Mitchell, Derek (17 tháng 4 năm 2006). China: The Balance Sheet: What the World Needs to Know about the Emerging Superpower . PublicAffairs. tr. 224. ISBN 9781586484644.
  11. ^ [http://www.jpost.com/Headlines/Article.aspx?id=203416 China, Tajikistan sign border agreement
  12. ^ TQ, VN căng thẳng về chất lượng hàng Bài của báo Strait Times, Singapore 29 Tháng 8 2007 - Cập nhật 08h27 GMT

Liên kết ngoài

{{top}} có thể chỉ:

{{Trang định hướng bản mẫu}} không nên được sử dụng trong không gian chính.

|}

Bản mẫu:Liên kết bài chất lượng tốt