Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Trung Quốc”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 357: Dòng 357:
Trung Quốc cũng hiện đại hóa lực lượng bộ binh của họ, thay thế [[xe tăng]] từ thời Liên Xô bằng nhiều biến thể của tăng [[kiểu 99 (tăng)|kiểu 99]], và nâng cấp các hệ thống C3I và C4I chiến trường để tăng cường năng lực chiến tranh mạng lưới trung tâm của họ. Ngoài ra, Trung Quốc cũng phát triển hoặc kiếm được các hệ thống tên lửa tân tiến,<ref name="Ref_abcdes">[http://www.sinodefence.com/army/surfacetoairmissile/hongqi9.asp Surface-to-air Missile System]{{Dead link|date=February 2014}}. SinoDefence.com. 2006. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2009.</ref><ref name="Ref_2008e">{{chú thích sách| chapter=HQ-19 (S-400) (China)|title=Jane's Weapons: Strategic |publisher=IHS |date=ngày 23 tháng 12 năm 2008}}</ref> trong đó có [[tên lửa chống vệ tinh]],<ref>[http://www.channelnewsasia.com/stories/afp_asiapacific/view/253580/1/.html "China plays down fears after satellite shot down"]. [[Agence France-Presse]] qua [[MediaCorp Channel NewsAsia|ChannelNewsAsia]]. ngày 20 tháng 1 năm 2007. Truy cập 11 tháng 7 năm 2013.</ref> [[tên lửa hành trình]]<ref>[http://asw.newpacificinstitute.org/?p=11412 "Chinese Navy Tests Land Attack Cruise Missiles: Implications for Asia-Pacific"]. New Pacific Institute. ngày 25 tháng 7 năm 2012. Truy cập 1 tháng 10 năm 2012.</ref> và tên lửa đạn đạo liên lục địa hạt nhân phóng từ tàu ngầm.<ref name="WashTiNu">[http://www.washingtontimes.com/news/2011/aug/25/beijing-to-expand-its-nuclear-stockpile/?page=all "China expanding its nuclear stockpile"]. ''[[The Washington Times]]''. ngày 25 tháng 8 năm 2011. Truy cập 16 tháng 10 năm 2011.</ref>
Trung Quốc cũng hiện đại hóa lực lượng bộ binh của họ, thay thế [[xe tăng]] từ thời Liên Xô bằng nhiều biến thể của tăng [[kiểu 99 (tăng)|kiểu 99]], và nâng cấp các hệ thống C3I và C4I chiến trường để tăng cường năng lực chiến tranh mạng lưới trung tâm của họ. Ngoài ra, Trung Quốc cũng phát triển hoặc kiếm được các hệ thống tên lửa tân tiến,<ref name="Ref_abcdes">[http://www.sinodefence.com/army/surfacetoairmissile/hongqi9.asp Surface-to-air Missile System]{{Dead link|date=February 2014}}. SinoDefence.com. 2006. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2009.</ref><ref name="Ref_2008e">{{chú thích sách| chapter=HQ-19 (S-400) (China)|title=Jane's Weapons: Strategic |publisher=IHS |date=ngày 23 tháng 12 năm 2008}}</ref> trong đó có [[tên lửa chống vệ tinh]],<ref>[http://www.channelnewsasia.com/stories/afp_asiapacific/view/253580/1/.html "China plays down fears after satellite shot down"]. [[Agence France-Presse]] qua [[MediaCorp Channel NewsAsia|ChannelNewsAsia]]. ngày 20 tháng 1 năm 2007. Truy cập 11 tháng 7 năm 2013.</ref> [[tên lửa hành trình]]<ref>[http://asw.newpacificinstitute.org/?p=11412 "Chinese Navy Tests Land Attack Cruise Missiles: Implications for Asia-Pacific"]. New Pacific Institute. ngày 25 tháng 7 năm 2012. Truy cập 1 tháng 10 năm 2012.</ref> và tên lửa đạn đạo liên lục địa hạt nhân phóng từ tàu ngầm.<ref name="WashTiNu">[http://www.washingtontimes.com/news/2011/aug/25/beijing-to-expand-its-nuclear-stockpile/?page=all "China expanding its nuclear stockpile"]. ''[[The Washington Times]]''. ngày 25 tháng 8 năm 2011. Truy cập 16 tháng 10 năm 2011.</ref>


Liên tục 20 năm (từ năm 1997), ngân sách quốc phòng Trung Quốc công bố tăng trung bình 15%/năm đã tạo đà cất cánh cho Hải quân Trung Quốc trở thành sức mạnh mới. Những năm 1980, Hải quân Trung Quốc có bước đầu phát triển về chất, bắt đầu có các chuyến đi viễn dương, nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ thuật, huấn luyện hiệp đồng tàu ngầm với tàu mặt nước. Ngày nay, [[Hải quân Trung Quốc]] đã phát triển hoàn chỉnh với 5 binh chủng hiện đại: tàu ngầm, tàu mặt nước, Không quân Hải quân, Hải quân đánh bộ, tên lửa và pháo bờ biển. Các binh chủng này có thể độc lập hay hiệp đồng tác chiến. Chiến lược biển của Trung Quốc đặt mục tiêu biến Trung Quốc thành cường quốc hải quân toàn cầu, có khả năng tranh chấp và làm chủ các vùng biển xa, tiến tới mục tiêu siêu cường thế giới vào năm 2050.
Liên tục 20 năm (từ năm 1997), ngân sách quốc phòng Trung Quốc công bố tăng trung bình 15%/năm đã tạo đà cất cánh cho Hải quân Trung Quốc trở thành sức mạnh mới. Những năm 1980, Hải quân Trung Quốc có bước đầu phát triển về chất, bắt đầu có các chuyến đi viễn dương, nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ thuật, huấn luyện hiệp đồng tàu ngầm với tàu mặt nước. Ngày nay, [[Hải quân Trung Quốc]] đã phát triển hoàn chỉnh với 5 binh chủng hiện đại: tàu ngầm, tàu mặt nước, Không quân Hải quân, Hải quân đánh bộ, tên lửa và pháo bờ biển. Các binh chủng này có thể độc lập hay hiệp đồng tác chiến. Chiến lược biển của Trung Quốc đặt mục tiêu biến Trung Quốc thành cường quốc hải quân toàn cầu, có khả năng tranh chấp và làm chủ các vùng biển xa, tiến tới mục tiêu siêu cường thế giới vào năm 2050. Để thực hiện các chủ trương trên, trong khuôn khổ ''“Bảy dự án trọng điểm”'' phát triển tiềm lực quân sự đến năm 2020, Hải quân Trung Quốc có 2 dự án: một là Dự án [[tàu sân bay]] (dự án 48), đóng mới và đưa vào trang bị hai tàu sân bay có lượng giãn nước khoảng 60.000 – 65.000 tấn, hai là thúc đẩy phát triển một đội tàu cỡ lớn. Trung Quốc có kế hoạch trang bị cho hải quân khoảng 6 tàu sân bay vào năm 2030, đủ sức cân bằng lực lượng với [[Hạm đội Thái Bình Dương]] của Hoa Kỳ.


Với tốc độ phát triển nhanh của kinh tế cũng như [[Khoa học kỹ thuật|khoa học – kỹ thuật]], Trung Quốc được được nhìn nhận là một [[Cường quốc|cường quốc quân sự]] lớn trong khu vực châu Á và có tiềm năng trở thành một siêu cường quân sự trong tương lai gần<ref name="Ref_abcder" />.
Với tốc độ phát triển nhanh của kinh tế cũng như [[Khoa học kỹ thuật|khoa học – kỹ thuật]], Trung Quốc được được nhìn nhận là một [[Cường quốc|cường quốc quân sự]] lớn trong khu vực châu Á và có tiềm năng trở thành một siêu cường quân sự trong tương lai gần<ref name="Ref_abcder" />.

Phiên bản lúc 10:08, ngày 28 tháng 6 năm 2019

Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
Quốc kỳ Trung Quốc
Quốc kỳ
Quốc huy Trung Quốc
Quốc huy

Quốc ca
Lãnh thổ do Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tuyên bố chủ quyền nhưng không kiểm soát có màu xanh nhạt (Đài Loan và bang Arunachal Pradesh của Ấn Độ)
Lãnh thổ do Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tuyên bố chủ quyền nhưng không kiểm soát có màu xanh nhạt (Đài Loan và bang Arunachal Pradesh của Ấn Độ)
Tổng quan
Thủ đôBắc Kinh[a]
39°55′B 116°23′Đ / 39,917°B 116,383°Đ / 39.917; 116.383
Thành phố lớn nhấtThượng Hải[2]
31°13′43″B 121°28′29″Đ / 31,22861°B 121,47472°Đ / 31.22861; 121.47472
Ngôn ngữ chính thứcTiếng phổ thông
• Ngôn ngữ địa phương
Văn tự chính thứcChữ Hán giản thể[c]
Sắc tộc
Tôn giáo chính
Xem Tôn giáo ở Trung Quốc
Tên dân cưNgười Trung Quốc
Chính trị
Chính phủĐơn nhất Marx-Lenin đơn đảng xã hội chủ nghĩa cộng hòa[4]
Tập Cận Bình[d]
Lý Khắc Cường
Lật Chiến Thư
Uông Dương
Vương Hỗ Ninh
Triệu Lạc Tế
Hàn Chính
Vương Kỳ Sơn[e]
Lập phápĐại hội đại biểu Nhân dân toàn quốc
Lịch sử
Hình thành
221 tcn
1 tháng 1 năm 1912
21 tháng 9 năm 1949[6][7][8]
1 tháng 10 năm 1949
4 tháng 12 năm 1982
20 tháng 12 năm 1999
Địa lý
Diện tích 
• Tổng cộng
9.596.961 km2[f] (hạng 3 hay 4)
3.705.407 mi2
• Mặt nước (%)
2.8
Dân số 
• Ước lượng 2018
Tăng1.427.647.786 [9][10] (hạng 1)
• Điều tra 2010
1.339.724.852[11] (hạng 1)
145[14]/km2 (hạng 83)
373/mi2
Kinh tế
GDP  (PPP)Ước lượng 2019
• Tổng số
27.449 nghìn tỷ USD[15] (hạng 1)
19.559 USD[15] (hạng 79)
GDP  (danh nghĩa)Ước lượng 2019
• Tổng số
14.172 nghìn tỷ USD[15] (hạng 2)
• Bình quân đầu người
10,099 USD[15] (hạng 71)
Đơn vị tiền tệNhân dân tệ (nguyên; ¥)[g] (CNY)
Thông tin khác
Gini? (2015)46,2[16]
cao
HDI? (2017)Tăng 0,752[17]
cao · hạng 86
Múi giờUTC+8 (Thời gian chuẩn Trung Quốc)
Cách ghi ngày tháng
  • nnnn-tt-nn
  • hoặc nnnntn
  • (CE; CE-1949)
Giao thông bênphải[h]
Mã điện thoại+86
Mã ISO 3166CN
Tên miền Internet

Trung Quốc (tiếng Trung: 中国), tên chính thức là nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (tiếng Trung: 中华人民共和国), là một quốc gia có chủ quyền nằm tại Đông Á. Đây là quốc gia đông dân nhất thế giới, với số dân trên 1,405 tỷ người. Trung Quốc là quốc gia độc đảng do Đảng Cộng sản Trung Quốc cầm quyền, chính phủ trung ương đặt tại thủ đô Bắc Kinh.[18] Chính phủ Trung Quốc thi hành quyền tài phán tại 22 tỉnh, 5 khu tự trị, 4 đô thị trực thuộc, và 2 khu hành chính đặc biệtHồng KôngMa Cao. Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa cũng tuyên bố chủ quyền đối với các lãnh thổ nằm dưới sự quản lý của Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan), cho Đài Loan là tỉnh thứ 23 của mình, tuyên bố này gây tranh nghị do sự phức tạp của vị thế chính trị Đài Loan.[19]

Với diện tích là 9,596,961 triệu km², Trung Quốc là quốc gia có diện tích lục địa lớn thứ tư trên thế giới,[20] và là quốc gia có tổng diện tích lớn thứ ba hoặc thứ tư trên thế giới, tùy theo phương pháp đo lường.[i] Cảnh quan của Trung Quốc rộng lớn và đa dạng, thay đổi từ những thảo nguyên rừng cùng các sa mạc GobiTaklamakan ở phía bắc khô hạn đến các khu rừng cận nhiệt đới ở phía nam có mưa nhiều hơn. Các dãy núi Himalaya, Karakoram, PamirThiên Sơn là ranh giới tự nhiên của Trung Quốc với NamTrung Á. Trường GiangHoàng Hà lần lượt là sông dài thứ ba và thứ sáu trên thế giới, hai sông này bắt nguồn từ cao nguyên Thanh Tạng và chảy hướng về vùng bờ biển phía đông có dân cư đông đúc. Đường bờ biển của Trung Quốc dọc theo Thái Bình Dương và dài 14500 km, giáp với các biển: Bột Hải, Hoàng Hải, biển Hoa Đôngbiển Đông.

Lịch sử Trung Quốc bắt nguồn từ một trong những nền văn minh cổ nhất thế giới, phát triển tại lưu vực phì nhiêu của sông Hoàng Hà tại bình nguyên Hoa Bắc. Trải qua hơn 5.000 năm, văn minh Trung Hoa đã phát triển trở thành một trong số nền văn minh rực rỡ nhất thế giới trong thời cổ đại và trung cổ, đặc trưng bởi hệ thống triết học rất thâm sâu (nổi bật nhất là Nho giáo, Đạo giáo và thuyết Âm dương ngũ hành), các thành tựu khoa học kỹ thuật nổi bật (phát minh ra giấy, la bàn, thuốc súng, địa chấn kế, kỹ thuật in ấn...), hoạt động giao thương xuyên châu Á với nhiều quốc gia (Con đường tơ lụa) và những đô thị có quy mô dân số và trình độ kiến trúc hàng đầu thế giới vào thời trung cổ. Trung Quốc là 1 trong 4 nền văn minh cổ đại lớn nhất thế giới (cùng với Ai Cập cổ đại, văn minh Lưỡng Hàvăn minh Ấn Độ), và là nền văn minh duy nhất trong số đó còn tồn tại cho đến ngày nay, được xác minh bằng sự thống nhất giữa các di tích khảo cổ và ghi chép lịch sử liên tục.[21]. Dân tộc Trung Hoa ngày nay luôn tự hào về lịch sử "5.000 năm văn hiến trường tồn" là vì vậy[22].

Hệ thống chính trị của Trung Quốc dựa trên các chế độ quân chủ kế tập, được gọi là các triều đại, khởi đầu là triều đại nhà Hạ ở lưu vực Hoàng Hà. Từ năm 221 TCN, khi nhà Tần chinh phục các quốc gia khác để hình thành một đế quốc Trung Hoa thống nhất, quốc gia này đã trải qua nhiều lần mở rộng, đứt đoạn và cải cách. Trung Hoa Dân Quốc lật đổ triều đại phong kiến cuối cùng của Trung Quốc là nhà Thanh vào năm 1911 và cầm quyền tại Trung Quốc đại lục cho đến năm 1949. Sau khi Đế quốc Nhật Bản bại trận trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Đảng Cộng sản đánh bại Quốc dân Đảng và thiết lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tại Bắc Kinh vào ngày 1 tháng 10 năm 1949, trong khi đó Quốc dân Đảng dời chính phủ Trung Hoa Dân Quốc đến đảo Đài Loan và thủ đô hiện hành là Đài Bắc.

Trong hầu hết thời gian trong hơn 2.000 năm qua, kinh tế Trung Quốc được xem là nền kinh tế lớn và phức tạp nhất trên thế giới, với những lúc thì hưng thịnh, khi thì suy thoái.[23] Kể từ khi tiến hành cuộc cải cách kinh tế vào năm 1978, Trung Quốc trở thành một trong các nền kinh kế lớn có mức tăng trưởng nhanh nhất. Đến năm 2014, nền kinh tế Trung Quốc đã đạt vị trí số một thế giới tính theo sức mua tương đương (PPP) và duy trì ở vị trí thứ hai tính theo giá trị thực tế.[24] Trung Quốc được công nhận là một quốc gia sở hữu vũ khí hạt nhân và có quân đội thường trực lớn nhất thế giới, với ngân sách quốc phòng lớn thứ nhì. Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa trở thành một thành viên của Liên Hiệp Quốc từ năm 1971, khi chính thể này thay thế Trung Hoa Dân quốc trong vị thế thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc. Trung Quốc cũng là thành viên của nhiều tổ chức đa phương chính thức và phi chính thức, trong đó có WTO, APEC, BRICS, SCO, và G-20. Trung Quốc là một cường quốc lớn và được xem là một siêu cường tiềm năng.[25][26] Trung Quốc đang có tham vọng trở thành một siêu cường có thể cạnh tranh với Mỹ trên mọi mặt kinh tế, chính trị, quân sự thậm chí thay thế Mỹ trở thành siêu cường số một thế giới[27][28].

Từ nguyên

Tên gọi Trung Quốc bằng chữ Hán.
Trung Quốc
Tên tiếng Trung
Giản thể中国
Phồn thể中國
Tên tiếng Trung thay thế
Giản thể中华人民共和国
Phồn thể中華人民共和國
Tên Tây Tạng
Chữ Tạng ཀྲུང་ཧྭ་མི་དམངས་སྤྱི
མཐུན་རྒྱལ་ཁབ
Tên tiếng Việt
Tiếng ViệtTrung Hoa Nhân dân Cộng hòa quốc
Tên tiếng Tráng
Tiếng TrángCunghvaz Yinzminz Gunghozgoz
Tên tiếng Mông Cổ
Tiếng Mông CổBügüde nayiramdaqu dumdadu arad ulus, ᠪᠦᠭᠦᠳᠡ ᠨᠠᠶᠢᠷᠠᠮᠳᠠᠬᠤ ᠳᠤᠮᠳᠠᠳᠤ ᠠᠷᠠᠳ ᠤᠯᠤᠰ
Tên tiếng Duy Ngô Nhĩ
Tiếng Duy Ngô Nhĩ
جۇڭخۇا خەلق جۇمھۇرىيىت

Quốc hiệu chính thức hiện nay của quốc gia là Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (tiếng Trung: 中华人民共和国; Hán-Việt: Trung Hoa Nhân dân Cộng hòa quốc; bính âm: Zhōnghuá Rénmín Gònghéguó). Tên gọi thông thường trong tiếng Trung là Trung Quốc (tiếng Trung: 中国; tiếng Trung: 中國; bính âm: Zhōngguó) và Trung Hoa (tiếng Trung: 中华l; tiếng Trung: 中華; bính âm: Zhōnghuá).

Từ "Trung Quốc" xuất hiện sớm nhất trong "Thượng thưTử tài", viết rằng "Hoàng thiên ký phó trung quốc dân", phạm vi chỉ là khu vực Quan Trung–Hà Lạc vốn là nơi cư trú của người Chu. Đến thời Xuân Thu, nghĩa của "Trung Quốc" dần được mở rộng đến mức bao quát các nước chư hầu lớn nhỏ trong khu vực trung hạ du Hoàng Hà. Sau đó, cương vực các nước chư hầu mở rộng, phạm vi "Trung Quốc" không ngừng mở rộng ra tứ phía. Từ thời Hán trở đi, triều dã và văn nhân học sĩ có tập quán gọi vương triều Trung Nguyên do người Hán lập nên là "Trung Quốc". Do đó, các dân tộc phi Hán sau khi làm chủ Trung Nguyên cũng thường tự xem bản thân là "Trung Quốc", như triều đại Bắc Ngụy do người Tiên Ti kiến lập tự xưng là "Trung Quốc" và gọi Nam triều là "Đảo Di". Đồng thời kỳ, Nam triều do người Hán kiến lập tuy dời Trung Nguyên song vẫn tự xem bản thân là "Trung Quốc", gọi Bắc triều là "Tác Lỗ". KimNam Tống đều tự xưng là "Trung Quốc", không thừa nhận đối phương là "Trung Quốc". Do vậy, "Trung Quốc" còn bao gồm ý nghĩa về kế thừa văn hóa, và có chính thống. Tuy nhiên, trong suốt lịch sử, chưa có vương triều nào sử dụng "Trung Quốc" làm quốc danh chính thức. "Trung Quốc" trở thành quốc danh chính thức bắt đầu từ khi Trung Hoa Dân Quốc kiến lập vào năm 1912.[29]

Triều đại đầu tiên trong lịch sử Trung QuốcHạ, đương thời dân sống từ trước tại lưu vực trung hạ du Hoàng Hà tự xưng là "Hoa Hạ", hoặc giản xưng là "Hoa", "Hạ". Từ "Hoa Hạ" xuất hiện sớm nhất là trong "Tả truyện-Tương công nhị thập lục niên", ghi rằng "sở thất Hoa Hạ". Khổng Dĩnh Đạt thời Đường thì nói "Hoa Hạ vi Trung Quốc dã".[29] "Trung Hoa" là giản lược từ liên kết "Trung Quốc" và "Hoa Hạ", ban đầu chỉ khu vực rộng lớn ở lưu vực trung hạ du Hoàng Hà. "Xuân Thu cốc lương truyện" quyển 1 "Ẩn công chú sơ" có viết rằng "Tần nhân năng viễn mộ Trung Hoa quân tử". Sau này, phàm là thuộc khu vực quản lý của vương triều Trung Nguyên thì đều được gọi chung là "Trung Hoa", ý chỉ toàn quốc. Hàn Ốc thời Đường có câu "Trung Hoa địa hướng biên thành tẫn, ngoại quốc vân tòng đảo thượng lai", đối lập giữa "Trung Hoa" và ngoại quốc. Do vậy, "Trung Quốc" cũng có thể gọi là Trung Hoa, gọi tắt là "Hoa", người Hán cư trú tại hải ngoại có thể gọi là "Hoa kiều", nếu đã nhập quốc tịch nước khác thì có thể gọi là "Hoa nhân ngoại tịch".[29]

Lịch sử

Tiền đế quốc

Mô hình thủ đô Lâm Truy của nước Tề.

Bằng chứng khảo cổ học cho thấy rằng người nguyên thủy cư trú tại Trung Quốc từ 250.000 đến 2,24 triệu năm trước.[30] Một hang tại Chu Khẩu Điếm (gần Bắc Kinh ngày nay) có những hóa thạch của họ Người có niên đại từ 680.000 đến 780.000 TCN.[31] Các hóa thạch là người Bắc Kinh, một ví dụ của giống người đứng thẳng sử dụng lửa.[32] Trong di chỉ người Bắc Kinh cũng có những hài cốt của người thông minh có niên đại từ 18.000–11.000 TCN.[33] Một số học giả khẳng định rằng một hình thức chữ viết nguyên thủy tồn tại ở Trung Quốc ngay từ 3000 TCN.[34]

Theo truyền thuyết Trung Hoa, triều đại đầu tiên là Hạ, bắt đầu từ khoảng 2070 TCN.[35] Triều đại này bị các sử gia cho là thần thoại cho đến khi các khai quật khoa học phát hiện ra những di chỉ về đô thị và cung điện có niên đại gần 4.000 năm trước, vào đầu thời kỳ đồ đồng tại Nhị Lý Đầu, Hà Nam vào năm 1959.[36] Vẫn chưa rõ về việc liệu các di chỉ này là tàn tích của triều Hạ hay là của một văn hóa khác cùng thời kỳ.[37]

Triều đại đầu tiên để lại các ghi chép lịch sử là Thương (thành lập vào khoảng năm 1.700 trước công nguyên) với thể chế phong kiến lỏng lẻo,[38] định cư dọc Hoàng Hà tại miền Đông Trung Quốc từ thế kỷ XVII TCN đến thế kỷ XI TCN.[39] Giáp cốt văn của triều Thương tiêu biểu cho dạng chữ viết Trung Quốc cổ nhất từng được phát hiện,[40] và là tổ tiên trực tiếp của chữ Hán hiện đại.[41] Triều Thương bị triều Chu chinh phục vào thế kỷ XII TCN. Quyền lực tập trung của triều Chu dần suy yếu trước các chư hầu phong kiến, nhiều quốc gia chư hầu xuất hiện từ triều Chu đã dần mạnh lên, họ bắt đầu không tuân lệnh vua Chu và liên tục tiến hành chiến tranh với nhau trong thời kỳ Xuân Thu kéo dài 300 năm. Đến thời Chiến Quốc trong thế kỷ V–III TCN, quân chủ bảy quốc gia hùng mạnh đều xưng vương như thiên tử triều Chu.

Thời đế quốc

Vạn Lý Trường Thành dài hơn 6.400 km, bắt đầu xây dựng cách đây hơn 2.500 năm, sau đó được tu bổ nhiều lần trong suốt 2.000 năm nhằm bảo vệ lãnh thổ Trung Quốc trước các cuộc xâm nhập của quân du mục trên thảo nguyên phương Bắc. Đây được coi là biểu tượng cho sức lao động của nhân dân Trung Hoa

Thời kỳ Chiến Quốc kết thúc vào năm 221 TCN, sau khi nước Tần chinh phục sáu vương quốc khác và thiết lập quốc gia Trung Hoa thống nhất đầu tiên. Tần vương Doanh Chính tuyên bố bản thân là "Thủy hoàng đế", tức hoàng đế đầu tiên, và tiến hành cải cách khắp Trung Quốc, đáng chú ý là cưỡng bách tiêu chuẩn hóa ngôn ngữ, đo lường, chiều dài trục xe, và tiền tệ. Triều đại Tần chỉ tồn tại trong 15 năm, nó bị diệt vong không lâu sau khi Tần Thủy Hoàng băng hà, do các chính sách Pháp gia hà khắc và độc đoán dẫn đến nổi dậy rộng khắp.[42][43]

Triều đại Hán cai trị Trung Quốc từ 206 TCN đến 220 SCN, thiết lập một bản sắc văn hóa Hán bền vững trong dân cư và tồn tại cho đến nay.[42][43] Triều đại Hán mở rộng đáng kể lãnh thổ thông qua các chiến dịch quân sự đến bán đảo Triều Tiên, Việt Nam, Mông Cổ và Trung Á, và cũng tạo điều kiện thiết lập Con đường tơ lụa tại Trung Á. Trung Quốc dần trở thành nền kinh tế lớn nhất của thế giới cổ đại.[44] Triều Hán chọn Nho giáo làm hệ tư tưởng quốc gia, đây vốn là một tư tưởng triết học phát triển vào thời kỳ Xuân Thu. Mặc dù triều Hán chính thức bãi bỏ hệ tư tưởng chính thức của triều Tần là Pháp gia, song những thể chế và chính sách Pháp gia vẫn tồn tại và tạo thành nền tảng cho chính phủ triều Hán.[45]

Sau khi triều Hán sụp đổ là một giai đoạn chia rẽ được mang tên Tam Quốc.[46] Sau một thời kỳ thống nhất dưới quyền triều đại Tây Tấn, Trung Quốc tiếp tục chia rẽ trong các giai đoạn Đông Tấn-Thập Lục QuốcNam-Bắc triều. Năm 581, Trung Quốc tái thống nhất dưới quyền triều đại Tùy. Tuy nhiên, triều đại Tùy suy yếu sau khi thất bại trong chiến tranh với Cao Câu Ly kéo dài từ 598 đến 614.[47][48]

Dưới các triều đại ĐườngTống, công nghệ và văn hóa Trung Quốc bước vào một thời kỳ hoàng kim.[49] Loạn An Sử trong thế kỷ VIII đã tàn phá quốc gia và khiến triều Đường suy yếu.[50] Triều Tống là chính phủ đầu tiên trong lịch sử thế giới phát hành tiến giấy và là thực thể Trung Hoa đầu tiên thiết lập một hải quân thường trực.[51] Trong các thế kỷ X và XI, dân số Trung Quốc tăng lên gấp đôi, đến khoảng 100 triệu người, hầu hết là nhờ mở rộng canh tác lúa tại miền trung và miền nam, và sản xuất dư thừa lương thực. Thời Tống cũng chứng kiến một sự hưng thịnh của triết học và nghệ thuật, nghệ thuật phong cảnh và tranh chân dung đạt được trình độ mới về sự thành thục và độ phức tạp,[52] và các tầng lớp tinh hoa trong xã hội tụ tập để chiêm ngưỡng nghệ thuật, chia sẻ tác phẩm của họ và giao dịch các tác phẩm quý báu. Thời Tống chứng kiến một sự phục hưng của Nho giáo, đối lập với sự phát triển của Phật giáo vào thời Đường.[53]

Tường thành Bình Dao tại Sơn Tây được xây dựng từ thời Minh, một trong bốn tường thành cổ được bảo tồn tốt nhất tại Trung Quốc.

Trong thế kỷ XIII, Trung Quốc dần bị Đế quốc Mông Cổ chinh phục, Tây HạKim dần bị tiêu diệt. Năm 1271, đại hãn người Mông Cổ là Hốt Tất Liệt thiết lập triều đại Nguyên; triều Nguyên chinh phục tàn dư cuối cùng của triều Tống vào năm 1279. Trước khi Mông Cổ xâm chiếm, dân số Trung Quốc là 120 triệu; song giảm xuống 60 triệu trong điều tra nhân khẩu năm 1300.[54] Một nông dân tên là Chu Nguyên Chương lật đổ triều Nguyên vào năm 1368 và kiến lập triều đại Minh. Thời Minh, Trung Quốc bước vào một thời kỳ hoàng kim khác, phát triển một trong những lực lượng hải quân mạnh nhất trên thế giới và có một nền kinh tế giàu có và thịnh vượng, trong khi phát triển về nghệ thuật và văn hóa. Trong giai đoạn này, Trịnh Hòa dẫn đầu các chuyến thám hiểm vượt đại dương, tiến xa nhất là đến châu Phi.[55] Trong những năm đầu thời Minh, thủ đô của Trung Quốc được chuyển từ Nam Kinh đến Bắc Kinh. Cũng trong thời Minh, các triết gia như Vương Dương Minh tiếp tục phê bình và phát triển lý học với những khái niệm về cá nhân chủ nghĩa và đạo đức bẩm sinh.[56]

Triều Thanh kéo dài từ năm 1644 đến năm 1912, là triều đại đế quốc cuối cùng của Trung Quốc. Trong thế kỷ XIX, triều đại này phải đương đầu với chủ nghĩa đế quốc phương Tây trong Chiến tranh Nha phiến. Trung Quốc buộc phải ký các hiệp ước bất bình đẳng, trả bồi thường, cho phép người ngoại quốc có đặc quyền ngoại giao và nhượng Hồng Kông cho người Anh[57] vào năm 1842. Chiến tranh Thanh-Nhật (1894–95) dẫn đến việc triều Thanh mất ảnh hưởng tại Triều Tiên, cũng như phải nhượng Đài Loan cho Nhật Bản.[58] Trong những năm 1850 và 1860, cuộc nổi dậy Thái Bình Thiên Quốc đã tàn phá miền nam Trung Quốc.

Điện Thái Hòa trong Tử Cấm Thành là nơi các hoàng đế Trung Hoa thiết triều trong suốt 500 năm. Hình ảnh của nó được sử dụng làm quốc huy Trung Hoa hiện nay

Nhìn chung, trong suốt 2.000 năm, từ thời nhà Hán (206 trước công nguyên) cho tới giữa thời nhà Thanh (khoảng năm 1750), Trung Quốc luôn duy trì được địa vị của một nền văn minh phát triển bậc nhất thế giới, cả về khoa học kỹ thuật lẫn về hệ thống chính trị, và có thể coi là siêu cường theo cách gọi ngày nay. Năm 1078, Trung Quốc sản xuất 125.000 tấn thép một năm, và lượng tiêu thụ trên đầu người đạt khoảng 1,5 kg một năm (gấp 3 lần so với mức 0,5 kg ở châu Âu thời kỳ đó). Đồng thời Trung Quốc cũng phát minh ra giấy, la bàn, tơ tằm, đồ sứ, thuốc súng, phát triển súng thần công, súng phun lửa... kỹ thuật in ấn khiến tăng số người biết đọc viết. Người dân có cơ hội tham dự các kỳ khoa cử (科舉) để phục vụ triều đình, chính sách này tiến bộ vượt bậc so với các quốc gia khác cùng thời, vừa giúp tuyển chọn người tài vừa khuyến kích người dân tự nâng cao trình độ dân trí. Các lĩnh vực như thủ công mỹ nghệ, văn học, nghệ thuật, kiến trúc... cũng có những thành tựu to lớn. Nhờ những phát minh và chính sách đó (cùng với các cải tiến trong nông nghiệp), Trung Quốc đã phát triển được những đô thị lớn nhất thế giới thời kỳ ấy. Ví dụ kinh đô Trường An nhà Đường (năm 750) đã có khoảng 1 triệu dân, kinh đô Hàng Châu thời Nam Tống (năm 1200) đã có khoảng 500.000 người: lớn hơn rất nhiều so với bất kỳ thành phố châu Âu nào (ở Tây Âu năm 1200, chỉ ParisVenice có dân số trên 100.000 người, ở Đông Âu có Constantinopolis cũng chỉ tới 300.000 dân).

Tuy vậy kể từ những năm giữa thế kỷ 18 trở đi, Trung Quốc dần đánh mất vị thế dẫn đầu thế giới khi cách mạng công nghiệp diễn ra tại Phương Tây, đến giữa thế kỷ 19 thì Trung Quốc đã trở nên lạc hậu về kinh tế cũng như khoa học-kỹ thuật so với phương Tây[59].[60]

Thời Dân Quốc (1912–1949)

Một biếm họa chính trị tại Pháp vào năm 1898, ngụ ý Trung Quốc bị phân chia giữa các đế quốc Anh, Đức, Nga, Pháp, và Nhật Bản.

Cuối thời nhà Thanh, do sự lạc hậu về khoa học công nghệ, Trung Quốc bị các nước phương Tây (Anh, Đức, Nga, Pháp, Bồ Đào Nha) và cả Nhật Bản xâu xé lãnh thổ. Các nhà sử học Trung Quốc gọi thời kỳ này là Bách niên quốc sỉ (100 năm đất nước bị làm nhục). Chế độ quân chủ chuyên chế đã tỏ ra quá già cỗi, hoàn toàn bất lực trong việc bảo vệ đất nước chống lại chủ nghĩa tư bản phương Tây. Điều này gây bất bình trong đội ngũ trí thức Trung Quốc, một bộ phận kêu gọi tiến hành cách mạng lật đổ chế độ quân chủ chuyên chế của nhà Thanh, thành lập một kiểu nhà nước mới để canh tân đất nước. Năm 1911, cách mạng Tân Hợi nổ ra, hoàng đế cuối cùng của Trung Quốc là Phổ Nghi buộc phải thoái vị.

Ngày 1 tháng 1 năm 1912, Trung Hoa Dân Quốc được thành lập, Tôn Trung Sơn của Quốc dân đảng được tuyên bố là đại tổng thống lâm thời.[61] Tuy nhiên, sau đó chức đại tổng thống được trao cho cựu đại thần của triều Thanh là Viên Thế Khải, nhân vật này tuyên bố bản thân là hoàng đế của Trung Quốc vào năm 1915. Do đối diện với chỉ trích và phản đối rộng khắp trong quân Bắc Dương của mình, Viên Thế Khải buộc phải thoái vị và tái lập chế độ cộng hòa.[62]

Sau khi Viên Thế Khải mất năm 1916, Trung Quốc bị tan vỡ về chính trị. Chính phủ đặt tại Bắc Kinh được quốc tế công nhận song bất lực trên thực tế; các quân phiệt địa phương kiểm soát hầu hết lãnh thổ.[63][64] Đến cuối thập niên 1920, Quốc dân đảng dưới sự lãnh đạo của Tưởng Giới Thạch thống nhất quốc gia dưới quyền quản lý của họ sau một loạt hành động khéo léo về quân sự và chính trị, được gọi chung là Bắc phạt.[65][66] Tuy nhiên, các quân phiệt địa phương vẫn chưa bị loại trừ hoàn toàn, họ vẫn nắm quyền tại nhiều địa phương và chỉ trung thành với chính phủ trung ương Quốc dân đảng trên danh nghĩa.

Tưởng Giới Thạch tham dự Hội nghị Cairo năm 1943 cùng Tổng thống Hoa Kỳ Franklin D. Roosevelt, và Thủ tướng Anh Quốc Winston Churchill.

Quốc dân đảng chuyển thủ đô đến Nam Kinh và thi hành "huấn chính", một giai đoạn trung gian của phát triển chính trị được phác thảo trong chương trình Tam Dân của Tôn Trung Sơn nhằm biến đổi Trung Quốc thành một quốc gia hiện đại.[67][68] Nhưng ngay trong nội bộ Quốc dân đảng cũng bị chia rẽ. Năm 1930, do tranh chấp về quyền kiểm soát quân đội, trong nội bộ Quốc dân đảng nổ ra cuộc Trung Nguyên đại chiến, khi một số lãnh đạo của Quốc dân đảng đã liên minh với các quân phiệt địa phương để giao tranh với quân Tưởng Giới Thạch. Cuộc chiến tuy ngắn nhưng có sự tham gia của hơn 1 triệu lính, với khoảng 300.000 người bị thương vong.

Chia rẽ về chính trị tại Trung Quốc gây khó khăn cho Tưởng Giới Thạch trong việc chiến đấu với Đảng Cộng sản trong nội chiến từ năm 1927. Cuộc chiến này tiếp tục với thắng lợi ban đầu của Quốc dân đảng, đặc biệt là sau khi Đảng Cộng sản triệt thoái trong Trường chinh, kéo dài cho đến khi Nhật Bản xâm lược và sự biến Tây An năm 1936 buộc Tưởng Giới Thạch phải đối đầu với Đế quốc Nhật Bản.[69]

Chiến tranh Trung-Nhật (1937–1945) là một mặt trận của Chiến tranh thế giới thứ hai, thúc đẩy một liên minh miễn cưỡng giữa hai phe Quốc dân đảng và Đảng Cộng sản. Nhật Bản đầu hàng vô điều kiện Trung Quốc vào năm 1945. Đài Loan, bao gồm cả Bành Hồ, được đặt dưới quyền quản lý của Trung Hoa Dân Quốc. Trung Quốc đóng vai trò là quốc gia chiến thắng, song bị tàn phá và tài chính kiệt quệ. Sự thiếu tin tưởng giữa Quốc dân đảng và Đảng Cộng sản khiến nội chiến tái khởi động. Năm 1947, hiến pháp được thiết lập, song do xung đột đang diễn ra, nhiều quy định trong Hiến pháp Trung Hoa Dân Quốc chưa từng được thực thi tại Trung Quốc đại lục.[70]

Nhìn chung, trong giai đoạn 1912-1949, tuy Trung Hoa Dân Quốc được coi là chính phủ hợp pháp duy nhất tại Trung Quốc, nhưng chính phủ trung ương chưa từng kiểm soát được hoàn toàn đất nước. Trên thực tế thì Trung Quốc trong giai đoạn này bị phân liệt thành nhiều mảnh, chiến tranh diễn ra liên tục giữa các quân phiệt cát cứ, nạn thổ phỉ xảy ra khắp nơi và còn phải chịu ngoại xâm, giống như thời kỳ Ngũ đại thập quốc hồi thế kỷ thứ X. Khoảng 30-40 triệu người Trung Quốc đã chết trong thời kỳ chiến tranh hỗn loạn này (bởi súng đạn hoặc bởi các nạn đói), trước khi Đảng Cộng sản Trung Quốc thành công trong việc tái thống nhất đất nước và ổn định tình hình.

Thời Cộng hòa Nhân dân (1949–nay)

Tập tin:PRCFounding.jpg
Mao Trạch Đông tuyên bố thành lập Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vào năm 1949

Đại tác chiến trong Nội chiến Trung Quốc kết thúc vào năm 1949 với kết quả là Đảng Cộng sản kiểm soát hầu hết Trung Quốc đại lục, Quốc dân đảng rút chạy ra ngoài khơi với lãnh thổ chỉ còn Đài Loan, Hải Nam và các đảo nhỏ. Ngày 1 tháng 10 năm 1949, nhà lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc là Mao Trạch Đông tuyên bố thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.[71] Năm 1950, Quân Giải phóng Nhân dân đánh chiếm Hải Nam từ Trung Hoa Dân Quốc[72]hợp nhất Tây Tạng.[73] Tuy nhiên, tàn quân Quốc Dân đảng tiếp tục tiến hành nổi dậy ở miền tây Trung Quốc trong suốt thập niên 1950.[74] Trừ Đài Loan thuộc quyền Tưởng Giới Thạch, các quân phiệt và các nhóm vũ trang địa phương đã hoàn toàn bị loại bỏ. Sau 40 năm, Trung Quốc đại lục lần đầu tiên được tái thống nhất kể từ sau sự sụp đổ của nhà Thanh (năm 1911).

Từ năm 1946 đến năm 1952, Đảng Cộng sản Trung Quốc thực hiện Cải cách ruộng đất tại Trung Quốc. Từ 1 đến 2 triệu địa chủ bị xử bắn vì tội cấu kết với Nhật hoặc hoạt động phản cách mạng[75]. Gần 47 triệu ha ruộng đất được chia cho nông dân[76]. Mao Trạch Đông khuyến khích tăng dân số, cùng với các tiến bộ về y tế, nông nghiệp đã khiến dân số Trung Quốc tăng từ khoảng 550 triệu lên trên 900 triệu trong thời gian ông lãnh đạo.[77] Tuy nhiên, kế hoạch cải cách kinh tế và xã hội quy mô lớn mang tên Đại nhảy vọt bị thất bại đã khiến sản xuất nông nghiệp bị đình đốn, gây ra nạn đói khiến hàng chục triệu người thiệt mạng từ năm 1958 đến năm 1961[78] Năm 1966, Mao Trạch Đông cùng các đồng minh của ông tiến hành Đại cách mạng Văn hóa, kéo theo một giai đoạn tố cáo chính trị lẫn nhau và biến động xã hội kéo dài đến khi Mao Trạch Đông từ trần vào năm 1976. Trong tháng 10 năm 1971, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thay thế Trung Hoa Dân Quốc tại Liên Hiệp Quốc, giành được ghế một ủy viên thường trực của Hội đồng Bảo an.[79]

Đặng Tiểu Bình là người phát động chính sách cải cách kinh tế tại Trung Quốc vào năm 1978.

Sau cái chết của Mao Trạch Đông năm 1976, Tứ nhân bang nhanh chóng bị bắt và bị buộc tội đã tạo ra những cái chết dưới thời Cách mạng văn hóa. Năm 1978, Đặng Tiểu Bình lên nắm quyền và thực hiện những cải cách kinh tế quan trọng. Đảng Cộng sản sau đó nới lỏng kiểm soát của chính phủ đối với đời sống cá nhân của công dân và các công xã nhân dân bị bãi bỏ nhằm tạo điều kiện cho thuê đất tư nhân. Sự kiện này đánh dấu Trung Quốc chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch sang kinh tế hỗn hợp, với sự gia tăng của môi trường kinh tế thị trường mở.[80] Trung Quốc thông qua hiến pháp hiện hành vào ngày 4 tháng 1 năm 1982. Năm 1989, hành động trấn áp bạo lực các cuộc biểu tình của sinh viên tại quảng trường Thiên An Môn khiến chính phủ Trung Quốc bị nhiều quốc gia chỉ trích và áp đặt chế tài.[81]

Giang Trạch Dân, Lý BằngChu Dung Cơ lãnh đạo quốc gia trong thập niên 1990. Trong thời gian họ cầm quyền, thành tích kinh tế của Trung Quốc đưa khoảng 150 triệu nông dân thoát khỏi bần cùng và duy trì tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội bình quân năm là 11,2%.[82][83] Trung Quốc chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới vào năm 2001, và duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao dưới quyền lãnh đạo của Hồ Cẩm ĐàoÔn Gia Bảo trong thập niên 2000. Tuy nhiên, tăng trưởng nhanh chóng cũng có tác động nghiêm trọng đến tài nguyên và môi trường quốc gia,[84][85] và dẫn đến chuyển dịch lớn trên phương diện xã hội.[86][87] Chất lượng sinh hoạt tiếp tục được cải thiện nhanh chóng bất chấp khủng hoảng cuối thập niên 2000, song kiểm soát chính trị tập trung vẫn chặt chẽ.[88]

Một nhân tố mới nổi lên trong thế kỷ 20 là người Hoa sống ở hải ngoại. Nhờ nền tảng văn hóa mà người Trung Hoa rất thành công ngay cả khi sống ở nước ngoài. Ngay từ đầu thế kỷ 20, Quốc vương Thái Lan Rama VI đã gọi người Trung Quốc là “dân Do Thái ở phương Đông”. Năm 2016, số người Trung Quốc sống ở nước ngoài (bao gồm cả những người đã đổi quốc tịch) là khoảng 60 triệu (chưa kể du học sinh) và sở hữu số tải sản ước tính hơn 2,5 ngàn tỉ USD, tức là họ có khả năng tạo ảnh hưởng tương đương 1 quốc gia như Pháp. Hoa kiều là tầng lớp thương nhân làm ăn rất thành công ở Đông Nam Á. Vào cuối thế kỷ 20, họ sở hữu hơn 80% cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Thái LanSingapore, 62% ở Malaysia, 50% ở Philippines, tại Indonesia thì người Hoa nắm trên 70% tổng số tài sản công ty. Để hạn chế sức mạnh của người Hoa, chính phủ các nước Đông Nam Á dùng nhiều chính sách trấn áp hoặc đồng hóa, như ở Thái Lan thì người Hoa phải đổi tên thành tên Thái nếu muốn nhập quốc tịch, ở Indonesia thì người Hoa bị cấm dùng ngôn ngữ mẹ đẻ, trường công ở Malaysia thì hạn chế tiếp nhận sinh viên gốc Hoa. Nhưng trải qua bao sóng gió, trán áp và cưỡng chế đồng hóa, văn hóa người Hoa vẫn “bền bỉ như măng tre”, như lời một lãnh đạo cộng đồng người Hoa ở hải ngoại[89]. Cộng đồng Hoa Kiều vẫn gắn kết chặt chẽ với chính phủ trong nước, và là một bàn đạp quan trọng để Trung Quốc mở rộng ảnh hưởng trên thế giới vào đầu thế kỷ 21.

Trong tháng 11 năm 2012, Tập Cận Bình kế nhiệm Hồ Cẩm Đào trong vai trò Tổng bí thư của Đảng Cộng sản.[90] Năm 2013, Tập Cận Bình đã nêu ra học thuyết Giấc mộng Trung Quốc tại kỳ họp Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn Quốc.[91] Sau đó được sử dụng rộng rãi trên các phương tiện truyền thông Trung Quốc. Tập Cận Bình mô tả rằng "Sự phục hưng vĩ đại của dân tộc Trung Hoa là giấc mơ lớn nhất của Trung Quốc", mục tiêu là trở thành siêu cường số 1 thế giới, giành lại địa vị mà 5.000 năm văn minh Trung Hoa từng có được trong quá khứ. Theo tạp chí lý luận của đảng Cầu Thị, giấc mộng Trung Quốc là sự thịnh vượng của Trung Quốc với nỗ lực tập thể, chủ nghĩa xã hội và vinh quang quốc gia.[92][93]

Địa lý

Bản đồ địa hình Trung Quốc.
Hắc Long Giang đóng băng bên bờ thuộc Trung Quốc.

Trung Quốc là quốc gia lớn thứ nhì trên thế giới xét theo diện tích đất[94] sau Nga, và là quốc gia lớn thứ ba hoặc bốn về tổng diện tích, sau Nga, Canada, và có thể là Hoa Kỳ.[j] Tổng diện tích của Trung Quốc thường được tuyên bố là khoảng 9.600.000 km2 (3.700.000 dặm vuông Anh).[95] Số liệu diện tích cụ thể dao động từ 9.572.900 km2 (3.696.100 dặm vuông Anh) theo Encyclopædia Britannica,[96] 9.596.961 km2 (3.705.407 dặm vuông Anh) theo Niên giám Nhân khẩu Liên Hiệp Quốc,[12] đến 9.596.960 km2 (3.705.410 dặm vuông Anh) theo CIA World Factbook.[97]

Trung Quốc có tổng chiều dài đường biên giới trên bộ lớn nhất thế giới, với 22.117 km (13.743 mi) từ cửa sông Áp Lục đến vịnh Bắc Bộ.[97] Trung Quốc có biên giới với 14 quốc gia khác, giữ vị trí số một thế giới cùng với Nga.[98] Trung Quốc bao gồm phần lớn khu vực Đông Á, giáp với Việt Nam, Lào, Myanmar, Ấn Độ, Bhutan, Nepal, Pakistan[k], Afghanistan, Tajikistan, Kyrgyzstan, Kazakhstan, Nga, Mông Cổ, và Triều Tiên. Ngoài ra, Hàn Quốc, Nhật Bản, Philippines cũng lân cận với Trung Quốc qua biển.

Lãnh thổ Trung Quốc nằm giữa các vĩ độ 18° ở tỉnh Hải Nam và 54° Bắc ở tỉnh Hắc Long Giang, các kinh độ 73° và 135° Đông. Cảnh quan của Trung Quốc biến đổi đáng kể trên lãnh thổ rộng lớn của mình. Tại phía đông, dọc theo bờ biển Hoàng Hảibiển Hoa Đông, có các đồng bằng phù sa rộng và dân cư đông đúc, trong khi các thảo nguyên rộng lớn chiếm ưu thế ở rìa của cao nguyên nguyên Nội Mông. Đồi và các dãy núi thấp chi phối địa hình tại Hoa Nam, trong khi miền trung-đông có những châu thổ của hai sông lớn nhất Trung Quốc là Hoàng HàTrường Giang. Các sông lớn khác là Tây Giang, Hoài Hà, Mê Kông (Lan Thương), Brahmaputra (Yarlung Tsangpo) và Amur (Hắc Long Giang). Ở phía tây có các dãy núi lớn, nổi bật nhất là Himalaya. Ở phía bắc có các cảnh quan khô hạn, như sa mạc Gobisa mạc Taklamakan. Đỉnh cao nhất thế giới là núi Everest (8.848m) nằm trên biên giới Trung Quốc-Nepal.[99] Điểm thấp nhất của Trung Quốc, và thấp thứ ba trên thế giới, là lòng hồ Ngải Đinh (−154m) tại bồn địa Turpan.[100]

Mùa khô và gió mùa ẩm chi phối phần lớn khí hậu Trung Quốc, dẫn đến khác biệt nhiệt độ rõ rệt giữa mùa đông và mùa hạ. Trong mùa đông, gió từ phía Bắc tràn xuống từ các khu vực có vĩ độ cao với đặc điểm là lạnh và khô; trong mùa hạ, gió nam từ các khu vực duyên hải có vĩ độ thấp có đặc điểm là ấm và ẩm.[101] Khí hậu Trung Quốc có sự khác biệt giữa các khu vực do địa hình phức tạp cao độ. Một vấn đề môi trường lớn tại Trung Quốc là việc các hoang mạc tiếp tục mở rộng, đặc biệt là sa mạc Gobi.[102][103]

Đa dạng sinh học

Một cá thể bò Tây Tạng tại Sơn Nam của Tây Tạng, loài này được thuần hóa từ hàng nghìn năm.

Trung Quốc là một trong 17 quốc gia đa dạng sinh học siêu cấp trên thế giới,[104] nằm trên hai khu vực sinh thái lớn của thế giới là Cổ Bắc phương (Palearctic) và Indomalaya (Đông Dương). Theo một đánh giá, Trung Quốc có trên 34.687 loài động vật và thực vật có mạch, do vậy là quốc gia đa dạng sinh học cao thứ ba trên thế giới, sau BrasilColombia.[105] Trung Quốc ký kết Công ước về đa dạng sinh học Rio de Janeiro vào tháng 6 năm 1992, và trở thành một bên của công ước vào tháng 1 năm 1993.[106]

Trung Quốc là nơi sinh sống của ít nhất 551 loài thú (nhiều thứ ba thế giới),[107] 1.221 loài chim (thứ tám),[108] 424 loài bò sát (thứ bảy)[109] và 333 loài động vật lưỡng cư (thứ bảy).[110] Trung Quốc là quốc gia đa dạng sinh học ở mức độ cao nhất trong mỗi hạng mục ngoài vùng nhiệt đới. Động vật hoang dã tại Trung Quốc chia sẻ môi trường sống và chịu áp lực gay gắt từ lượng dân cư đông nhất thế giới. Ít nhất có 840 loài động vật bị đe dọa, dễ bị tổn thương, hoặc gặp nguy hiểm tuyệt chủng địa phương tại Trung Quốc, phần lớn là do hoạt động của con người như phá hoại môi trường sống, ô nhiễm và săn bắn phi pháp để làm thực phẩm, lấy da lông và làm nguyên liệu cho Trung dược.[111] Gấu trúc là một trong số những động vật đứng trước nguy cơ tuyệt chủng hiện chỉ còn những cá thể tự nhiên duy nhất sống tại Trung Quốc. Động vật hoang dã gặp nguy hiểm được pháp luật bảo hộ, tính đến năm 2005, Trung Quốc có trên 2.349 khu bảo tồn tự nhiên, bao phủ một tổng diện tích là 149,95 triệu ha, tức 15% tổng diện tích của Trung Quốc.[112]

Trung Quốc có trên 32.000 loài thực vật có mạch,[113] và là nơi có nhiều loại rừng. Những khu rừng thông lạnh chiếm ưu thế tại miền bắc của quốc gia, là nơi sinh sống của các loài động vật như nai sừng tấmgấu đen, cùng với hơn 120 loài chim.[114] Tầng dưới của rừng thông ẩm có thể gồm các bụi tre. Trên các vùng núi cao của bách xùthủy tùng, thay thế cho tre là đỗ quyên. Các khu rừng cận nhiệt đới chiếm ưu thế tại miền trung và miền nam Trung Quốc, là nơi sinh sống của khoảng 146.000 loài thực vật.[114] Những khu rừng mưa nhiệt đới và theo mùa bị hạn chế tại Vân NamHải Nam, song bao gồm một phần tư tổng số loài động thực vật phát hiện được tại Trung Quốc.[114] Ghi nhận được trên 10.000 loài nấm tại Trung Quốc,[115] và trong số đó có gần 6.000 loài nấm bậc cao.[116]

Chính trị

Chân dung Mao Trạch Đông tại quảng trường Thiên An Môn

Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là một quốc gia xã hội chủ nghĩa công khai tán thành chủ nghĩa cộng sản. Chính phủ Trung Quốc được mô tả là cộng sản và xã hội chủ nghĩa, song cũng chuyên chế và xã đoàn,[117] với những hạn chế nghiêm ngặt trong nhiều lĩnh vực, đáng chú ý nhất là truy cập tự do Internet, tự do báo chí, tự do hội họp, quyền có con, tự do hình thành các tổ chức xã hội và tự do tôn giáo.[118] Hệ thống chính trị, tư tưởng, và kinh tế hiện tại của Trung Quốc được các lãnh đạo nước này gọi lần lượt là "chuyên chính dân chủ nhân dân", "chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc" và "kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa".[119]

Đảng Cộng sản Trung Quốc nắm quyền thống trị quốc gia, quyền lực của đảng này được ghi trong hiến pháp của Trung Quốc.[120] Hệ thống tuyển cử của Trung Quốc có phân cấp, theo đó các đại hội đại biểu nhân dân địa phương (cấp hương và cấp huyện) được tuyển cử trực tiếp, và toàn bộ các cấp đại hội đại biểu nhân dân từ cấp cao hơn cho đến toàn quốc được tuyển cử gián tiếp bởi đại hội đại biểu nhân dân ở cấp ngay bên dưới. Hệ thống chính trị được phân quyền, và các lãnh đạo cấp tỉnh và phó tỉnh có quyền tự trị đáng kể.[121] Tại Trung Quốc còn có các chính đảng khác, được gọi là 'đảng phái dân chủ', những tổ chức này tham gia Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc (Nhân đại) và Hội nghị Hiệp thương chính trị nhân dân Trung Quốc (Chính hiệp).[122]

Chủ tịch nước Trung Quốc là nguyên thủ quốc gia trên danh nghĩa, đóng vai trò là người đứng đầu về mặt lễ nghi và do Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc bầu ra. Thủ tướng Trung Quốc là nhân vật lãnh đạo chính phủ, chủ trì Quốc vụ viện gồm bốn phó thủ tướng cùng người đứng đầu các bộ và ủy ban cấp bộ. Chủ tịch nước đương nhiệm là Tập Cận Bình, ông cũng là Tổng Bí thư của Đảng Cộng sản Trung Quốc và Chủ tịch Quân ủy Trung Quốc, do vậy ông là lãnh đạo tối cao của Trung Quốc.[90] Thủ tướng đương nhiệm là Lý Khắc Cường, ông cũng là một thành viên cấp cao của Ban Thường vụ Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc, một cơ cấu quyết định hàng đầu của Trung Quốc trong thực tế.[123]

Hành chính

Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa quản lý về hành chính 22 tỉnh và nhìn nhận Đài Loan là tỉnh thứ 23, song Đài Loan hiện đang được Trung Hoa Dân Quốc quản lý một cách độc lập, chính thể này tranh chấp với yêu sách của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.[124] Trung Quốc còn có 5 phân khu được gọi chính thức là khu tự trị, mỗi khu dành cho một dân tộc thiểu số được chỉ định; 4 đô thị trực thuộc; và 2 khu hành chính đặc biệt được hưởng quyền tự trị chính trị nhất định. 22 tỉnh, 5 khu tự trị, 4 đô thị trực thuộc có thể được gọi chung là "Trung Quốc đại lục", thuật ngữ này thường không bao gồm các khu hành chính đặc biệt Hồng KôngMa Cao.

Quan hệ đối ngoại

Chủ tịch nước Tập Cận Bình và Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump tại Florida vào năm 2017.

Tính đến tháng 8 năm 2018, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa có quan hệ ngoại giao với 178 quốc gia (trong đó có Palestine, quần đảo CookNiue).[125] Tính hợp pháp của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là vấn đề tranh chấp đối với Trung Hoa Dân Quốc và một vài quốc gia khác (tính đến tháng 8 năm 2018 có 17 quốc gia có quan hệ ngoại giao chính thức với Trung Hoa Dân Quốc[126]). Năm 1971, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thay thế Trung Hoa Dân Quốc trong vị thế là đại diện duy nhất của Trung Quốc tại Liên Hiệp Quốc và vị thế là một trong năm thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc.[127] Trung Quốc là một cựu thành viên và cựu lãnh đạo của Phong trào không liên kết, và vẫn nhìn nhận bản thân là nước bênh vực cho những quốc gia đang phát triển.[128] Trung Quốc là một thành viên trong nhóm BRICS cùng với Brasil, Nga, Ấn Độ và Nam Phi.[129]

Theo Chính sách Một Trung Quốc, chính phủ Trung Quốc đặt điều kiện tiên quyết để thiết lập quan hệ ngoại giao là các quốc gia khác phải thừa nhận chủ quyền của họ đối với đảo Đài Loan (thuộc kiểm soát của Trung Hoa Dân Quốc) và đoạn tuyệt các quan hệ chính thức với chính phủ Trung Hoa Dân Quốc. Các quan chức Trung Quốc nhiều lần kháng nghị khi các quốc gia khác tiến hành đàm phán ngoại giao với Đài Loan,[130] đặc biệt là trong vấn đề giao dịch vũ khí.[131] Trung Quốc cũng kháng nghị những hội nghị chính trị giữa các quan chức chính phủ ngoại quốc và Đạt Lai Lạt Ma thứ 14.[132]

Phần lớn chính sách ngoại giao hiện hành của Trung Quốc được tường thuật là dựa trên "Năm nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình" của Thủ tướng Chu Ân Lai, và cũng được thúc đẩy bởi khái niệm "hòa nhi bất đồng", theo đó khuyến khích quan hệ ngoại giao giữa các quốc gia bất kể khác biệt về ý thức hệ.[133] Trung Quốc có quan hệ kinh tế và quân sự thân cận với Nga,[134] và hai quốc gia thường nhất trí khi bỏ phiếu tại Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc.[135][136][137]

Ngoài tuyên bố chủ quyền đối với Đài Loan, Trung Quốc cũng tham dự một số tranh chấp lãnh thổ quốc tế khác. Kể từ thập niên 1990, Trung Quốc tham dự các cuộc đàm phán nhằm giải quyết tranh chấp về biên giới trên bộ, trong đó có tranh chấp biên giới với Ấn Độ và một biên giới chưa phân định với Bhutan. Ngoài ra, Trung Quốc còn tham dự các tranh chấp đa phương quanh quyền chiếm hữu một số đảo nhỏ trên biển Đôngbiển Hoa Đông, gồm bãi cạn Scarborough (tranh chấp với Philippines)[138], quần đảo Senkaku(tranh chấp với Nhật Bản)[139] quần đảo Hoàng Saquần đảo Trường Sa (tranh chấp với Việt Nam).[140]

Trung Quốc thường được tán tụng là một siêu cường tiềm năng, một số nhà bình luận cho rằng phát triển kinh tế nhanh chóng, phát triển năng lực quân sự, dân số rất đông, và ảnh hưởng quốc tế gia tăng là những dấu hiệu cho thấy Trung Quốc sẽ giữ vị thế nổi bật trên toàn cầu trong thế kỷ XXI.[26][141] Một số học giả lại đặt câu hỏi về định nghĩa "siêu cường", lý luận rằng chỉ riêng kinh tế lớn sẽ không giúp Trung Quốc trở thành siêu cường, và lưu ý rằng Trung Quốc thiếu ảnh hưởng quân sự và văn hóa như Hoa Kỳ.[142]

Quân sự

Tập tin:J-10a zhas.png
Một chiến đấu cơ Tiêm-10 của Không quân Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc.
Tàu khu trục Lan Châu (170) thuộc Lớp tàu khu trục Kiểu 052C Lớp 052C của Hải quân Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc.
Xe tăng kiểu 99 của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc.
Phi đạn phòng không cơ động Hồng kỳ-9 (HQ-9).

Năm 2012, Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc có 2,3 triệu binh sĩ tại ngũ, là lực lượng quân sự thường trực lớn nhất trên thế giới và nằm dưới quyền chỉ huy của Quân ủy Trung ương.[143] Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc gồm có Lục quân, Hải quân, Không quân, và một lực lượng hạt nhân chiến lược mang tên Bộ đội Pháo binh số hai. Theo Chính phủ Trung Quốc, tổng chi phí dành cho quân sự của quốc gia vào năm 2012 là 100 tỷ USD, đứng thứ hai thế giới về ngân sách quân sự.[144] Tuy nhiên, các quốc gia khác như Hoa Kỳ thì cho rằng Trung Quốc không báo cáo mức chính xác về chi tiêu quân sự, vốn được cho là cao hơn nhiều ngân sách chính thức.[145] Lực lượng quân đội nước này vẫn tồn tại những nhược điểm về huấn luyện[146] và nạn tham nhũng tràn lan gây ảnh hưởng mạnh đến năng lực tham chiến của quân đội[147][148].

Khoa học và kỹ thuật trong Công nghiệp quốc phòng của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa hầu hết được đặt nền móng khi Liên Xô viện trợ mạnh mẽ vào Trung Quốc vào những năm 1950. Và phần lớn các vũ khí quan trọng của Liên Xô đã được cấp giấy phép để sản xuất tại Trung Quốc. Cũng như Liên Xô đã giúp đỡ phát triển công nghệ hạt nhân và vũ khí nguyên tử tại Trung Quốc[149]. CHND Trung Hoa cũng đã có được một số công nghệ của Hoa Kỳ khi mối quan hệ giữa hai nước trở nên nồng ấm vào những năm 1970. Cũng như Trung Quốc bắt đầu sao chép những vũ khí mà mình mua được từ phương Tây nhưng không nhiều do các nước phương Tây thận trọng hơn trong việc mua bán vũ khí với Trung Quốc cũng như bị cấm vận vũ khí vào năm 1989[150]. Đến những năm 1990 thì Trung Quốc bắt đầu sao chép quy mô lớn các vũ khí hiện đại mua được từ Nga. Còn khi Nga từ chối bán các loại vũ khí của mình thì Trung Quốc chuyển sang mua của Ukraina vốn cũng sở hữu nhiều loại vũ khí hiện đại từ thời Liên Xô[151]. Hiện tại thì Trung Quốc đang tích cực sao chép các loại vũ khí của phương Tây mua được từ Israel[152].

Đã từng có thời, Liên Xô hào phóng với Trung Quốc đến mức cung cấp miễn phí một lượng lớn vũ khí và công nghệ quân sự giúp cho ngành công nghiệp quốc phòng nước này có được một nền tảng cực kỳ quan trọng. Giới phân tích quân sự quốc tế khẳng định, Trung Quốc đã thu được những kết quả "khó tin" nhờ sự trợ giúp của Nga. Các nhà phân tích cho rằng, Bắc Kinh tin tưởng là bằng cách vi phạm bản quyền sản phẩm họ sẽ từng bước ngừng nhập khẩu vũ khí của Nga và tiến tới trở thành một nhà xuất khẩu lớn, đủ sức cạnh tranh với các cường quốc khác. Kể từ đó, Nga đã rất hạn chế bán thiết bị quân sự cho Trung Quốc mặc dù vẫn tiếp tục cung cấp động cơ máy bay. Thêm vào đó, mọi lời đề nghị sử dụng các nghiên cứu công nghệ cao từ phía Trung Quốc đều bị Nga từ chối thẳng thừng nhưng Nga lại sẵn lòng bán cho các đối thủ của Trung Quốc trong khu vực[153].

Trung Quốc được công nhận là một quốc gia có vũ khí hạt nhân[154] Theo một báo cáo vào năm 2013 của Bộ Quốc phòng Mỹ, Trung Quốc đưa ra thực địa từ 50 đến 75 tên lửa liên lục địa, cùng với một số tên lửa đạn đạo tầm ngắn.[155] Tuy nhiên, so với bốn thành viên khác trong Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, Trung Quốc tương đối hạn chế về năng lực viễn chinh.[156] Nhằm khắc phục tình trạng này, Trung Quốc đã phát triển các tài sản phục vụ viễn chinh, hàng không mẫu hạm đầu tiên của Trung Quốc bắt đầu phục vụ từ năm 2012,[157][158][159] và duy trì một hạm đội tầm ngầm đáng kể, gồm cả một số tàu ngầm tấn công hạt nhân và tên lửa đạn đạo.[160] Ngoài ra, Trung Quốc còn thiết lập một mạng lưới gồm các quan hệ quân sự hải ngoại dọc những tuyến đường biển then chốt.[161]

Trung Quốc đạt được những tiến bộ đánh kể trong việc hiện đại hóa không quân kể từ đầu thập niên 2000, mua các chiến đấu cơ của Nga như Sukhoi Su-30, và cũng sản xuất các chiến đấu cơ hiện đại cho mình, đáng chú ý nhất là J-10J-11, J-15J-16.[157][162] Trung Quốc còn tham gia phát triển máy bay tàng hìnhmáy bay chiến đấu không người lái.[163][164][165] Nhưng việc không thể tự chế tạo động cơ máy bay có chất lượng đủ tin cậy khiến cho Trung quốc không thể tự chế tạo toàn bộ các loại máy bay như J-11B, J-15 và J-16. Vấn đề tương tự đã buộc lực lượng Hải quân Trung Quốc hủy bỏ kế hoạch sử dụng động cơ WS-10A cho J-15. Cả hai lực lượng không quân và hải quân Trung quốc đã yêu cầu để thay thế WS-10A bằng các động cơ AL-31F của Nga đáng tin cậy hơn. Việc này làm cho số lượng động cơ nhập khẩu đang có không thể cung cấp đủ cho việc sản xuất máy bay việc này có thể dẫn đến việc ngừng phát triển máy bay cho đến khi Trung Quốc có thể tìm được cách tự chủ về động cơ[166].

Trung Quốc cũng hiện đại hóa lực lượng bộ binh của họ, thay thế xe tăng từ thời Liên Xô bằng nhiều biến thể của tăng kiểu 99, và nâng cấp các hệ thống C3I và C4I chiến trường để tăng cường năng lực chiến tranh mạng lưới trung tâm của họ. Ngoài ra, Trung Quốc cũng phát triển hoặc kiếm được các hệ thống tên lửa tân tiến,[167][168] trong đó có tên lửa chống vệ tinh,[169] tên lửa hành trình[170] và tên lửa đạn đạo liên lục địa hạt nhân phóng từ tàu ngầm.[171]

Liên tục 20 năm (từ năm 1997), ngân sách quốc phòng Trung Quốc công bố tăng trung bình 15%/năm đã tạo đà cất cánh cho Hải quân Trung Quốc trở thành sức mạnh mới. Những năm 1980, Hải quân Trung Quốc có bước đầu phát triển về chất, bắt đầu có các chuyến đi viễn dương, nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ thuật, huấn luyện hiệp đồng tàu ngầm với tàu mặt nước. Ngày nay, Hải quân Trung Quốc đã phát triển hoàn chỉnh với 5 binh chủng hiện đại: tàu ngầm, tàu mặt nước, Không quân Hải quân, Hải quân đánh bộ, tên lửa và pháo bờ biển. Các binh chủng này có thể độc lập hay hiệp đồng tác chiến. Chiến lược biển của Trung Quốc đặt mục tiêu biến Trung Quốc thành cường quốc hải quân toàn cầu, có khả năng tranh chấp và làm chủ các vùng biển xa, tiến tới mục tiêu siêu cường thế giới vào năm 2050. Để thực hiện các chủ trương trên, trong khuôn khổ “Bảy dự án trọng điểm” phát triển tiềm lực quân sự đến năm 2020, Hải quân Trung Quốc có 2 dự án: một là Dự án tàu sân bay (dự án 48), đóng mới và đưa vào trang bị hai tàu sân bay có lượng giãn nước khoảng 60.000 – 65.000 tấn, hai là thúc đẩy phát triển một đội tàu cỡ lớn. Trung Quốc có kế hoạch trang bị cho hải quân khoảng 6 tàu sân bay vào năm 2030, đủ sức cân bằng lực lượng với Hạm đội Thái Bình Dương của Hoa Kỳ.

Với tốc độ phát triển nhanh của kinh tế cũng như khoa học – kỹ thuật, Trung Quốc được được nhìn nhận là một cường quốc quân sự lớn trong khu vực châu Á và có tiềm năng trở thành một siêu cường quân sự trong tương lai gần[154].

Kinh tế

Tính đến năm 2016, kinh tế Trung Quốc lớn thứ hai thế giới xét theo GDP danh nghĩa, tổng giá trị khoảng 11.391.619 tỉ USD theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế. Nếu xét về GDP theo sức mua tương đương, Trung Quốc đạt 20.850 tỷ USD vào năm 2016, đã vượt qua Hoa Kỳ để đứng thứ nhất thế giới. Năm 2016, GDP PPP/người của Trung Quốc là 16,660 USD, trong khi GDP danh nghĩa/người là 8,141 USD. Theo cả hai phương pháp, Trung Quốc đều đứng sau khoảng 90 quốc gia (trong số 183 quốc gia trong danh sách của IMF) trong xếp hạng GDP/người toàn cầu.[172]

Từ khi thành lập vào năm 1949 cho đến cuối năm 1978, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa có một kinh tế kế hoạch tập trung theo kiểu Liên Xô. Sau khi Mao Trạch Đông từ trần vào năm 1976 và Cách mạng văn hóa kết thúc, Đặng Tiểu Bình và tập thể lãnh đạo mới của Trung Quốc bắt đầu cải cách kinh tế và chuyển đổi theo hướng kinh tế hỗn hợp định hướng thị trường hơn dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Các hợp tác xã, nông trang tập thể bị giải tán bớt hoặc chuyển đổi hình thức hoạt động và ruộng đất được giao cho các hộ gia đình sử dụng, trong khi đó ngoại thương trở thành một trọng tâm mới quan trọng, dẫn đến việc thiết lập các đặc khu kinh tế. Những doanh nghiệp quốc doạnh không hiệu quả bị tái cơ cấu và những doanh nghiệp thua lỗ phải đóng cửa hoàn toàn, dẫn đến tình trạng thất nghiệp lớn. Trung Quốc hiện nay có đặc điểm chủ yếu là một nền kinh tế thị trường dựa trên quyền sở hữu tài sản tư nhân,[173] và là một trong các ví dụ hàng đầu về chủ nghĩa tư bản nhà nước.[174][175] Nhà nước vẫn chi phối trong những lĩnh vực "trụ cột" chiến lược như sản xuất năng lượng và công nghiệp nặng, song doanh nghiệp tư nhân mở rộng mạnh mẽ, với khoảng 30 triệu doanh nghiệp tư nhân vào năm 2008.[176][177][178][179]

Quang cảnh khu trung tâm Phố Đông của Thượng Hải vào năm 2012.
Quang cảnh khu vực ven Hải Hà của Thiên Tân.
Vương Phủ Tỉnh là một trong các phố mua sắm bận rộn nhất tại Bắc Kinh..
Khu vực Châu Giang tân thành tại Quảng Châu.

Kể từ khi bắt đầu tự do hóa kinh tế vào năm 1978, Trung Quốc nằm trong số các nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất trên thế giới,[180] dựa ở mức độ lớn vào tăng trưởng do đầu tư và xuất khẩu.[181] Trong gần 30 năm từ năm 1978, GDP của Trung Quốc đã tăng 15 lần, sản xuất công nghiệp tăng hơn 20 lần; kim ngạch thương mại tăng hơn 100 lần. Vào năm 1992, Trung Quốc vẫn còn xếp thứ 133 thế giới về GDP bình quân đầu người, với hơn một nửa dân số sống dưới mức 2 USD/ngày, nhưng dự kiến tới năm 2022, Trung Quốc sẽ tăng 69 bậc (lên hạng 64 thế giới) trong xếp hạng về GDP bình quân đầu người, và chỉ còn chưa đầy 2% dân số Trung Quốc sống dưới chuẩn nghèo của thế giới.

Tới năm 2000, Trung Quốc đã hoàn thành công nghiệp hóa, và bắt đầu chuyển từ phát triển chiều rộng sang chiều sâu, chú trọng việc nghiên cứu tạo ra các thành tựu khoa học kỹ thuật mới, tạo ra một cơ sở vững chắc để giải quyết việc biến Trung Quốc từ một “công xưởng của thế giới” thành một “nhà máy của tri thức”.

Theo IMF, tăng trưởng GDP bình quân hàng năm của Trung Quốc trong giai đoạn 2001-2010 là 10,5%. Trong giai đoạn 2007-2011, tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc tương đương với tổng tăng trưởng của các quốc gia G7.[182] Năng suất cao, chi phí lao động thấp và cơ sở hạ tầng tương đối thấp khiến Trung Quốc dẫn đầu thế giới về chế tạo. Tuy nhiên, kinh tế Trung Quốc cần rất nhiều năng lượng và không hiệu quả;[183] Trung Quốc trở thành nước tiêu thụ năng lượng lớn nhất thế giới vào năm 2010,[184] dựa vào than đá để cung cấp trên 70% nhu cầu năng lượng trong nước,[185] và vượt qua Hoa Kỳ để trở thành nước nhập khẩu dầu lớn nhất thế giới vào tháng 9 năm 2013.[186]

Quảng trường Trung Sơn ở thành phố Đại Liên

Trung Quốc là một thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới và là cường quốc giao thương lớn nhất thế giới, với tổng giá trị mậu dịch quốc tế là 3.870 tỷ USD trong năm 2012.[187] Dự trữ ngoại hối của Trung Quốc đạt 2.850 tỷ USD vào cuối năm 2010, là nguồn dự trữ ngoại hối lớn nhất thế giới cho đến đương thời.[188][189] Năm 2012, Trung Quốc là quốc gia tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) nhiều nhất thế giới, thu hút 253 tỷ USD.[190] Trung Quốc cũng đầu tư ra hải ngoại, tổng FDI ra ngoại quốc trong năm 2012 là 62,4 tỷ USD,[190] các công ty Trung Quốc cũng tiến hành những vụ thu mua lớn các hãng ngoại quốc.[191] Tỷ giá hối đoái bị định giá thấp gây xích mích giữa Trung Quốc với các nền kinh tế lớn khác,[192][193][194].

Dân số tầng lớp trung lưu tại Trung Quốc (có thu nhập hàng năm từ 10.000-60.000 USD) đạt trên 300 triệu vào năm 2012.[195] Theo Hurun Report, số lượng tỷ phú USD tại Trung Quốc tăng lên 251 vào năm 2012.[196] Thị trường bán lẻ nội địa của Trung Quốc có giá trị 20.000 tỷ tệ (3.200 tỷ USD) vào năm 2012[197] và tăng trưởng trên 12%/năm vào năm 2013,[198] trong khi thị trường xa xỉ phẩm phát triển mạnh, với 27,5% thị phần toàn cầu vào năm 2010.[199] Tuy nhiên, trong những năm gần đây, tăng trưởng kinh tế nhanh chóng của Trung Quốc góp phần vào lạm phát tiêu thụ nghiêm trọng,[200][201] làm gia tăng các quy định của chính phủ.[202]

Trung Quốc có bất bình đẳng kinh tế ở mức độ cao,[203] và tăng lên trong các thập niên vừa qua.[204] Đến cuối năm 2012, số người nghèo tại khu vực nông thôn của Trung Quốc là khoảng 98,99 triệu theo chuẩn nghèo Trung Quốc, chiếm 10,2% dân số khu vực nông thôn.[205] Một báo cáo của Đại học Bắc Kinh cho biết theo số liệu thu nhập năm 2012, 1% các gia đình giàu có nhất tại Trung Quốc sở hữu hơn 1/3 giá trị tài sản toàn quốc, 25% các gia đình nghèo nhất chiếm 1% giá trị tài sản toàn quốc.[206]

Trung Quốc bị chỉ trích rộng rãi về việc chế tạo hàng nhái với số lượng lớn[207][208] với hơn 90% lượng hàng giả và hàng nhái trên thế giới có nguồn gốc xuất phát từ quốc gia này[209]. Những nhãn hàng thời trang từ bình dân tới cao cấp được nhái lại và bày bán công khai với giá rẻ. Một số thương hiệu nổi tiếng trên thế giới cũng bị nhái tại đây. Đặc biệt một số sản phẩm nổi tiếng chưa ra mắt chính thức đặc biêt là đồ công nghệ đã bị nhái tại đây.[210][211]

Ngoài công nghệ sản xuất quy mô, nền kinh tế Trung Hoa lục địa còn có những điểm nghiêm trọng trực tiếp liên quan đến tội phạm và những đường dây buôn hàng giả. Hoa lục là nguồn xuất phát của 70% lượng hàng giả bị tịch thu trên toàn thế giới trong khoảng những năm 2008-2010. Tổng giá trị hàng giả trên thế giới là khoảng 25 tỷ USD, tương đương với 2% tổng mậu dịch thế giới. Gộp chung các tổ chức phạm pháp buôn người, buôn hàng tiêu thụ, dược phẩm, lâm sản và dã thú bị nghiêm cấm, Các tổ chức buôn hàng giả tại vùng Đông Á có lợi nhuận mỗi năm lên khoảng 90 tỷ USD.[212] Riêng tại Mỹ thì 87% hàng giả bị nhà chức trách bắt được là làm ở Hoa lục.[213]

Hàng giả được bày bán công khai. Bắc Kinh tuy có ra tay dẹp bỏ hàng giả nhưng phần thi hành lỏng lẻo, lại vì chính quyền tham nhũng nên nhà sản xuất vẫn có thể hối lộ luồn lách để hoạt động như thường.[213] Có địa phương như Yimu sống về sản xuất hàng giả. Công nghệ hàng giả quy mô đến mức chính quyền ngần ngại không dám dẹp bỏ vì đây là mối sinh nhai, cung cấp công ăn việc làm cho hàng triệu người.[214]

Khoa học và kỹ thuật

Tên lửa Trường Chinh 3B được phóng từ Trung tâm Tây Xương tại Tứ Xuyên vào năm 1996.

Trung Quốc dẫn đầu thế giới về khoa học và kỹ thuật cho đến thời Minh. Những phát hiện và phát minh từ thời cổ của Trung Quốc, như cách làm giấy, in, la bàn, và thuốc súng (Tứ đại phát minh), về sau trở nên phổ biến tại châu Á và châu Âu. Đây được coi là tứ đại phát minh. Ngoài ra cũng phải kể đến các phát minh như bàn tính, cung tên, bàn đạp ngựa, sơn mài, bánh lái, địa chấn ký, sành sứ, tiền giấy.

Những địa hạt nghiên cứu kỹ thuật khác:

Tuy nhiên, đến thế kỷ XVII, thế giới phương Tây vượt qua Trung Quốc trên phương diện phát triển khoa học và kỹ thuật.[59] Sau những thất bại quân sự liên tục trước các quốc gia phương Tây trong thế kỷ XIX, những nhà cải cách người Trung Quốc bắt đầu đề xướng khoa học và kỹ thuật hiện đại, một phần của vận động Tự cường. Sau khi Đảng Cộng sản lên nắm quyền vào năm 1949, họ tiến hành các nỗ lực nhằm tổ chức khoa học và kỹ thuật dựa theo mô hình của Liên Xô, theo đó nghiên cứu khoa học là bộ phận của kế hoạch tập trung.[217] Sau khi Mao Trạch Đông từ trần vào năm 1976, khoa học kỹ thuật được xác định là một trong "Bốn cái hiện đại hóa",[218] và chế độ học thuật theo phong cách Liên Xô dần được cải cách.[219]

Kể từ khi kết thúc Cách mạng văn hóa, Trung Quốc đã đầu tư đáng kể cho nghiên cứu khoa học,[220] dành trên 100 tỷ USD cho nghiên cứu và phát triển khoa học riêng trong năm 2011.[221] Khoa học và kỹ thuật được nhìn nhận là trọng yếu để đạt được các mục tiêu kinh tế và chính trị, và có ảnh hưởng như một nguồn tự hào dân tộc đến mức đôi khi được mô tả là "Chủ nghĩa dân tộc kỹ thuật".[222] Mặc dù một số nhà khoa học sinh tại Trung Quốc từng đoạt giải Nobel Vật lýgiải Nobel Hóa học, song họ đều đạt học vị tiến sĩ và tiến hành nghiên cứu đoạt giải Nobel tại phương Tây.[l] Hiện tại thì Trung Quốc đang đối mặt với nhiều cáo buộc ăn cắp công nghệ như một phần trong xu hướng hiện đại hóa đất nước. Việc giành lấy các công nghệ bí mật một cách bất hợp pháp sẽ ít tốn kém và giúp Trung Quốc đẩy nhanh quá trình hiện đại hóa bằng cách bỏ qua các vấn đề đòi hỏi nhiều năm nghiên cứu để giải quyết từ kinh tế cho đến quân sự bằng nhiều con đường khác nhau[228][229].

Trung Quốc đang phát triển nhanh chóng hệ thống giáo dục của mình với trọng tâm là khoa học, toán học, và kỹ thuật; năm 2009, hệ thống này đào tạo ra trên 10.000 tiến sĩ kỹ thuật, và 500.000 cử nhân, nhiều hơn bất kỳ quốc gia nào khác.[230] Trung Quốc cũng là nơi xuất bản các bài báo khoa học nhiều thứ hai trên thế giới, với 121.500 bài trong năm 2010.[231] Các công ty kỹ thuật của Trung Quốc như HuaweiLenovo đứng hàng đầu thế giới về viễn thông và điện toán cá nhân,[232][233][234] và các siêu máy tính Trung Quốc luôn có tên trong danh sách mạnh nhất thế giới.[235][236] Trung Quốc cũng trải qua một sự tăng trưởng đáng kể trong việc sử dụng robot công nghiệp; từ năm 2008 đến năm 2011, việc lắp đặt robot đa chức năng tăng đến 136%.[237]

Trong 10 năm từ 2000 tới 2010, tỷ trọng sản phẩm công nghệ cao của Trung Quốc so với cả thế giới đã tăng từ 6% lên 22%, trong khi đó tỷ trọng của Mỹ giảm từ 21% xuống còn 15%. 16 trường đại học của Trung Quốc đã lọt vào danh sách các trường đại học tốt nhất thế giới do tạp chí Times bình chọn năm 2013, trong đó có cả các trường đại học của Hong Kong. Trung Quốc đã thành lập hai trung tâm công nghệ cao là Thâm Quyến và Công viên khoa học Trung Quan Thôn ở Bắc Kinh, cũng như nhiều "công viên khoa học" ở hàng loạt thành phố lớn của đất nước. Tỷ trọng sản phẩm công nghệ cao trong xuất khẩu của Trung Quốc dao động trong khoảng từ 25 - 30%. Các công ty công nghệ cao của Trung Quốc như Lenovo, Huawei, Xiaomi, Coolpad, ZTE... đã bắt đầu cạnh tranh thành công trên thị trường thế giới.

Trung Quốc ngày nay đang sản xuất ngày càng nhiều thiết bị công nghệ cao với năng suất và sản lượng lớn chưa từng có. Từ vị thế bị các chuyên gia kinh tế nước ngoài coi thường, giờ đây Trung Quốc đã trở thành cường quốc kinh tế mà không một quốc gia nào có thể phớt lờ. Không dừng lại ở đó, chính quyền Trung Quốc còn muốn tiến xa hơn nữa bằng cách nâng cao các nhà máy của họ trong chuỗi giá trị sản xuất, tạo nên một công xưởng sản phẩm kỹ thuật cao để áp đặt luật chơi cho toàn cầu. Trung Quốc hiện muốn thống trị trong cả những lĩnh vực công nghệ tiên phong mà các tập đoàn lớn như Apple hay Qualcomm đang hoạt động. Dù chưa đứng đầu thế giới về công nghệ cao nhưng với lượng tiền khổng lồ đổ vào trí tuệ nhân tạo, điện tử đám mây, robot… Trung Quốc đang khiến nhiều nước phải dè chừng. Đó là chưa kể việc quốc gia này bỏ tiền mua hàng loạt những công ty công nghệ lớn nhằm tận dụng kỹ thuật tiên tiến của họ. Bằng việc vung tiền như vậy, Trung Quốc đang tạo nên một mô hình phát triển chuỗi sản xuất mới chưa từng có.[238].

Chương trình không gian của Trong Quốc nằm vào hàng tích cực nhất thế giới, và là một nguồn quan trọng của niềm tự hào dân tộc.[239][240] Năm 1970, Trung Quốc phóng vệ tinh nhân tạo đầu tiên của mình là Đông Phương Hồng I, trở thành quốc gia thứ năm có thể thực hiện điều này một cách độc lập.[241] Năm 2003, Trung Quốc trở thành quốc gia thứ ba độc lập đưa người vào không gian, với chuyến bay vũ trụ của Dương Lợi Vĩ trên Thần Châu 5; đến tháng 6 năm 2013, có 10 công dân Trung Quốc đã thực hiện hành trình vào không gian. Năm 2011, môđun trạm không gian đầu tiên của Trung Quốc là Thiên Cung 1 được phóng, đánh dấu bước đầu tiên trong một kế hoạch nhằm lắp ráp một trạm quy mô lớn có người điều khiển vào đầu thập niên 2020.[242] Năm 2013, Trung Quốc thành công trong việc hạ cánh tàu thăm dò Thường Nga 3 và một xe tự hành Ngọc Thố lên Mặt Trăng.[243]

Vi phạm bản quyền

Ông Richard Trumka, chủ tịch của AFL-CIO, đại diện cho hơn 12 triệu công nhân đang hoạt động và đã nghỉ hưu, lên án Trung Quốc vì hành vi sao chép tài sản trí tuệ của Hoa Kỳ và "hành xử bắt nạt để có được những tiến bộ quan trọng của Hoa Kỳ trong công nghệ".[244]

Nhiều quốc gia và công ty đã lên tiếng phản đối việc các điệp viên và tin tặc Trung Quốc ăn cắp bí mật công nghệ và khoa học của họ thông qua việc gây ra các lỗi phần mềm và bằng cách xâm nhập vào các ngành công nghiệp, tổ chức và trường đại học. Trung Quốc cũng bị cáo buộc đã hưởng lợi từ việc ăn cắp các thiết kế nước ngoài, bỏ qua bản quyền sản phẩm và hệ thống bằng sáng chế.[245][246][247][248][249][250][251][252][253][254] Cục tình báo Trung Quốc cũng bị cáo buộc là đã hỗ trợ các công ty Trung Quốc.[255][256]

Các quan chức Hoa Kỳ đã cáo buộc các điệp viên và tin tặc Trung Quốc đã đánh cắp các công nghệ quân sự nhạy cảm và hàng đầu của Mỹ bao gồm máy bay ném bom tàng hình B-2, C-17, máy bay tấn công tàng hình F-117, F-22 và máy bay chiến đấu tàng hình F-35, động cơ máy bay, máy bay trực thăng quân sự, máy bay không người lái, phương tiện dưới nước không người lái, tàu khu trục, tàu đổ bộ đệm không khí, tàu ngầm, tên lửa, vệ tinh, hệ thống vũ khí, robotics, trí tuệ nhân tạo, bán dẫn, ổ đĩa trạng thái rắn, thông tin di động di động, phần mềm trong số hầu hết các loại vũ khí và công nghệ tiên tiến.[257][258][259][260][261][261][262][263][264][265][266][267][268][269][270][271][272][273][274][275][276]

Các chuyên gia an ninh quốc gia tại Mỹ cho biết tin tặc Trung Quốc đã liên tục đánh cắp bí mật thương mại từ các nhà thầu quốc phòng của Mỹ. Cựu Giám đốc Cơ quan An ninh Quốc gia Mỹ là Keith B. Alexander đã gọi hành vi sao chép trái phép tài sản trí tuệ của Trung Quốc là hành vi trộm cắp trắng trợn nhất trong lịch sử.[277][278]

Trung Quốc có lợi thế là nhờ luôn đi sau nên có thể hạn chế rủi ro thất bại. Họ rút kinh nghiệm từ những mô hình kinh doanh và phát minh sáng chế bị lỗi hay khiếm khuyết của người Mỹ để hoàn thiện nhằm tiết kiệm chi phí đầu tư và sáng tạo trí tuệ. Vụ việc các đại gia công nghệ Mỹ đồng loạt cấm vận Huawei (một tập đoàn đa quốc gia về thiết bị mạng và viễn thông của Trung Quốc) vào năm 2019 đã mang đến một bài học lớn về việc ỷ lại vào sao chép, cũng như tư duy vi phạm sở hữu trí tuệ của Trung Quốc. Nền công nghệ Trung Quốc vẫn thiếu sự đầu tư bài bản, nghiên cứu công phu và đầu óc sáng tạo như của phương Tây. Chiến lược phát triển “ăn xổi ở thì”, chuyên sao chép và đánh cắp công nghệ của Trung Quốc sẽ phải trả cái giá đắt khi bị các đối thủ tập trung triệt hạ[279]. Tuy vậy, Trung Quốc cũng có những thế mạnh để phát triển trong tương lai, như quy mô dân số, việc Huawei là hãng mạnh nhất về phát triển của công nghệ 5G mà các nhà mạng toàn cầu mới bắt đầu triển khai. Năm 2016 Trung Quốc có 4,7 triệu sinh viên tốt nghiệp các ngành khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học gần đây, trong khi Mỹ chỉ có 568.000 tuy nhiên dân số Trung Quốc gấp 4,2 lần dân số Mỹ. Chuỗi lắp ráp, sản xuất tại Trung Quốc nhìn chung vẫn nhỉnh hơn Mỹ về mặt tổng sản lượng trong nhiều ngành công nghiệp và luôn có chi phí thấp hơn Mỹ. Chiến tranh lạnh về công nghệ ngày càng tăng tiến giữa Trung Quốc và Mỹ sẽ rất khó tìm bên chiến thắng rõ ràng.[280]

Trung Quốc cũng ý thức rõ rằng việc sao chép công nghệ không phải là hướng đi lâu dài và từ lâu họ đã đề ra những chính sách mới về công nghệ. Từ năm 2000, Trung Quốc đã chuyển từ phát triển chiều rộng sang chiều sâu, chú trọng việc nghiên cứu tạo ra các thành tựu khoa học kỹ thuật mới thay vì sao chép của nước ngoài, nhằm biến Trung Quốc từ một “công xưởng của thế giới” thành một “nhà máy của tri thức”. Trung Quốc đã đầu tư lượng lớn tiền cho sản phẩm công nghệ cao như ô tô điện, sản phẩm bán dẫn, công nghệ smartphone… Điều này đã được ghi rõ trong kế hoạch "Made in China 2025" của Trung Quốc[281]. Các chuyên gia cho rằng khi bị Mỹ gây sức ép, Trung Quốc có thể sẽ tập hợp các hãng nội địa vào một cơ chế hợp tác ở cấp độ cao hơn và phát triển công nghệ mới để đẩy nhanh tiến bộ công nghệ của họ[282].

Cuối tháng 11/2018, CNN Business đã có phóng sự về việc các thành phố lớn như Thâm Quyến đã chuyển mình từ bắt chước (imitation) sang sáng tạo (innovation), và rằng việc xem Trung Quốc là công xưởng chỉ biết gia công, sao chép các sản phẩm do nước ngoài thiết kế giờ đã là “quan niệm lạc hậu và sai lầm”. Christian Grewell, giáo sư kinh doanh Đại học New York Thượng Hải, nhận định: “Có rất nhiều phát minh, sáng tạo đang diễn ra với quy mô lớn và tốc độ rất nhanh ở Trung Quốc mà chúng ta không hề hay biết”. Trung Quốc muốn thành quốc gia đi đầu về trí tuệ nhân tạo vào năm 2030, và hiện đã dẫn đầu về số lượng bài nghiên cứu và lượt trích dẫn trong lĩnh vực này[283].

Cơ sở hạ tầng

Trung Quốc hiện có số lượng điện thoại di động hoạt động nhiều nhất thế giới, với trên 1 tỷ người sử dụng tính đến tháng 2 năm 2012.[284] Quốc gia này cũng đứng đầu thế giới về số người sử dụng Internet và băng thông rộng,[285] với trên 591 triệu người sử dụng Internet tính đến năm 2013, tương đương khoảng 44% dân số toàn quốc.[286] Một báo cáo vào năm 2013 biểu thị rằng tốc độ đường truyền Internet trung bình toàn quốc là 3,14 MB/s.[287] China TelecomChina Unicom là hai nhà cung cấp băng thông rộng lớn nhất thế giới, chiếm 20% số thuê bao băng thông rộng toàn cầu. China Telecom phục vụ trên 50 triệu thuê bao băng thông rộng, con số của China Unicom là trên 40 triệu (đến năm 2010).[288] Một số công ty viễn thông của Trung Quốc, đáng chú ý nhất là HuaweiZTE, bị cáo buộc làm gián điệp cho quân đội Trung Quốc.[289] Trung Quốc đang phát triển hệ thống định vị vệ tinh riêng được đặt tên là Bắc Đẩu.[290]

Kể từ cuối thập niên 1990, mạng lưới đường bộ quốc gia của Trung Quốc được mở rộng đáng kể thông qua thiết lập một mạng lưới quốc đạo và công lộ cao tốc. Năm 2011, các quốc đạo của Trung Quốc đạt tổng chiều dài 85.000 km (53.000 mi), trở thành hệ thống công lộ dài nhất trên thế giới.[291] Trung Quốc sở hữu thị trường lớn nhất thế giới đối với ô tô, vượt qua Hoa Kỳ về cả bán và sản xuất ô tô. Số xe bán được trong năm 2009 vượt quá 13,6 triệu[292] và dự đoán đạt 40 triệu vào năm 2020.[293] Trong các khu vực đô thị, xe đạp vẫn là một phương tiện giao thông phổ biến, tính đến năm 2012, có khoảng 470 triệu xe đạp tại Trung Quốc.[294]

Cầu Đông Hải nối Thượng Hải lục địa và cảng nước sâu Dương Sơn là một trong những cầu vượt biển dài nhất thế giới.

Hệ thống đường sắt Trung Quốc thuộc sở hữu nhà nước, nằm trong số các hệ thống nhộn nhịp nhất trên thế giới.[295][296] Tính đến năm 2013, mạng lưới đường sắt Trung Quốc có tổng chiều dài 103.144 km (64.091 mi), xếp hạng ba trên thế giới.[297] Năm 2013, đường sắt Trung Quốc vận chuyển khoảng 2,106 tỷ lượt hành khách, khoảng 3,967 tỷ tấn hàng hóa.[298] Hệ thống đường sắt cao tốc Trung Quốc bắt đầu được xây dựng từ đầu thập niên 2000, xếp hàng đầu thế giới về chiều dài với 11.028 kilômét (6.852 dặm) đường ray vào năm 2013.[299] Mạng lưới đường ray đường sắt cao tốc được dự tính đạt khoảng 16.000 km (9.900 mi) vào năm 2020.[300] Tính đến tháng 5 năm 2014, 20 thành phố tại Trung Quốc có hệ thống đường sắt đô thị đã đi vào hoạt động, dự tính sẽ có thêm nhiều thành phố sở hữu hệ thống này cho đến năm 2020.[301]

Tính đến năm 2012, Trung Quốc có 182 cảng hàng không thương mại, và trên hai phần ba số cảng hàng không được xây dựng trên toàn cầu trong năm 2013 là tại Trung Quốc,[302]Boeing cho rằng phi đội thương mại hoạt động tại Trung Quốc sẽ tăng từ 1.910 trong năm 2011 lên 5.980 vào năm 2031.[302] Khoảng 80% không phận của Trung Quốc vẫn bị hạn chế cho sử dụng quân sự, và các hãng hàng không Trung Quốc chiếm tám trong số mười hãng hàng không châu Á tệ nhất về phương diện trì hoãn.[303] Trong năm 2013, Sân bay quốc tế Thủ đô Bắc Kinh xếp hạng nhì thế giới về vận chuyển hành khách.

Trung Quốc có trên 2.000 cảng sông và cảng biển, khoảng 130 trong số đó mở cửa cho thuyền ngoại quốc. Năm 2012, các cảng Thượng Hải, Hồng Kông, Thâm Quyến, Ninh Ba-Chu Sơn, Quảng Châu, Thanh Đảo, Thiên Tân, Đại Liên xếp hàng đầu thế giới về vận chuyển số lượng container và trọng tải hàng hóa.[304]

Nhân khẩu

Theo kết quả điều tra nhân khẩu toàn quốc năm 2010, dân số nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là 1.370.536.875. Khoảng 16,60% dân số từ 14 tuổi trở xuống, 70,14% từ 15 đến 59 tuổi, và 13,26% từ 60 tuổi trở lên.[305] Do dân số đông và tài nguyên thiên nhiên suy giảm, chính phủ Trung Quốc rất quan tâm đến tốc độ tăng trưởng dân số, và từ năm 1978 họ đã nỗ lực tiến hành với kết quả khác nhau,[306] nhằm thi hành một chính sách kế hoạch hóa gia đình nghiêm ngặt được gọi là "chính sách một con." Trước năm 2013, chính sách này tìm cách hạn chế mỗi gia đình có một con, ngoại trừ các dân tộc thiểu số và linh hoạt nhất định tại các khu vực nông thôn. Một nới lỏng lớn về chính sách được han hành vào tháng 12 năm 2013, cho phép các gia đình có hai con nếu một trong song thân là con một.[307] Dữ liệu từ điều tra nhân khẩu năm 2010 cho thấy rằng tổng tỷ suất sinh là khoảng 1,4.[308] Chính sách một con cùng với truyền thống trọng nam có thể góp phần vào mất cân bằng về tỷ suất giới tính khi sinh.[309][310] Theo điều tra nhân khẩu năm 2010, tỷ suất giới tính khi sinh là 118,06 nam/100 nữ,[311] cao hơn mức thông thường là khoảng 105 nam/100 nữ.[312] Kết quả điều tra nhân khẩu vào năm 2013 cho thấy nam giới chiếm 51,27% tổng dân số.[313] trong khi con số này vào năm 1953 là 51,82%.[313]

Người Hán là dân tộc chiếm đa số tại Trung Quốc

Trung Quốc chính thức công nhận 56 dân tộc riêng biệt, dân tộc đông dân nhất là người Hán, chiếm khoảng 91,51% tổng dân số.[11] Người Hán là dân tộc đơn lẻ lớn nhất trên thế giới,[314], chiếm thiểu số tại Tây Tạng và Tân Cương và đông hơn các dân tộc khác tại các đơn vị hành chính cấp tỉnh còn lại.[315] Các dân tộc thiểu số chiếm khoảng 8,49% tổng dân số Trung Quốc theo kết quả điều tra nhân khẩu năm 2010.[11] So với điều tra nhân khẩu năm 2000, dân số người Hán tăng 66.537.177, hay 5,74%, trong khi tổng dân số của 55 dân tộc thiểu số tăng 7.362.627, hay 6,92%.[11] Điều tra nhân khẩu năm 2010 cho thấy có 593.832 công dân ngoại quốc cư trú tại Trung Quốc, các nhóm lớn nhất đến từ Hàn Quốc (120.750), Hoa Kỳ (71.493) và Nhật Bản (66.159).[316]

Trung Quốc có 292 ngôn ngữ đang tồn tại.[317] Các ngôn ngữ phổ biến nhất thuộc nhánh Hán của ngữ hệ Hán-Tạng, gồm có Quan thoại (bản ngữ của 70% dân số),[318] và các ngôn ngữ Hán khác: Ngô, Việt (hay Quảng Đông), Mân, Tương, Cám, và Khách Gia. Các ngôn ngữ thuộc nhánh Tạng-Miến như Tạng, Khương, Lô Lô được nói trên khắp cao nguyên Thanh Tạng và Vân Quý. Các ngôn ngữ thiểu số khác tại tây nam Trung Quốc gồm các ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Tai-Kadai như tiếng Tráng, H'Mông-MiềnNam Á. Tại khu vực đông bắc và tây bắc của Trung Quốc, các dân tộc thiểu số nói các ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Altai như tiếng Mông Cổ và ngữ hệ Turk như tiếng Duy Ngô Nhĩ. Tiếng Triều Tiên là bản ngữ tại một số khu vực sát biên giới với Bắc Triều Tiên, và tiếng Sarikoli của người Tajik ở miền tây Tân Cương là một ngôn ngữ Ấn-Âu.

Tiếng phổ thông là một dạng của Quan thoại dựa trên phương ngôn Bắc Kinh, là quốc ngữ chính thức của Trung Quốc và được sử dụng làm một ngôn ngữ thông dụng trong nước giữa những cá nhân có bối cảnh ngôn ngữ khác biệt.[319] Chữ Hán được sử dụng làm văn tự cho các ngôn ngữ Hán từ hàng nghìn năm, tạo điều kiện cho người nói các ngôn ngữ và phương ngôn Hán không hiểu lẫn nhau có thể giao tiếp thông qua văn tự. Năm 1956, chính phủ Trung Quốc đưa ra chữ giản thể, thay thế cho chữ phồn thể. Chữ Hán được Latin hóa bằng hệ thống bính âm. Tiếng Tạng sử dụng chữ viết dựa trên mẫu tự Ấn Độ, các dân tộc Hồi giáo tại Trung Quốc thường sử dụng mẫu tự Ba Tư-Ả Rập, còn tiếng Mông Cổ tại Trung Quốc và tiếng Mãn sử dụng chữ viết bắt nguồn từ mẫu tự Duy Ngô Nhĩ cổ.

Trong hàng thiên niên kỷ, văn minh Trung Hoa chịu ảnh hưởng từ nhiều phong trào tôn giáo khác nhau, Tam giáo Trung Hoa bao gồm Nho giáo, Phật giáoĐạo giáo trên phương diện lịch sử có tác động quan trọng trong việc định hình văn hóa Trung Hoa.[320][321] Các yếu tố của Tam giáo thường được kết hợp vào các truyền thống tôn giáo quần chúng hoặc dân gian.[322] Hiến pháp Trung Quốc đảm bảo quyền tự do tôn giáo, song các tổ chức tôn giáo không được chính thức chấp thuận có thể phải chịu bách hại ở quy mô quốc gia.[323] Ước tính về nhân khẩu tôn giáo tại Trung Quốc có sự khác biệt. Một nghiên cứu năm 2007 cho thấy 31,4% người Trung Quốc trên 16 tuổi là tín đồ tôn giáo,[324] một nghiên cứu vào năm 2006 thì cho thấy 46% dân số Trung Quốc là tín đồ tôn giáo.[325] Một nghiên cứu vào năm 2007 cho thấy các cá nhân tự xác định là tín đồ Phật giáo chiếm 11–16% dân số trưởng thành tại Trung Quốc, trong khi tín đồ Cơ Đốc giáo chiếm khoảng 3–4%, và tín đồ Hồi giáo chiếm khoảng 1%.[326]

Trung Quốc trải qua đô thị hóa đáng kể trong các thập niên vừa qua. Tỷ lệ dân số trong các khu vực đô thị tăng từ 20% vào năm 1990 lên 46% vào năm 2007.[327] và dân số đô thị của Trung Quốc được dự tính đạt một tỷ vào năm 2030.[328] Năm 2012, có trên 262 triệu công nhân di cư tại Trung Quốc.[329] Trung Quốc có trên 160 thành phố có dân số [đô thị] trên một triệu,[330] trong đó có bảy siêu đô thị (dân số hành chính trên 10 triệu) là Trùng Khánh, Thượng Hải, Bắc Kinh, Quảng Châu, Thiên Tân, Thâm Quyến, và Vũ Hán.[331][332][333] Đến năm 2025, ước tính Trung Quốc sẽ có 221 thành phố có trên một triệu dân cư [đô thị].[328]

Giáo dục

Đại học Bắc Kinh được thành lập từ năm 1898 nhằm thay thế Quốc tử giám.

Kể từ năm 1986, giáo dục bắt buộc tại Trung Quốc bao gồm tiểu học và trung học cơ sở, tổng cộng kéo dài trong chín năm.[334] Năm 2010, khoảng 82,5% học sinh tiếp tục học tập tại cấp trung học phổ thông kéo dài trong ba năm.[335] Cao khảo là kỳ thi đầu vào đại học toàn quốc tại Trung Quốc, là điều kiện tiên quyết để nhập học trong hầu hết các cơ sở giáo dục bậc đại học. Năm 2010, 27% học sinh tốt nghiệp trung học tiếp tục theo học giáo dục đại học.[336]

Trong tháng 2 năm 2006, chính phủ cam kết cung cấp giáo dục chín năm hoàn toàn miễn phí, bao gồm sách giáo khoa và các loại phí.[337] Đầu tư cho giáo dục hàng năm nâng từ dưới 50 tỷ USD trong năm 2003 lên trên 250 tỷ USD trong năm 2011.[338] Tuy nhiên, vẫn còn bất bình đẳng trong chi tiêu giáo dục; như trong năm 2010, chi tiêu giáo dục trung bình cho một học sinh trung học cơ sở tại Bắc Kinh là 20.023 NDT, trong khi tại Quý Châu là 3.204 NDT.[339]

Tính đến năm 2010, 94% dân số trên 15 tuổi biết đọc biết viết,[340] so với 20% vào năm 1950.[341]

Y tế

Bộ Y tế cùng sở y tế cấp tỉnh giám sát nhu cầu y tế của dân cư Trung Quốc.[342] Đặc điểm của chính sách y tế Trung Quốc kể từ đầu thập niên 1950 là tập trung vào y học công cộng và y học dự phòng. Đương thời, Đảng Cộng sản bắt đầu Chiến dịch y tế ái quốc nhằm cải thiện vệ sinh môi trường và vệ sinh cá nhân, cũng như điều trị và ngăn ngừa một số bệnh. Các bệnh hoành hành tại Trung Quốc khi trước như tả, thương hàntinh hồng nhiệt gần như bị tiệt trừ trong chiến dịch này. Sau khi Đặng Tiểu Bình bắt đầu thi hành cải cách kinh tế vào năm 1978, tình hình y tế của quần chúng Trung Quốc được cải thiện nhanh chóng do dinh dưỡng tốt hơn, song nhiều dịch vụ y tế công cộng miễn phí tại khu vực nông thôn biến mất cùng với các công xã nhân dân. Chăm sóc y tế tại Trung Quốc bị tư nhân hóa phần lớn, và có sự gia tăng đáng kể về chất lượng. Năm 2009, chính phủ bắt đầu một sáng kiến cung cấp chăm sóc y tế quy mô lớn kéo dài trong 3 năm trị giá 124 tỷ USD.[343] Đến năm 2011, chiến dịch đạt kết quả 95% dân số Trung Quốc có bảo hiểm y tế cơ bản.[344] Năm 2011, Trung Quốc được ước tính là nước cung cấp dược phẩm lớn thứ ba thế giới, song dân cư Trung Quốc phải chịu tổn hại từ việc phát triển và phân phối các dược phẩm giả.[345]

Tuổi thọ dự tính khi sinh tại Trung Quốc là 75 năm,[346] và tỷ suất tử vong trẻ sơ sinh là 11‰ vào năm 2013.[347] Cả hai chỉ số đều được cải thiện đáng kể so với thập niên 1950.[m] Tỷ lệ còi cọc bắt nguồn từ thiếu dinh dưỡng giảm từ 33,1% vào năm 1990 xuống 9,9% vào năm 2010.[350] Mặc dù có các cải thiện đáng kể về y tế và kiến thiết cơ sở y tế tiến bộ, song Trung Quốc có một số vấn đề y tế công cộng mới nổi, như các bệnh về đường hô hấp do ô nhiễm không khí trên quy mô rộng,[351] hàng trăm triệu người hút thuốc lá,[352] và sự gia tăng béo phì trong các dân cư trẻ tại đô thị.[353][354] Dân số lớn và các thành phố đông đúc dẫn đến bùng phát các dịch bệnh nghiêm trọng trong thời gian gần đây, như bùng phát SARS vào năm 2003.[355] Năm 2010, ô nhiễm không khí khiến cho 1,2 triệu người chết sớm tại Trung Quốc.[356]

Truyền thông

Đài Truyền hình Trung ương Trung Quốc (CCTV) là đài truyền hình phát sóng chủ yếu tại Trung Quốc đại lục. Tin tức của Đài được biên tập bởi Bộ Tuyên truyền của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Số lượng các tờ báo ở Trung Quốc đại lục đã tăng từ 42 trong năm 1968 cho đến hơn 2.200 ngày nay. Theo một ước tính chính thức, hiện có hơn 7.000 báo và tạp chí trong nước [357]. Một số tờ báo lớn do Nhà nước kiểm soát là: Nhân dân Nhật báo, Bắc Kinh Nhật báo, và Hoàn Cầu Thời Báo.Cơ quan thông tấn chính ở Trung Quốc là Tân Hoa Xã.

Internet ở Trung Quốc bị kiểm duyệt chặt chẽ với công cụ "Phòng hỏa trường thành" hay "Tường lửa vĩ đại". Facebook bị chặn ở Trung Quốc từ năm 2009 và Google đã bị chặn một năm sau đó.

Văn hóa

Trung Nguyên Đại Phật tại huyện Lỗ Sơn, Hà Nam là tượng cao nhất thế giới hiện nay.

Từ thời cổ đại, văn hóa Trung Quốc đã chịu ảnh hưởng mạnh từ Nho giáo và các triết lý cổ điển. Trong hầu hết các triều đại, có thể đạt được cơ hội thăng tiến xã hội thông qua việc giành thành tích cao trong các kỳ khoa cử vốn bắt đầu từ thời Hán.[358] Chú trọng văn chương trong các kỳ khoa cử tác động đến nhận thức chung về tinh thế văn hóa tại Trung Quốc, như niềm tin rằng thư pháp, thi họa là các loại hình nghệ thuật đứng trên nhạc kịch. Văn hóa Trung Quốc từ lâu đã tập trung vào ý thức lịch sử sâu sắc và phần lớn là hướng nội. Khảo thí và nhân tài vẫn được đánh giá rất cao tại Trung Quốc hiện nay.[359]

Các lãnh đạo đầu tiên của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tìm cách thay đổi một số khía cạnh truyền thống của văn hóa Trung Quốc, như quyền chiếm hữu đất tại nông thôn, phân biệt giới tính, và hệ thống Nho học trong giáo dục, trong khi duy trì những khía cạnh khác, như cấu trúc gia đình và văn hóa phục tùng quốc gia. Một số nhà quan sát nhìn nhận giai đoạn sau năm 1949 như một sự tiếp tục lịch sử triều đại Trung Hoa truyền thống, một số khác thì cho rằng sự thống trị của Đảng Cộng sản gây tổn hại cho nền tảng của văn hóa Trung Hoa, đặc biệt là qua các phương trào chính trị như Cách mạng văn hóa trong thập niên 1960, khi đó nhiều khía cạnh văn hóa truyền thống bị phá hủy do bị nhìn nhận là lạc hậu hay tàn tích của phong kiến. Nhiều khía cạnh quan trọng của đạo đứcvăn hóa Trung Hoa truyền thống, như Khổng giáo, nghệ thuật, văn chương, nghệ thuật trình diễn như Kinh kịch,[360] bị biến đổi để phù hợp với các chính sách và tuyên truyền của chính phủ vào đương thời. Hiện nay, việc tiếp cận với truyền thông ngoại quốc bị hạn chế cao độ; mỗi năm chỉ có 34 phim ngoại quốc được phép trình chiếu trong các rạp chiếu phim tại Trung Quốc.[361]

Ngày nay, Chính phủ Trung Quốc chấp thuận nhiều yếu tố của văn hóa Trung Hoa truyền thống có tính nguyên tắc đối với xã hội Trung Quốc. Cùng với sự gia tăng của chủ nghĩa dân tộc Trung Hoa và kết thúc Cách mạng văn hóa, nhiều hình thức nghệ thuật, văn chương, âm nhạc, điện ảnh, trang phục, và kiến trúc về Trung Hoa truyền thống chứng kiến một sự phục hưng mạnh mẽ,[362][363] Trung Quốc hiện đứng thứ ba thế giới về số du khách ngoại quốc đến tham quan,[364] với 55,7 khách quốc tế trong năm 2010.[365] Ước tính có 740 triệu du khách Trung Quốc lữ hành nội địa trong tháng 10 năm 2012.[366]

Ẩm thực Trung Quốc rất đa dạng, có nền tảng là lịch sử ẩm thực kéo dài hàng thiên niên kỷ. Các quân chủ Trung Hoa cổ đại được biết là có nhiều phòng ăn trong cung, mỗi phòng lại chia thành vài gian, mỗi gian phục vụ một loại món ăn đặc trưng.[367] Lúa gạo là cây lương thực phổ biến nhất, được trồng tại phía nam Hoài Hà; lúa mì là loại cây trồng phổ biến thứ nhì và tập trung tại đồng bằng miền bắc. Thịt lợn là loại thịt phổ biến nhất tại Trung Quốc, chiếm khoảng ba phần tư tổng lượng tiêu thụ thịt toàn quốc.[368] Gia vị là trọng tâm trong ẩm thực Trung Hoa.

Quang cảnh đường chân trời của Tử Cấm Thành, nhìn từ Cảnh Sơn.

Văn học

Văn học Trung Quốc nở rộ kể từ triều đại nhà Chu. Văn học ở đây có thể hiểu rộng là tất cả những văn bản cổ điển của Trung Quốc trình bày một loạt các tư tưởng và bao trùm mọi lĩnh vực chứ không chỉ là những tác phẩm nghệ thuật.[369] Một trong số những văn bản lâu đời nhất và có tầm ảnh hưởng lớn nhất bao gồm Kinh DịchKinh Thư nằm trong bộ Tứ ThưNgũ Kinh được coi là nền tảng của Nho giáo [370]. Thơ Trung Quốc đạt đến đỉnh cao trong thời đại nhà Đường, với những nhà thơ kiệt xuất như Lý BạchĐỗ Phủ [371]. Sử học Trung Quốc có đại diện tiêu biểu là Tư Mã Thiên với cuốn Sử ký. Tiểu thuyết là một thể loại văn học phát triển từ thời nhà Minh, nổi tiếng nhất là 4 tác phẩm được coi như Tứ đại danh tác bao gồm Tam quốc diễn nghĩa, Tây du ký, Thủy hửHồng lâu mộng[372]. Một số cái tên lớn của nền văn học Trung Quốc hiện đại có thể kể đến như Lỗ Tấn, Hồ Thích hay Mạc Ngôn [373][374].

Triết học, tư tưởng

Thời Xuân Thu – Chiến Quốc, ở Trung Quốc đã xuất hiện rất nhiều những nhà tư tưởng đưa ra những lý thuyết để tổ chức xã hội và giải thích các vấn đề của cuộc sống. Bách Gia Chư Tử chứng kiến sự mở rộng to lớn về văn hóa và trí thức ở Trung Quốc kéo dài từ 770 đến 222 TCN, được gọi là thời đại hoàng kim của tư tưởng Trung Quốc khi nó chứng kiến sự nảy nở của nhiều trường phái tư tưởng khác nhau như Khổng giáo, Đạo giáo, Pháp gia, Mặc gia, Âm dương gia (với các thuyêt âm dương, ngũ hành, bát quái). Giữa các trào lưu này có sự tranh luận cũng như học hỏi, giao thoa với nhau. Sau này, vào thời nhà Đường, Phật giáo được du nhập từ Ấn Độ cũng trở thành một trào lưu tôn giáo và triết học tại Trung Hoa. Phật giáo phát triển tại đây pha trộn với Nho giáo và Đạo giáo tạo ra các trường phái, các tư tưởng mới khác với Phật giáo nguyên thủy. Giống với triết học Tây phương, triết học Trung Hoa có nhiều tư tưởng phức tạp và đa dạng với nhiều trường phái và đều đề cập đến mọi lĩnh vựcchuyên ngành của triết học. Triết học đạo đức, triết học chính trị, triết học xã hội, triết học giáo dục, logicsiêu hình học đều được tìm thấy trong triết học Trung Quốc với những quan điểm sâu sắc, độc đáo khác với các nền triết học khác.

Triết học Trung Quốc, đặc biệt là Nho giáo, trở thành nền tảng tư tưởng của xã hội Trung Quốc. Trên nền tảng đó người Trung Quốc xây dựng các thể chế nhà nước và toàn bộ cấu trúc xã hội của họ. Chính nhờ nền tảng vững chắc đó mà dù trải qua rất nhiều biến động lịch sử (nhiều lần bị nạn chiến tranh khiến lãnh thổ chia cắt thành các quốc gia nhỏ, từng bị các dân tộc kém văn minh hơn cai trị, bị phương Tây xâu xé lãnh thổ) nhưng nền văn minh Trung Quốc vẫn trường tồn, trở thành nền văn minh cổ xưa duy nhất còn tồn tại cho đến ngày nay. Các nền văn minh khác như Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ, La Mã, Ba Tư, Maya... đều lần lượt sụp đổ sau khoảng vài trăm năm, lâu nhất là văn minh Ai Cập kéo dài được 3.000 năm (diệt vong vào khoảng năm 50 trước CN), trong khi văn minh Trung Hoa đã kéo dài trên 4.500 năm và vẫn tồn tại cho tới nay, và còn gây ảnh hưởng lớn tới các quốc gia lân cận.

Nghệ thuật quân sự trong giai đoạn Xuân Thu – Chiến Quốc cũng xuất hiện hai nhà tư tưởng lớn là Tôn TửTôn Tẫn với những quyển binh pháp quân sự nổi tiếng.

Ở thời hiện đại, Chủ nghĩa Mao do Mao Trạch Đông sáng tạo nên được coi là một nhánh của chủ nghĩa cộng sản với sự kết hợp giữa chủ nghĩa Marx, chủ nghĩa Stalin được biến đổi theo những điều kiện kinh tế - xã hội của Trung Quốc. Mao Trạch Đông là người có ác cảm với nhiều truyền thống văn hóa, tư tưởng của Trung Quốc. Ông muốn hủy bỏ nền văn hóa truyền thống để mau chóng hiện đại hóa quốc gia bằng cách làm cuộc Cách mạng văn hóa phá hủy một cách có hệ thống các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể cổ truyền của Trung Quốc. Tuy nhiên cuộc cách mạng này đã thất bại khi nó không thể xây dựng được những giá trị văn hóa mới mà chỉ phá hủy văn hóa cũ và bị các cá nhân, phe phái trong Đảng Cộng sản Trung Quốc lợi dụng để triệt hạ nhau. Sau thời kỳ Cách mạng văn hóa, các yếu tố văn hóa truyền thống bắt đầu được khôi phục, và hiện nay được coi là một nhân tố quan trọng để thúc đẩy sự phát triển của đất nước.

Hội họa, điêu khắc, kiến trúc

Quần thể lăng mộ Tần Thủy Hoàng.

Hội họa Trung Quốc có lịch sử 5000–6000 năm với các loại hình: bạch hoạ, bản hoạ, bích hoạ. Đặc biệt là nghệ thuật vẽ tranh thuỷ mạc, có ảnh hưởng nhiều tới các nước ở Châu Á. Cuốn Lục pháp luận của Tạ Hách đã tổng kết những kinh nghiệm hội họa từ đời Hán đến đời Tùy. Tranh phong cảnh được coi là đặc trưng của nền hội họa Trung Quốc, mà đã phát triển đỉnh cao từ thời kì Ngũ Đại đến thời Bắc Tống (907–1127)[375]. Điêu khắc Trung Quốc được phân thành các ngành riêng như: Ngọc điêu, thạch điêu, mộc điêu. Những tác phẩm nổi tiếng như cặp tượng Tần ngẫu đời Tần, tượng Lạc sơn đại Phật đời Tây Hán (pho tượng cao nhất thế giới), tượng Phật nghìn mắt nghìn tay. Không giống như phong cách kiến trúc Phương Tây, kiến trúc Trung Hoa chú trọng đến chiều rộng hơn là chiều cao của công trình. Phong thủy đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình xây dựng.

Một số công trình kiến trúc nổi tiếng thế giới có thể kể đến như: Vạn Lý Trường Thành (dài 6700 km), Thành Trường An, Cố cung, Tử cấm thànhBắc Kinh, Lăng mộ Tần Thủy Hoàng...

Thể thao

Sân vận động Tổ Chim, nơi diễn ra lễ khai mạc và bế mạc của Olympic Bắc Kinh 2008.

Trung Quốc sở hữu một trong những văn hóa thể thao lâu đời nhất trên thế giới. Có bằng chứng biểu thị rằng bắn cung (xạ tiễn) được thực hành từ thời Tây Chu. Đấu kiếm (kiếm thuật) và một dạng bóng đá (xúc cúc)[376] cũng truy nguyên từ các triều đại ban đầu của Trung Quốc.[377] Ngày nay, một số môn thể thao phổ biến nhất tại Trung Quốc gồm võ thuật, bóng rổ, bóng đá, bóng bàn, cầu lông, thể thao dưới nước và snooker. Các trò chơi trên bàn như cờ vây, cờ tướng, và gây đây hơn là cờ vua cũng được chơi ở cấp độ chuyên nghiệp.[378]

Rèn luyện thể chất được chú trọng cao trong văn hóa Trung Hoa, các bài tập buổi sáng như khí côngthái cực quyền được thực hành rộng rãi,[379] và phòng tập thể dục và câu lạc bộ sức khỏe thương mại trở nên phổ biến trên toàn quốc.[380] Những thanh niên Trung Quốc cũng thích bóng đábóng rổ, đặc biệt là trong các trung tâm đô thị có không gian hạn chế. Bóng rổ hiện đang là môn thể thao phổ biến nhất Trung Quốc [381], quốc gia này cũng sản sinh ra nhiều cầu thủ tầm cỡ thế giới như Yao Ming hay Yi Jianlian. Đội tuyển bóng đá quốc gia Trung Quốc từng tham dự Giải vô địch bóng đá thế giới 2002. Trung Quốc giữ thế thống trị trong các môn thể thao như bóng bàn (với Mã Long là vận động viên bóng bàn số 1 thế giới), cầu lông (với những tay vợt hàng đầu như Lin Đan hay Chen Long), và kung fu. Ngoài ra, Trung Quốc còn là nơi có số người đi xe đạp lớn nhất, với 470 triệu xe đạp trong năm 2012.[294] Nhiều môn thể thao truyền thống khác như đua thuyền rồng, vật kiểu Mông Cổ, và đua ngựa cũng phổ biến.[382]

Trung Quốc tham dự Thế vận hội lần đầu tiên vào năm 1932, và với quốc hiệu hiện hành từ năm 1952. Trung Quốc đăng cai Thế vận hội Mùa hè 2008 tại Bắc Kinh, và giành được số huy chương vàng nhiều nhất trong số các quốc gia tham dự.[383]. Trung Quốc cũng là nơi sẽ tổ chức Thế vận hội Mùa đông 2022.[384]

Chú thích

  1. ^ La mã hóa là "Bắc Bình" trước khi thông qua Bính âm Hán ngữ.
  2. ^ Các dân tộc thiểu số được công nhận chính thức.
  3. ^ Đặc khu hành chính Hồng Kông và Ma Cao, Chữ Hán phồn thể được sử dụng
  4. ^ Tập Cận Bình giữ bốn vị trí đồng thời: Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc (de facto Nhà lãnh đạo quốc gia tối cao (Trung Quốc)), Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (de jure Nguyên thủ quốc gia), và Chủ tịch Ủy ban Quân sự Trung ương (Trung Quốc) (Tổng tư lệnh) cho cả nhà nước và đảng.[5]
  5. ^ Theo quan chức Danh sách Lãnh đạo Đảng và Nhà nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, lệnh của Wang sẽ kém hơn các thành viên của Ủy ban Thường vụ Bộ Chính trị CPC vì ông không được bổ nhiệm vào Ủy ban Trung ương 19.
  6. ^ Khu vực được đưa ra là con số chính thức của Liên Hợp Quốc cho đất liền và không bao gồm Hồng Kông, Ma CaoĐài Loan.[12] It also excludes the Trans-Karakoram Tract (5.800 km2 hay 2.200 dặm vuông Anh), Aksai Chin (37.244 km2 hay 14.380 dặm vuông Anh) and other territories in dispute with India. The total area of China is listed as 9.572.900 km2 (3.696.100 dặm vuông Anh) by the Encyclopædia Britannica.[13] For further information, see Territorial changes of the People's Republic of China.
  7. ^ Đô la Hồng Kông được sử dụng ở Hồng KôngMa Cao trong khi Pataca Ma Cao chỉ được sử dụng ở Ma Cao
  8. ^ Xe cơ giới và metro lái xe bên phải ở Trung Quốc đại lục. Hồng KôngMa Cao sử dụng giao thông bên trái trừ một số phần của tuyến tàu điện ngầm. Phần lớn các chuyến tàu của đất nước lái xe bên trái.
  9. ^ Xếp hạng tổng diện tích so với Hoa Kỳ dựa vào phương pháp đo lường tổng diện tích của hai quốc gia.
  10. ^ Theo Encyclopædia Britannica, tổng diện tích của Hoa Kỳ là 9.522.055 km2 (3.676.486 dặm vuông Anh), nhỏ hơn một chút so với Trung Quốc. Trong khi đó, CIA World Factbook thì ghi rằng tổng diện tích của Trung Quốc lớn hơn tổng diện tích của Hoa Kỳ cho đến khi vùng nước ven bờ của Ngũ Đại Hồ được tính vào tổng diện tích của Hoa Kỳ vào năm 1996. Từ năm 1989 đến năm 1996, tổng diện tích của Hoa Kỳ là 9.372.610 km2 (3.618.780 dặm vuông Anh). Tổng diện tích được ghi là 9.629.091 km2 (3.717.813 dặm vuông Anh) vào năm 1997 (gồm các khu vực Ngũ Đại Hồ và vùng biển ven bờ), đến 9.631.418 km2 (3.718.711 dặm vuông Anh) vào năm 2004, đến 9.631.420 km2 (3.718.710 dặm vuông Anh) vào năm 2006, và đến 9.826.630 km2 (3.794.080 dặm vuông Anh) vào năm 2007 (tính cả lãnh hải).
  11. ^ Biên giới của Trung Quốc với Pakistan và bộ phận biên giới của quốc gia này với Ấn Độ nằm trong khu vực tranh chấp Kashmir. Khu vực nằm dưới quyền quản lý của Pakistan bị Ấn Độ tuyên bố chủ quyền, trong khi Pakistan tuyên bố chủ quyền đối với khu vực do Ấn Độ kiểm soát.
  12. ^ Lý Chính Đạo,[223] Dương Chấn Ninh,[224] Thôi Kì,[225] Cao Côn,[226] Lý Viễn Triết,[227]
  13. ^ Tuổi thọ dự tính khi sinh tăng từ khoảng 31 năm trong năm 1949 lên 75 năm trong năm 2008,[348] và tỷ suất tử vong trẻ sơ sinh giảm từ 300‰ trong thập niên 1950 xuống khoảng 33‰ vào năm 2001.[349]

Tham khảo

  1. ^ “Tabulation of the 2010 Census of the People's Republic of China”. China Statistics Press.
  2. ^ Chan, Kam Wing (2007). “Misconceptions and Complexities in the Study of China's Cities: Definitions, Statistics, and Implications” (PDF). Eurasian Geography and Economics. 48 (4): 383–412. doi:10.2747/1538-7216.48.4.383. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 15 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2011. p. 395
  3. ^ General Information of the People's Republic of China (PRC): Languages, chinatoday.com, truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2008
  4. ^ “Constitution of the People's Republic of China”. The National People's Congress of the People's Republic of China. 15 tháng 11 năm 2007. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2015.
  5. ^ "Người đàn ông mới nắm quyền: Tập Cận Bình được bầu để lãnh đạo Trung Quốc". RT.com. 15 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2013.
  6. ^ THE CHINESE PEOPLE HAVE STOOD UP!, Mao Zedong, September 21, 1949
  7. ^ Peaslee, Amos J. (1956), “Data Regarding the 'People's Republic of China'”, Constitutions of Nations, Vol. I, 2nd ed., Dordrecht: Springer, tr. 533, ISBN 978-94-017-7125-2
  8. ^ Chaurasia, Radhey Shyam (2004), “Introduction”, History of Modern China, New Delhi: Atlantic, tr. 1, ISBN 9788126903153
  9. ^ "World Population prospects – Population division". population.un.org. Ban Kinh tế và Xã hội Liên Hợp Quốc, Population Division. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2019.
  10. ^ "Overall total population" – World Population Prospects: The 2019 Revision” (xslx). population.un.org (custom data acquired via website). Ban Kinh tế và Xã hội Liên Hợp Quốc, Population Division. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2019.
  11. ^ a b c d National Bureau of Statistics of China, Census data, 2010
  12. ^ a b “Demographic Yearbook—Table 3: Population by sex, rate of population increase, surface area and density” (PDF). UN Statistics. 2007. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 24 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2010. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  13. ^ “China”. Encyclopædia Britannica. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2012.
  14. ^ “Population density (người trên mỗi km vuông diện tích đất)”. IMF. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2015.
  15. ^ a b c d “IMF Data Mapper”. IMF. tháng 4 năm 2018.
  16. ^ “China's Economy Realized a Moderate but Stable and Sound Growth in 2015”. National Bureau of Statistics of China. 19 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2016. Taking the per capita disposable income of nationwide households by income quintiles, that of the low-income group reached 5,221 yuan, the lower-middle-income group 11,894 yuan, the middle-income group 19,320 yuan, the upper-middle-income group 29,438 yuan, and the high-income group 54,544 yuan. The Gini Coefficient for national income in 2015 was 0.462.
  17. ^ “Human Development Indices and Indicators: 2018 Statistical update” (PDF). United Nations Development Programme. 15 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 15 tháng 9 năm 2018.
  18. ^ Walton, Greg (2001). “Executive Summary”. China's golden shield: Corporations and the development of surveillance technology in the People's Republic of China. Rights & Democracy. tr. 5. ISBN 978-2-922084-42-9. Đã bỏ qua tham số không rõ |coauthors= (gợi ý |author=) (trợ giúp)
  19. ^ “Chinese Civil War”. Cultural China. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2013. Tới nay, do không có lệnh ngừng bắn hay hòa ước nào được ký kết, vẫn có tranh cãi xung quanh vấn đề liệu cuộc Nội chiến Trung Quốc đã thực sự kết thúc.
  20. ^ “Countries of the world ordered by land area”. List of Countries. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2010.
  21. ^ The Oldest Living Civilization, American Historical Association
  22. ^ 5,000-year-long Chinese civilization verified, Global Times, 2018/5/29
  23. ^ Dahlman, Carl J; Aubert, Jean-Eric. “China and the Knowledge Economy: Seizing the 21st Century. WBI Development Studies”. Học viện Khoa học giáo dục. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2014.
  24. ^ “World Economic Outlook Database”. Quỹ Tiền tệ Quốc tế. Truy cập 1 tháng 1 năm 2016.
  25. ^ Muldavin, Joshua (ngày 9 tháng 2 năm 2006). “From Rural Transformation to Global Integration: The Environmental and Social Impacts of China's Rise to Superpower”. Carnegie Endowment for International Peace. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2010.
  26. ^ a b “A Point Of View: What kind of superpower could China be?”. BBC. ngày 19 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2012.
  27. ^ CIA: Trung Quốc muốn thay Mỹ làm siêu cường số 1 thế giới, VOV, 22/07/2018
  28. ^ Nhìn lại 2017: Tham vọng siêu cường của Trung Quốc tại Đại hội Đảng XIX, Báo Thanh niên, 31/12/2017
  29. ^ a b c “汉语"中国"一词由来考” (bằng tiếng Trung). 中国互联网新闻中心. Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2014.
  30. ^ "Early Homo erectus Tools in China". Viện Khảo cổ học Hoa Kỳ. 2000. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2012.
  31. ^ Shen, G; Gao, X; Gao, B; Granger, De (tháng 3 năm 2009). “Age of Zhoukoudian Homo erectus determined with (26)Al/(10)Be burial dating”. Nature. 458 (7235): 198–200. Bibcode:2009Natur.458..198S. doi:10.1038/nature07741. ISSN 0028-0836. PMID 19279636.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  32. ^ “The Peking Man World Heritage Site at Zhoukoudian”. UNESCO. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2013.
  33. ^ “Peking Man Site at Zhoukoudian”. UNESCO. Truy cập ngày 4 tháng 10 năm 2012.
  34. ^ “China axes 'show ancient writing'. BBC. ngày 11 tháng 7 năm 2013. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2013.
  35. ^ Tanner, Harold M. (2009). China: A History. Hackett Publishing. tr. 35–36. ISBN 0872209156.
  36. ^ "Bronze Age China". Trung tâm Triển lãm nghệ thuật quốc gia Hoa Kỳ. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2013.
  37. ^ China: Five Thousand Years of History and Civilization. City University of HK Press. 2007. tr. 25. ISBN 9789629371401.
  38. ^ Pletcher, Kenneth (2011). The History of China. Britannica Educational Publishing. tr. 35. ISBN 9781615301812.
  39. ^ Fowler, Jeaneane D.; Fowler, Merv (2008). Chinese Religions: Beliefs and Practices. Sussex Academic Press. tr. 17. ISBN 9781845191726.
  40. ^ Hollister, Pam (1996). “Zhengzhou”. Trong Schellinger, Paul E.; Salkin, Robert M. (biên tập). International Dictionary of Historic Places: Asia and Oceania. Fitzroy Dearborn Publishers. tr. 904. ISBN 9781884964046.
  41. ^ Allan, Keith (2013). The Oxford Handbook of the History of Linguistics. Oxford University Press. tr. 4. ISBN 9780199585847.
  42. ^ a b Bodde, Derk. (1986). "The State and Empire of Ch'in", in The Cambridge History of China: Volume I: the Ch'in and Han Empires, 221 B.C. – A.D. 220. Edited by Denis C. Twitchett and Michael Loewe. Cambridge: Cambridge University Press. ISBN 0-521-24327-0.
  43. ^ a b Lewis, Mark Edward (2007). The Early Chinese Empires: Qin and Han. Luân Đôn: Belknap Press. ISBN 978-0-674-02477-9.
  44. ^ “Dahlman, Carl J; Aubert, Jean-Eric. China and the Knowledge Economy: Seizing the 21st century. World Bank Publications via Eric.ed.gov. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2012.
  45. ^ Goucher, Candice; Walton, Linda (2013). World History: Journeys from Past to Present – Volume 1: From Human Origins to 1500 CE. Routledge. tr. 108. ISBN 9781135088224.
  46. ^ Whiting, Marvin C. (2002). Imperial Chinese Military History. iUniverse. p. 214
  47. ^ Ki-Baik Lee (1984). A new history of Korea. Harvard University Press. ISBN 978-0-674-61576-2. p.47.
  48. ^ David Andrew Graff (2002). Medieval Chinese warfare, 300–900. Routledge. ISBN 0-415-23955-9. p.13.
  49. ^ Adshead, S. A. M. (2004). T'ang China: The Rise of the East in World History. New York: Palgrave Macmillan. p. 54
  50. ^ City University of HK Press (2007). China: Five Thousand Years of History and Civilization. ISBN 962-937-140-5. p.71
  51. ^ Paludan, Ann (1998). Chronicle of the Chinese Emperors. Luân Đôn: Thames & Hudson. ISBN 0-500-05090-2. p. 136.
  52. ^ “Northern Song Dynasty (960–1127)”. Metropolitan Museum of Art. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2013.
  53. ^ Essentials of Neo-Confucianism: Eight Major Philosophers of the Song and Ming Periods. Greenwood Publishing Group. 1999. tr. 3. ISBN 9780313264498.
  54. ^ Ping-ti Ho. "An Estimate of the Total Population of Sung-Chin China", in Études Song, Series 1, No 1, (1970). pp. 33–53.
  55. ^ Rice, Xan (ngày 25 tháng 7 năm 2010). “Chinese archaeologists' African quest for sunken ship of Ming admiral”. The Guardian. Luân Đôn.
  56. ^ “Wang Yangming (1472—1529)”. Internet Encyclopedia of Philosophy. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2013.
  57. ^ Ainslie Thomas Embree, Carol Gluck (1997). Asia in Western and World History: A Guide for Teaching. M.E. Sharpe. p.597. ISBN 1-56324-265-6.
  58. ^ “Sino-Japanese War (1894–95)”. Encyclopædia Britannica. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2012.
  59. ^ a b Chinese Studies in the History and Philosophy of Science and Technology. 179. Kluwer Academic Publishers. 1996. tr. 137–138.
  60. ^ China's Economy: A Collection of Surveys - Iris Claus, ‎Les Oxley - 2015 - page 9
  61. ^ Eileen Tamura (1997). China: Understanding Its Past. Volume 1. University of Hawaii Press. ISBN 0-8248-1923-3. p.146.
  62. ^ Stephen Haw, (2006). Beijing: A Concise History. Taylor & Francis, ISBN 0-415-39906-8. p.143.
  63. ^ Bruce Elleman (2001). Modern Chinese Warfare. Routledge. ISBN 0-415-21474-2. p.149.
  64. ^ Graham Hutchings (2003). Modern China: A Guide to a Century of Change. Harvard University Press. ISBN 0-674-01240-2. p.459.
  65. ^ Peter Zarrow (2005). China in War and Revolution, 1895–1949. Routledge. ISBN 0-415-36447-7. p.230.
  66. ^ M. Leutner (2002). The Chinese Revolution in the 1920s: Between Triumph and Disaster. Routledge. ISBN 0-7007-1690-4. p.129.
  67. ^ Hung-Mao Tien (1972). Government and Politics in Kuomintang China, 1927–1937 (Volume 53). Stanford University Press. ISBN 0-8047-0812-6. pp. 60–72.
  68. ^ Suisheng Zhao (2000). China and Democracy: Reconsidering the Prospects for a Democratic China. Routledge. ISBN 0-415-92694-7. p.43.
  69. ^ David Ernest Apter, Tony Saich (1994). Revolutionary Discourse in Mao's Republic. Harvard University Press. ISBN 0-674-76780-2. p.198.
  70. ^ Tien, Hung-mao (1991). “Constitutional Reform and the Future of the Republic of China”. Trong Feldman, Harvey (biên tập). Constitutional Reform and the Future of the Republic of China. M.E. Sharpe. tr. 3. ISBN 9780873328807.
  71. ^ The Chinese people have stood up[liên kết hỏng]. UCLA Center for East Asian Studies. Truy cập 16 tháng 4 năm 2006.
  72. ^ “Red Capture of Hainan Island”. The Tuscaloosa News. Google News Archive. ngày 9 tháng 5 năm 1950. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2013.
  73. ^ “The Tibetans” (PDF). University of Southern California. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2013.
  74. ^ John W. Garver (1997). The Sino-American alliance: Nationalist China and American Cold War strategy in Asia. M.E. Sharpe. tr. 169. ISBN 0-7656-0025-0. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2013.
  75. ^ Busky, Donald F. (2002). Communism in History and Theory. Greenwood Publishing Group. p.11.
  76. ^ Nông dân Trung Quốc sau cải cách ruộng đất , Cứu Quốc, Số 2525, 2 Tháng Hai 1954
  77. ^ Madelyn Holmes (2008). Students and teachers of the new China: thirteen interviews. McFarland. tr. 185. ISBN 0-7864-3288-8. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2011.
  78. ^ Akbar, Arifa (ngày 17 tháng 9 năm 2010). “Mao's Great Leap Forward 'killed 45 million in four years'. The Independent. Luân Đôn. Truy cập ngày 30 tháng 10 năm 2010.
  79. ^ Michael Y.M. Kao. "Taiwan's and Beijing's Campaigns for Unification" in Harvey Feldman and Michael Y.M. Kao (eds., 1988): Taiwan in a Time of Transition. New York: Paragon House. p.188.
  80. ^ Hart-Landsberg, Martin; and Burkett, Paul. "China and Socialism: Market Reforms and Class Struggle". Monthly Review. Truy cập ngày 30 tháng 10 năm 2008.
  81. ^ “The Impact of Tiananmen on China's Foreign Policy”. The National Bureau of Asian Research. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2013.
  82. ^ Nation bucks trend of global poverty. China Daily. 11 tháng 7 năm 2003. Truy cập ngày 10 tháng 7 năm 2013.
  83. ^ China's Average Economic Growth in 90s Ranked 1st in World. People's Daily. 1 tháng 3 năm 2000. Truy cập 10 tháng 7 năm 2013.
  84. ^ “China's Environmental Crisis”. New York Times. ngày 26 tháng 8 năm 2007. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2012.
  85. ^ China worried over pace of growth. BBC. Truy cập 16 tháng 4 năm 2006.
  86. ^ China: Migrants, Students, Taiwan. Migration News. January 2006.
  87. ^ In Face of Rural Unrest, China Rolls Out Reforms. Washington Post. 28 tháng 1 năm 2006.
  88. ^ Frontline: The Tank Man transcript”. Frontline. PBS. ngày 11 tháng 4 năm 2006. Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2008.
  89. ^ Tình cảnh người Hoa ở Đông Nam Á - VnExpress
  90. ^ a b Moore, Malcolm (ngày 15 tháng 11 năm 2012). “Xi Jinping crowned new leader of China Communist Party”. The Daily Telegraph. Luân Đôn. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2012.
  91. ^ "Xi Jinping and the Chinese Dream," The Economist ngày 4 tháng 5 năm 2013, p 11 (editorial)
  92. ^ Yang Yi, "Youth urged to contribute to realization of 'Chinese dream'", Xinhuanet English.news.cn 2013-05-04
  93. ^ Shi, Yuzhi (ngày 20 tháng 5 năm 2013). “中国梦区别于美国梦的七大特征” [Seven reasons why the Chinese Dream is different from the American Dream]. Qiushi (bằng tiếng Trung). Central Party School/Central Committee of the Communist Party of China. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2013.
  94. ^ Amitendu, Palit (2012). China-India Economics: Challenges, Competition and Collaboration. Routledge. tr. 4. ISBN 9781136621628.
  95. ^ "Land area" GOV.cn, Chinese Government's Official Web Portal”. English.gov.cn. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2011.
  96. ^ “United States”. Encyclopædia Britannica. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2008.
  97. ^ a b “CIA – The World Factbook”. Cia.gov. Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2013.
  98. ^ “Which country borders the most other countries?”. About.com. Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2013.
  99. ^ “Nepal and China agree on Mount Everest's height”. BBC News. ngày 8 tháng 4 năm 2010.
  100. ^ “Lowest Places on Earth”. National Park Service. Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2013.
  101. ^ Regional Climate Studies of China. Springer. 2008. tr. 1. ISBN 9783540792420.
  102. ^ Waghorn, Terry (ngày 7 tháng 3 năm 2011). “Fighting Desertification”. Forbes.
  103. ^ "Beijing hit by eighth sandstorm". BBC news. Truy cập 17 tháng 4 năm 2006.
  104. ^ “Biodiversity Theme Report”. Environment.gov.au. ngày 10 tháng 12 năm 2009. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2010.
  105. ^ Countries with the Highest Biological Diversity. Mongabay.com. dữ liệu 2004. Truy cập 24 tháng 4 năm 2013.
  106. ^ “List of Parties”. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2012.
  107. ^ IUCN Initiatives – Mammals – Analysis of Data – Geographic Patterns 2012. IUCN. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2013. Dữ liệu không bao gồm các loài tại Đài Loan.
  108. ^ Countries with the most bird species. Mongabay.com. dữ liệu 2004. Truy cập 24 tháng 4 năm 2013.
  109. ^ Countries with the most reptile species. Mongabay.com. dữ liệu 2004. Truy cập 24 tháng 4 năm 2013.
  110. ^ IUCN Initiatives – Amphibians – Analysis of Data – Geographic Patterns 2012. IUCN. Truy cập 24 tháng 4 năm 2013. (Không bao gồm Đài Loan).
  111. ^ Top 20 countries with most endangered species IUCN Red List. 5 tháng 3 năm 2010. Truy cập 24 tháng 4 năm 2013.
  112. ^ “Nature Reserves”. China.org.cn. Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2013.
  113. ^ Countries with the most vascular plant species. Mongabay.com. 2004 data. Truy cập 24 tháng 4 năm 2013.
  114. ^ a b c China (ấn bản 3). Rough Guides. 2003. tr. 1213. ISBN 9781843530190.
  115. ^ Conservation Biology: Voices from the Tropics. John Wiley & Sons. 2013. tr. 208. ISBN 9781118679814.
  116. ^ Liu, Ji-Kai (2007). “Secondary metabolites from higher fungi in China and their biological activity”. Drug Discoveries & Therapeutics. 1 (2): 94.
  117. ^ Unger, Jonathan; Chan, Anita (tháng 1 năm 1995). “China, Corporatism, and the East Asian Model”. The Australian Journal of Chinese Affairs (33): 29–53. doi:10.2307/2950087.
  118. ^ “Freedom in the World 2011: China”. Freedom House. 2011. Truy cập ngày 19 tháng 6 năm 2013.
  119. ^ “Xi reiterates adherence to socialism with Chinese characteristics”. Xinhua. ngày 5 tháng 1 năm 2013.
  120. ^ “Constitution of the People's Republic of China”. People's Daily. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2009.
  121. ^ “CFR.org”. CFR.org. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2010.
  122. ^ “Democratic Parties”. People's Daily. Truy cập ngày 8 tháng 12 năm 2013.
  123. ^ “China's Next Leaders: A Guide to What's at Stake”. China File. ngày 13 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2012.[liên kết hỏng]
  124. ^ Gwillim Law (ngày 2 tháng 4 năm 2005). Provinces of China. Truy cập 15 tháng 4 năm 2006.
  125. ^ [www.xinhuanet.com/politics/2018-08/21/c_1123302442.htm “王毅谈中萨建立外交关系”] Kiểm tra giá trị |url= (trợ giúp). Tân Hoa xã. Truy cập 21 tháng 8 năm 2018.
  126. ^ “邦交國”. Bộ Ngoại giao Đài Loan. Truy cập 21 tháng 8 năm 2018.
  127. ^ Chang, Eddy (ngày 22 tháng 8 năm 2004). Perseverance will pay off at the UN, The Taipei Times.
  128. ^ “China says communication with other developing countries at Copenhagen summit transparent”. People's Daily. ngày 21 tháng 12 năm 2009. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2010.
  129. ^ "BRICS summit ends in China". BBC. 14 tháng 4 năm 2011. Truy cập 24 tháng 10 năm 2011.
  130. ^ “Taiwan's Ma to stopover in US: report”. Agence France-Presse. ngày 11 tháng 1 năm 2010.[liên kết hỏng]
  131. ^ Macartney, Jane (ngày 1 tháng 2 năm 2010). “China says US arms sales to Taiwan could threaten wider relations”. The Times. Luân Đôn.
  132. ^ Moore, Malcolm (ngày 8 tháng 1 năm 2010). “China cancels UK human rights summit after Akmal Shaikh execution”. The Daily Telegraph. Luân Đôn.
  133. ^ Keith, Ronald C. China from the inside out – fitting the People's republic into the world. PlutoPress. tr. 135–136.
  134. ^ “China, Russia launch largest ever joint military exercise”. Deutsche Welle. ngày 5 tháng 7 năm 2013. Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2013.
  135. ^ “Energy to dominate Russia President Putin's China visit”. BBC. ngày 5 tháng 6 năm 2012.
  136. ^ Gladstone, Rick (ngày 19 tháng 7 năm 2012). “Friction at the U.N. as Russia and China Veto Another Resolution on Syria Sanctions”. New York Times. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2012.
  137. ^ “Xi Jinping: Russia-China ties 'guarantee world peace'. BBC. ngày 23 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2013.
  138. ^ "China denies preparing war over South China Sea shoal". BBC. ngày 12 tháng 5 năm 2012.
  139. ^ “Q&A: China-Japan islands row”. BBC News. ngày 27 tháng 11 năm 2013.
  140. ^ “40 năm Trung Quốc xâm chiếm Hoàng Sa, bài học lịch sử”. Vietnamnet. Truy cập 26 tháng 9 năm 2014.
  141. ^ Watts, Jonathan (ngày 18 tháng 6 năm 2012). “China: witnessing the birth of a superpower”. The Guardian. Luân Đôn. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2013.
  142. ^ Grinin, Leonid. "Chinese Joker in the World Pack". Journal of Globalization Studies. Volume 2, Number 2. November 2011. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2012.
  143. ^ “The new generals in charge of China's guns”. BBC. ngày 14 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2012.
  144. ^ “China 'reveals military structure'. BBC. ngày 16 tháng 4 năm 2013. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2013.
  145. ^ Annual Report To Congress – Military Power of the People's Republic of China 2009 (PDF). Defenselink.mil. Truy cập 27 tháng 11 năm 2011.
  146. ^ “Huấn luyện kém: Quân đội Trung Quốc thừa nhận 40 điểm yếu”. Kienthuc.net.vn. Truy cập 8 tháng 2 năm 2015.
  147. ^ Tướng to bậc nhất quân đội Trung Quốc và biệt phủ "như hoàng cung", Tin tức 24h, ngày 15 tháng 07 năm 2017
  148. ^ “Sức mạnh quân đội Trung Quốc bị xói mòn vì... tham nhũng”. Thanh Niên Online. Truy cập 8 tháng 2 năm 2015.
  149. ^ “Các bà đỡ' của CNQP Trung Quốc (kỳ 1)”. Báo Đất Việt. 19 tháng 9 năm 2012. Truy cập 31 tháng 10 năm 2014.
  150. ^ 'Các bà đỡ' của CNQP Trung Quốc (kỳ 2)”. Báo Đất Việt. 30 tháng 9 năm 2012. Truy cập 31 tháng 10 năm 2014.
  151. ^ “Ukraine ồ ạt bán công nghệ quân sự cho Trung Quốc”. Báo Đất Việt. 14 tháng 6 năm 2011. Truy cập 31 tháng 10 năm 2014.
  152. ^ “Các 'bà đỡ' của CNQP Trung Quốc (kỳ 4)”. Báo Đất Việt. Truy cập 8 tháng 2 năm 2015.
  153. ^ “Công nghiệp quốc phòng Trung Quốc: Khuôn mặt kẻ bội bạc”. Infonet. 20 tháng 11 năm 2013. Truy cập 30 tháng 10 năm 2014.
  154. ^ a b Nolt, James H. Analysis: The China-Taiwan military balance. Asia Times. 1999. Truy cập 15 tháng 4 năm 2006.
  155. ^ “Military and Security Developments Involving the People's Republic of China 2013” (PDF). Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ. 2013. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2013.
  156. ^ Andrew, Martin (ngày 18 tháng 8 năm 2005). “THE DRAGON BREATHES FIRE: CHINESE POWER PROJECTION”. AsianResearch.org. Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2013.
  157. ^ a b “IN FOCUS: Long march ahead for Chinese naval airpower”. Flightglobal.com. ngày 26 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2012.
  158. ^ “China's first aircraft carrier completes sea trial”. Xinhua News Agency. ngày 15 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 15 tháng 8 năm 2011.
  159. ^ “China: Aircraft Carrier Now in Service”. The Wall Street Journal. ngày 25 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 26 tháng 9 năm 2012.
  160. ^ "China unveils fleet of submarines". The Guardian. ngày 22 tháng 4 năm 2009. Truy cập 16 tháng 10 năm 2011.
  161. ^ “India, Japan join hands to break China's 'string of pearls'. Times of India. ngày 30 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2013.
  162. ^ “J-10”. SinoDefence.com. ngày 28 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2010.
  163. ^ “Inside China's Secret Arsenal”. Popular Science. ngày 20 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2012.
  164. ^ "Early Eclipse: F-35 JSF Prospects in the Age of Chinese Stealth." China-Defense. Truy cập 23 tháng 1 năm 2011.
  165. ^ "Chengdu J-20 – China's 5th Generation Fighter." Defense-Update.com. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2011.
  166. ^ “Engine issues mean China can't power J-15, J-16 fighters”. WantChinaTimes.com. 9 tháng 9 năm 2014. Truy cập 30 tháng 10 năm 2014.
  167. ^ Surface-to-air Missile System[liên kết hỏng]. SinoDefence.com. 2006. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2009.
  168. ^ “HQ-19 (S-400) (China)”. Jane's Weapons: Strategic. IHS. ngày 23 tháng 12 năm 2008.
  169. ^ "China plays down fears after satellite shot down". Agence France-Presse qua ChannelNewsAsia. ngày 20 tháng 1 năm 2007. Truy cập 11 tháng 7 năm 2013.
  170. ^ "Chinese Navy Tests Land Attack Cruise Missiles: Implications for Asia-Pacific". New Pacific Institute. ngày 25 tháng 7 năm 2012. Truy cập 1 tháng 10 năm 2012.
  171. ^ "China expanding its nuclear stockpile". The Washington Times. ngày 25 tháng 8 năm 2011. Truy cập 16 tháng 10 năm 2011.
  172. ^ “Estimates for 2014 nominal GDP”. International Monetary Fund. 2014. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2015.
  173. ^ “China is already a market economy—Long Yongtu, Secretary General of Boao Forum for Asia”. EastDay.com. 2008. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2009.
  174. ^ "Communism Is Dead, But State Capitalism Thrives". Vahan Janjigian. Forbes. 22 tháng 3 năm 2010. Truy cập 11 tháng 7 năm 2013.
  175. ^ "The Winners And Losers In Chinese Capitalism". Gady Epstein. Forbes. 31 tháng 8 năm 2010. Truy cập 11 tháng 7 năm 2013.
  176. ^ John Lee. "Putting Democracy in China on Hold". The Center for Independent Studies. 26 tháng 7 năm 2008. Truy cập 16 tháng 7 năm 2013.
  177. ^ English@peopledaily.com.cn (ngày 13 tháng 7 năm 2005). “People.com”. People. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2010.
  178. ^ “Businessweek.com”. BusinessWeek. ngày 22 tháng 8 năm 2005. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2010.
  179. ^ “Microsoft Word – China2bandes.doc” (PDF). OECD. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2010.
  180. ^ “China's Economic Rise: History, Trends, Challenges, and Implications for the United States” (PDF). Congressional Research Service. ngày 5 tháng 9 năm 2013.
  181. ^ “China must be cautious in raising consumption”. China Daily. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2009.
  182. ^ Walker, Andrew (ngày 16 tháng 6 năm 2011). “Will China's Economy Stumble?”. BBC. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2011.
  183. ^ “China Quick Facts”. World Bank. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2008.
  184. ^ Swartz, Spencer; Oster, Shai (ngày 19 tháng 7 năm 2010). “China Becomes World's Biggest Energy Consumer”. Wall Street Journal. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2010.
  185. ^ “The Ultimate Guide To China's Voracious Energy Use”. Business Insider. ngày 17 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2012.
  186. ^ “China overtakes US as the biggest importer of oil”. BBC. ngày 10 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 11 tháng 10 năm 2013.
  187. ^ White, Garry (ngày 10 tháng 2 năm 2013). “China trade now bigger than US”. Daily Telegraph. Luân Đôn. Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2013.
  188. ^ “China's Foreign-Exchange Reserves Surge, Exceeding $2 Trillion”. Bloomberg L.P. ngày 15 tháng 7 năm 2009. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2010.
  189. ^ “China's forex reserves reach USD 2.85 trillion”. Smetimes.tradeindia.com. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2011.
  190. ^ a b “FDI in Figures” (PDF). OECD. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2013.
  191. ^ “Being eaten by the dragon”. The Economist. ngày 11 tháng 11 năm 2010.
  192. ^ Palmer, Doug (ngày 24 tháng 9 năm 2012). “Obama should call China a currency manipulator: Romney aide”. Reuters. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2012.
  193. ^ “2007 trade surplus hits new record – $262.2B”. China Daily. ngày 11 tháng 1 năm 2008. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2010.
  194. ^ “China widens yuan, non-dollar trading range to 3%”. ngày 23 tháng 9 năm 2005. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2010.
  195. ^ “China's growing middle class”. CNN. ngày 26 tháng 4 năm 2012.
  196. ^ “China's rich are getting poorer in new Hurun Rich List”. Global Times. Truy cập 26 tháng 9 năm 2012.
  197. ^ “China retail sales growth accelerates”. China Daily. ngày 18 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2013.
  198. ^ “China's retail sales up 12.4 pct in Q1”. Global Times. ngày 15 tháng 4 năm 2013. Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2013.
  199. ^ "Super Rich have Craze for luxury goods". China Daily. 3 tháng 3 năm 2010. Truy cập 4 tháng 3 năm 2010.
  200. ^ "China inflation exceeding 6%". BusinessWeek. 14 tháng 10 năm 2011. Truy cập 18 tháng 10 năm 2011.
  201. ^ "Steep rise in Chinese food prices". BBC. 16 tháng 4 năm 2008. Truy cập 18 tháng 10 năm 2011.
  202. ^ "China's GDP grows 9.1% in third quarter". Financial Times. 18 tháng 10 năm 2011. Truy cập 16 tháng 7 năm 2013.
  203. ^ “Income inequality on the rise in China”. Al Jazeera. ngày 12 tháng 1 năm 2013.
  204. ^ “Inequality in China: Rural poverty persists as urban wealth balloons”. BBC News. ngày 29 tháng 6 năm 2011.
  205. ^ “China's rural poor population declines”. Tân Hoa xã. 26 tháng 2 năm 2013. Truy cập 30 tháng 10 năm 2014.
  206. ^ “Con số giật mình về khoảng cách giàu nghèo tại Trung Quốc”. Thông tấn xã Việt Nam. 26 tháng 7 năm 2014. Truy cập 30 tháng 10 năm 2014.
  207. ^ Intellectual Property Rights. Asia Business Council. tháng 12 năm 2005. Truy cập 13 tháng 1 năm 2012.
  208. ^ “MIT CIS: Publications: Foreign Policy Index”. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2010.
  209. ^ http://www.eaton.com/ecm/idcplg%3FIdcService%3DGET_FILE%26dID%3D224970
  210. ^ “iPhone 7 chưa ra, Trung Quốc đã có hàng nhái”.
  211. ^ “Galaxy S9 chưa ra, hàng nhái đã có ở Trung Quốc”.
  212. ^ "Counterfeit goods China make almost 2 percent of world trade"
  213. ^ a b "Most counterfeit goods are from China"
  214. ^ "China Big in Counterfeit Goods"
  215. ^ “In Our Time: Negative Numbers”. BBC. Truy cập ngày 19 tháng 6 năm 2013.
  216. ^ Struik, Dirk J. (1987). A Concise History of Mathematics. New York: Dover Publications. p.32–33. "In these matrices we find negative numbers, which appear here for the first time in history."
  217. ^ Yu, Q. Y. (1999). The Implementation of China's Science and Technology Policy. Greenwood Publishing Group. tr. 2. ISBN 9781567203325.
  218. ^ Vogel, Ezra F. (2011). Deng Xiaoping and the Transformation of China. Harvard University Press. tr. 129. ISBN 9780674055445.
  219. ^ DeGlopper, Donald D. (1987). “Soviet Influence in the 1950s”. China: a country study. Library of Congress.
  220. ^ "7 Technologies Where China Has the U.S. Beat". GreenBiz.com. 7 tháng 12 năm 2010. Truy cập 30 tháng 8 năm 2012.
  221. ^ "China 'to overtake US on science' in two years". BBC News. 28 tháng 3 năm 2011. Truy cập 26 tháng 4 năm 2012.
  222. ^ David Kang and Adam Segal. "The Siren Song of Technonationalism". Far Eastern Economic Review. March 2006. Truy cập 18 tháng 4 năm 2013.
  223. ^ “The Nobel Prize in Physics 1957”. Nobel Media AB. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2014.
  224. ^ “The Nobel Prize in Physics 1957”. Nobel Media AB. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2014.
  225. ^ “The Nobel Prize in Physics 1998”. Truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2013.
  226. ^ “The Nobel Prize in Physics 2009”. Truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2013.
  227. ^ “Yuan T. Lee - Biographical”. Truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2013.
  228. ^ “Trung Quốc đẩy nhanh hiện đại hóa bằng… ăn cắp”. Báo An ninh Thủ đô. Truy cập 8 tháng 2 năm 2015.
  229. ^ “Geithner: China 'Very, Very Aggressive' In Stealing U.S. Technology”. The Huffington Post. Truy cập 8 tháng 2 năm 2015.
  230. ^ "Desperately seeking math and science majors"[liên kết hỏng]. CNN. 29 tháng 7 năm 2009. Truy cập 9 tháng 4 năm 2012.
  231. ^ "China publishes the second most scientific papers in international journals in 2010: report". Xinhua. 2 tháng 12 năm 2011. Truy cập 25 tháng 4 năm 2012.
  232. ^ “Who's afraid of Huawei?”. The Economist. ngày 4 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 11 tháng 8 năm 2012.
  233. ^ “Shares in China's Lenovo rise on profit surge”. New Straits Times. ngày 17 tháng 8 năm 2012.[liên kết hỏng]
  234. ^ “Lenovo ousts HP as world's top PC maker, says Gartner”. BBC. ngày 11 tháng 10 năm 2012.
  235. ^ “China retakes supercomputer crown”. BBC. ngày 17 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 18 tháng 6 năm 2013.
  236. ^ Williams, Christopher (ngày 12 tháng 11 năm 2012). 'Titan' supercomputer is world's most powerful”. The Daily Telegraph. Luân Đôn. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2012.
  237. ^ “Robots to boost China's economy”. People's Daily. ngày 6 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2013.
  238. ^ http://cafebiz.vn/bang-viec-vung-tien-cho-cong-nghe-trung-quoc-dang-tao-ra-mot-mo-hinh-phat-trien-chuoi-san-xuat-chua-tung-co-trong-ly-thuyet-kinh-te-hien-dai-20181128115711572.chn
  239. ^ Axe, David (ngày 16 tháng 4 năm 2012). “China Now Tops U.S. in Space Launches”. Wired. Truy cập ngày 24 tháng 10 năm 2012.
  240. ^ David Eimer, "China's huge leap forward into space threatens US ascendancy over heavens". Daily Telegraph. 5 tháng 11 năm 2011. Truy cập 16 tháng 4 năm 2013.
  241. ^ Long, Wei (ngày 25 tháng 4 năm 2000). “China Celebrates 30th Anniversary Of First Satellite Launch”. Space daily.
  242. ^ “Rocket launches Chinese space lab”. BBC. ngày 29 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2012.
  243. ^ Rincon, Paul (ngày 14 tháng 12 năm 2013). “China lands Jade Rabbit robot rover on Moon”. BBC News. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2014.
  244. ^ "Strategic Tariffs Against China Are Critical Part of Trade Reform to Create More Jobs and Better Pay", AFL-CIO press release, March 22, 2018
  245. ^ “The Big Hack: How China Used a Tiny Chip to Infiltrate U.S. Companies”. Bloomberg. 4 tháng 10 năm 2018.
  246. ^ “Beijing's 'Trojan chips' present a risk to more than corporations”. Seattle Times. 9 tháng 10 năm 2018.
  247. ^ “Trump takes aim at China's bad intellectual property practices”. The Hill. 16 tháng 8 năm 2017.
  248. ^ “In China, 'Free Trade' Means Steal What You Want”. RealClearPolitics. 20 tháng 6 năm 2018.
  249. ^ “Vacuum Designer James Dyson: Chinese Students Steal Secrets from UK Schools”. Time. 30 tháng 3 năm 2011.
  250. ^ “Chinese students steal secrets: inventor James Dyson”. The Australian. 27 tháng 3 năm 2011.
  251. ^ “Dyson seeks to block copycat manufacturers in China”. The Guardian. 4 tháng 12 năm 2011.
  252. ^ “Sir James Dyson attacks China over designs 'theft'. The Telegraph. 6 tháng 12 năm 2011.
  253. ^ “Beijing networks in U.S. maneuver up to 25,000 spies”. Washington Times. 11 tháng 7 năm 2017.
  254. ^ “China's Intelligence Networks in United States Include 25,000 Spies”. Washington Free Beacon. 11 tháng 7 năm 2017.
  255. ^ Benner, Katie (10 tháng 10 năm 2018). “Chinese Officer Is Extradited to U.S. to Face Charges of Economic Espionage”. NY Times.
  256. ^ Cheatham, Craig (12 tháng 10 năm 2018). “Chinese intelligence officer arrested in attempt to steal GE Aviation trade secrets”. WCPO.com. Scripps Media, Inc.
  257. ^ “Chinese stealth fighter jet may use US technology”. The Guardian. 23 tháng 1 năm 2011.
  258. ^ “China Hacked F-22, F-35 Stealth Jet Secrets”. Washington Free Beacon. 24 tháng 3 năm 2016.
  259. ^ “Chinese theft of sensitive US military technology is still a 'huge problem,' says defense analyst”. CNBC. 8 tháng 11 năm 2017.
  260. ^ “U.S. Charges Alleged Chinese Government Spy With Stealing U.S. Trade Secrets”. NPR. 10 tháng 10 năm 2018.
  261. ^ a b “Chinese Intelligence Officers Accused of Stealing Aerospace Secrets”. New York Times. 30 tháng 10 năm 2018.
  262. ^ “PENTAGON: Chinese Hackers Have Stolen Data From 'Almost Every Major US Defense Contractor'. Business Insider. 7 tháng 5 năm 2013.
  263. ^ “Chinese Hackers Stole U.S. Weapons System Designs”. The Heritage Foundation. 12 tháng 6 năm 2013.
  264. ^ “China's Mysterious Predator Clone Is Finally Out In The Open”. Business Insider. 8 tháng 11 năm 2012.
  265. ^ “China stole US underwater drone in South China Sea as Americans watched”. Fox News. 16 tháng 12 năm 2016.
  266. ^ “5 American Super Weapons Stolen by China”. The National Interest. 1 tháng 4 năm 2017.
  267. ^ “Chinese government hackers reportedly stole trove of sensitive US naval data”. The Guardian. 8 tháng 6 năm 2018.
  268. ^ “Chinese hack U.S. weather systems, satellite network”. Washington Post. 12 tháng 11 năm 2014.
  269. ^ “Chinese hackers targeting satellite and defense firms, researchers find”. Politico. 19 tháng 6 năm 2018.
  270. ^ “6 Chinese weapons that are direct rip-offs of American ones”. We Are The Mighty. 22 tháng 8 năm 2018.
  271. ^ “To stop China's technology theft, the US needs a 'people warfare' strategy”. The Hill. 29 tháng 4 năm 2018.
  272. ^ “China is determined to steal A.I. crown from US and nothing, not even a trade war, will stop it”. CNBC. 4 tháng 5 năm 2018.
  273. ^ “Grassley on Chinese Espionage: It's called cheating. And it's only getting worse”. United States Senate. 28 tháng 11 năm 2018.
  274. ^ “U.S. Launches Crackdown on Chinese Economic Espionage: State-run Chinese company indicted for advanced semiconductor technology theft”. Washington Free Beacon. 2 tháng 11 năm 2018.
  275. ^ “Huawei Accused of Seizing Solid State Drive Technology From Joint Chinese-U.S. Startup”. Epoch Times. 23 tháng 10 năm 2018.
  276. ^ “Huawei faces bill for tens of millions for 'theft of 4G technology'. The Telegraph. 23 tháng 10 năm 2018.
  277. ^ Blair, Dennis; Alexander, Keith. "China's Intellectual Property Theft Must Stop", The New York Times, August 15, 2017
  278. ^ “Chinese theft of US intellectual property 'greatest transfer of wealth' in history”. Fox Business. 18 tháng 7 năm 2018.
  279. ^ Công nghệ Trung Quốc: Người khổng lồ có đôi chân đất sét - Báo Thanh niên
  280. ^ https://thanhnien.vn/cong-nghe/ai-dang-thang-chien-tranh-lanh-cong-nghe-my-trung-quoc-1095757.html
  281. ^ http://cafebiz.vn/bang-viec-vung-tien-cho-cong-nghe-trung-quoc-dang-tao-ra-mot-mo-hinh-phat-trien-chuoi-san-xuat-chua-tung-co-trong-ly-thuyet-kinh-te-hien-dai-20181128115711572.chn
  282. ^ https://vtc.vn/cam-cua-huawei-my-vo-tinh-thuc-day-trung-quoc-phat-trien-cong-nghe-moi-d476107.html
  283. ^ https://cuoituan.tuoitre.vn/tin/cuoc-song-muon-mau/cua-so-khoa-hoc/20181222/cong-nghe-trung-quoc-da-tien-xa-den-dau/1477102.html
  284. ^ Flannery, Russell (ngày 30 tháng 3 năm 2012). “China Mobile Phone Users Now Top One Billion”. Forbes.
  285. ^ Barboza, David (ngày 26 tháng 7 năm 2008). “China Surpasses US in Number of Internet Users”. New York Times. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2008.
  286. ^ “Chinese internet use surges ahead”. BBC. ngày 17 tháng 7 năm 2013. Truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2013.
  287. ^ China's Internet speed averages 3.14 MBps: survey - Xinhua | English.news.cn. News.xinhuanet.com (18 tháng 4 năm 2013). Truy cập 9 tháng 8 năm 2013.
  288. ^ “Broadband provider rankings: The Rise and Rise of China”. Telegeography.com. ngày 28 tháng 7 năm 2010. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2011.
  289. ^ “Huawei, ZTE Provide Opening for China Spying, Report Says”. Bloomberg L.P. ngày 8 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2012.
  290. ^ “China's Beidou GPS-substitute opens to public in Asia”. BBC. ngày 27 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2012.
  291. ^ “Once China Catches Up--What Then?”. Forbes. ngày 17 tháng 9 năm 2013.
  292. ^ “China auto sales officially surpass US in 2009, 13.6 million vehicles sold”. Industry News. ngày 8 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 14 tháng 5 năm 2010.
  293. ^ “China premium car sector remains bright spot”. Reuters. ngày 23 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2012.
  294. ^ a b “Bike-Maker Giant Says Fitness Lifestyle Boosting China Sales”. Bloomberg L.P. ngày 17 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2012.
  295. ^ "Chinese Railways Carry Record Passengers, Freight" Xinhua 2007-06-21
  296. ^ “China's trains desperately overcrowded for Lunar New Year”. Seattle Times. ngày 22 tháng 1 năm 2009.
  297. ^ "2013年铁道统计公报"
  298. ^ (Chinese) "2013年铁道统计公报"
  299. ^ "中国高铁总里程达11028公里占世界一半" 新华网 2014-03-05
  300. ^ "China boasts biggest high-speed rail network". Agence France-Presse qua The Raw Story. 24 tháng 7 năm 2011. Truy cập 24 tháng 4 năm 2012.
  301. ^ “China's Building Push Goes Underground”. Wall Street Journal. ngày 10 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2013.
  302. ^ a b “Primed to be world leader”. China Daily. ngày 5 tháng 7 năm 2013. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2013.
  303. ^ “China 'suffers worst flight delays'. BBC. ngày 12 tháng 7 năm 2013. Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2013.
  304. ^ "Top 50 World Container Ports" World Shipping Council Truy cập 2 tháng 6 năm 2014
  305. ^ “Communiqué of the National Bureau of Statistics of People's Republic of China on Major Figures of the 2010 Population Census[1] (No. 1)”. National Bureau of Statistics of China. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2013.
  306. ^ “The New England Journal of Medicine, September 2005”. Content.nejm.org. doi:10.1056/NEJMhpr051833. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2009.
  307. ^ “China formalizes easing of one-child policy”. USA Today. ngày 28 tháng 12 năm 2013.
  308. ^ “The most surprising demographic crisis”. The Economist. ngày 5 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2011.
  309. ^ Parry, Simon (ngày 9 tháng 1 năm 2005). “Shortage of girls forces China to criminalize selective abortion”. The Daily Telegraph. Luân Đôn. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2012.
  310. ^ “Chinese facing shortage of wives”. BBC News. ngày 12 tháng 1 năm 2007. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2009.
  311. ^ "Chinese mainland gender ratios most balanced since 1950s: census data". Xinhua. 28 tháng 4 năm 2011. Truy cập 20 tháng 10 năm 2011.
  312. ^ “The odds that you will give birth to a boy or girl depend on where in the world you live”. Pew Research Center. ngày 24 tháng 9 năm 2013.
  313. ^ a b "Chinese mainland gender ratios most balanced since 1950s: census data". Xinhua. ngày 28 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2011.
  314. ^ Lilly, Amanda (ngày 7 tháng 7 năm 2009). “A Guide to China's Ethnic Groups”. Washington Post.
  315. ^ China's Geography: Globalization and the Dynamics of Political, Economic, and Social Change. Rowman & Littlefield Publishers. 2011. tr. 102. ISBN 9780742567849.
  316. ^ "Major Figures on Residents from Hong Kong, Macao and Taiwan and Foreigners Covered by 2010 Population Census"[liên kết hỏng]. National Bureau of Statistics of China. 29 tháng 4 năm 2011. Truy cập 4 tháng 10 năm 2011.
  317. ^ Languages of China – from Lewis, M. Paul (ed.), 2009. Ethnologue: Languages of the World, Sixteenth edition. Dallas, Tex.: SIL International.
  318. ^ Kaplan, Robert B. and Richard B. Baldauf (2008). Language Planning and Policy in Asia: Japan, Nepal, Taiwan and Chinese characters. Multilingual Matters. tr. 42. ISBN 9781847690951.
  319. ^ Rough Guide Phrasebook: Mandarin Chinese. Rough Guides. 2011. tr. 19. ISBN 9781405388849.
  320. ^ Yao, Xinzhong (2010). Chinese Religion: A Contextual Approach. Continuum. tr. 11. ISBN 9781847064769.
  321. ^ Miller, James (2006). Chinese Religions in Contemporary Societies. ABC-CLIO. tr. 57. ISBN 9781851096268.
  322. ^ Xie, Zhibin (2006). Religious Diversity and Public Religion in China. Ashgate Publishing. tr. 73. ISBN 9780754656487.
  323. ^ "China bans religious activities in Xinjiang". Financial Times. 2 tháng 8 năm 2012. Truy cập 28 tháng 8 năm 2012.
  324. ^ “Survey finds 300m China believers”. BBC. ngày 7 tháng 2 năm 2007. Truy cập ngày 15 tháng 6 năm 2009.
  325. ^ Yu Tao. A Solo, a Duet, or an Ensemble? Analysing the Recent Development of Religious Communities in Contemporary Rural China (PDF). Europe-China Research and Advice Network. University of Nottingham. p. 7, 11. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2013.
  326. ^ “Religion in China on the Eve of the 2008 Beijing Olympics”. Pew Forum. ngày 1 tháng 5 năm 2008. Truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2011.
  327. ^ “Preparing for China's urban billion”. McKinsey Global Institute. tháng 2 năm 2009. tr. 6, 52.
  328. ^ a b “Preparing for China's urban billion”. McKinsey Global Institute. tháng 2 năm 2009. tr. 6, 52. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2015.
  329. ^ “China Now Has More Than 260 Million Migrant Workers Whose Average Monthly Salary Is 2,290 Yuan ($374.09)”. International Business Times. ngày 28 tháng 5 năm 2013.
  330. ^ “China's urban explosion: A 21st century challenge”. CNN. ngày 20 tháng 1 năm 2012.
  331. ^ “China's mega city: the country's existing mega cities”. The Telegraph. Luân Đôn. ngày 24 tháng 1 năm 2011.
  332. ^ “Overview”. Shenzhen Municipal E-government Resources Center. Truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2013.
  333. ^ “Wu-Where? Opportunity Now In China's Inland Cities”. NPR. ngày 7 tháng 8 năm 2012.
  334. ^ “9-year Compulsory Education”. China.org.cn. Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2013.
  335. ^ “China eyes high school enrollment rate of 90%”. China Daily. ngày 8 tháng 8 năm 2011.
  336. ^ “China's higher education students exceed 30 million”. People's Daily. ngày 11 tháng 3 năm 2011.
  337. ^ "China pledges free 9-year education in rural west". China Economic Net. ngày 21 tháng 2 năm 2006. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2013.
  338. ^ “In Education, China Takes the Lead”. New York Times. ngày 16 tháng 1 năm 2013.
  339. ^ “Chinese Education: The Truth Behind the Boasts”. Bloomberg Businessweek. ngày 4 tháng 4 năm 2013.
  340. ^ “Literacy rate, adult total (% of people ages 15 and above)”. World Bank. Truy cập ngày 9 tháng 7 năm 2013.
  341. ^ Plafker, Ted. "China's Long—but Uneven—March to Literacy". International Herald Tribune. 12 tháng 2 năm 2001. Truy cập 22 tháng 12 năm 2012.
  342. ^ “Ministry of Health”. GOV.cn. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2013.
  343. ^ “China's $124 Billion Health-Care Plan Aims to Boost Consumption”. Bloomberg L.P. ngày 22 tháng 1 năm 2009.
  344. ^ “Great Progress, but More Is Needed”. New York Times. ngày 1 tháng 11 năm 2011.
  345. ^ Barboza, David (ngày 5 tháng 8 năm 2012). “2,000 Arrested in China in Counterfeit Drug Crackdown”. New York Times. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2013.
  346. ^ “Life expectancy at birth, total (years)”. World Bank. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2013.
  347. ^ “Mortality rate, infant (per 1,000 live births)”. World Bank. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2013.
  348. ^ “Life expectancy increases by 44 years from 1949 in China's economic powerhouse Guangdong”. People's Daily. ngày 4 tháng 10 năm 2009.
  349. ^ "China's Infant Mortality Rate Down". ngày 11 tháng 9 năm 2001. China.org.cn. Truy cập 3 tháng 5 năm 2006.
  350. ^ doi:10.1126/science.336.6080.402
    Hoàn thành chú thích này
  351. ^ McGregor, Richard (ngày 2 tháng 7 năm 2007). “750,000 a year killed by Chinese pollution”. Financial Times. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2007.
  352. ^ "China's Tobacco Industry Wields Huge Power" article by Didi Kirsten Tatlow in The New York Times ngày 10 tháng 6 năm 2010
  353. ^ "Serving the people?". 1999. Bruce Kennedy. CNN. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2006.
  354. ^ "Obesity Sickening China's Young Hearts". ngày 4 tháng 8 năm 2000. People's Daily. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2006.
  355. ^ "China's latest SARS outbreak has been contained, but biosafety concerns remain". 18 tháng 5 năm 2004. Tổ chức Y tế Thế giới. Truy cập 17 tháng 4 năm 2006.
  356. ^ Wong, Edward (ngày 1 tháng 4 năm 2013). “Air Pollution Linked to 1.2 Million Premature Deaths in China”. New York Times.
  357. ^ “The Chinese Media: More Autonomous and Diverse--Within Limits — Central Intelligence Agency”. www.cia.gov (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2018.
  358. ^ China: Understanding Its Past. University of Hawaii Press. 1997. tr. 29.
  359. ^ “Historical and Contemporary Exam-driven Education Fever in China” (PDF). KEDI Journal of Educational Policy. 2 (1): 17–33. 2005.
  360. ^ “Tour Guidebook: Beijing”. China National Tourism Administration. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2013.
  361. ^ “Why China is letting 'Django Unchained' slip through its censorship regime”. Quartz. ngày 13 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2013.
  362. ^ "China: Traditional arts". Library of Congress – Country Studies”. Lcweb2.loc.gov. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2011.
  363. ^ “China: Cultural life: The arts”. Encyclopædia Britannica. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2011.
  364. ^ “What is the world's favourite holiday destination?”. BBC. ngày 4 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 5 tháng 8 năm 2013.
  365. ^ “Microsoft Word – UNWTO Barom07 2 en.doc” (PDF). UNWTO. 2010. Truy cập ngày 14 tháng 5 năm 2010.
  366. ^ “China's Economy: What the Tourist Boom Tells Us”. TIME. ngày 17 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2012.
  367. ^ Origins of Chinese Cuisine. Asiapac Books. 2003. tr. 4. ISBN 9789812293176.
  368. ^ “China's Hunger For Pork Will Impact The U.S. Meat Industry”. Forbes. ngày 19 tháng 6 năm 2013.
  369. ^ “The Canonical Books of Confucianism – Canon of the Literati”. 14 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 14 tháng 1 năm 2014.
  370. ^ “什么是四书五经”. 360doc.com. 6 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2015.
  371. ^ "李白杜甫优劣论". 360doc.com. 18 April 2011. Retrieved 21 July 2015.
  372. ^ "第一章 中国古典小说的发展和明清小说的繁荣". nbtvu.net.cn. Retrieved 18 July 2015.
  373. ^ "新文化运动中的胡适与鲁迅". 中共杭州市委党校学报. April 2000. Retrieved 18 July 2015.
  374. ^ "莫言:寻根文学作家". 东江时报. 12 October 2012. Retrieved 18 July 2015.
  375. ^ Rawson, 112
  376. ^ Historical Dictionary of Soccer. Scarecrow Press. 2011. tr. 2.
  377. ^ “Sport in Ancient China”. JUE LIU (刘珏) (The World of Chinese). ngày 31 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2014.
  378. ^ "Chinese players dominate at Malaysia open chess championship". TheStar.com. ngày 2 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2011.
  379. ^ doi:10.1093/heapro/dah105
    Hoàn thành chú thích này
  380. ^ “China health club market – Huge potential & challenges”. China Sports Business. ngày 1 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2012.
  381. ^ "2014年6岁至69岁人群体育健身活动和体质状况抽测结果发布". 温州日报. 7 August 2014. Retrieved 23 November 2015.
  382. ^ Qinfa, Ye. "Sports History of China". About.com. Truy cập 21 tháng 4 năm 2006.
  383. ^ “China targets more golds in 2012”. BBC Sport. ngày 27 tháng 8 năm 2008. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2011.
  384. ^ “Beijing 2022 Winter Games Olympics - results & video highlights” (bằng tiếng Anh). International Olympic Committee. 23 tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2018.

Liên kết ngoài