Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Đỗ Kính Tu”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 4: Dòng 4:
| cỡ = 255px
| cỡ = 255px
| miêu tả = <!--Tượng [[thái úy]] Tô Hiến Thành-->
| miêu tả = <!--Tượng [[thái úy]] Tô Hiến Thành-->
| ngày sinh = [[1152]]
| ngày sinh = [[1152?]]
| nơi sinh =
| nơi sinh =
| nơi ở =
| nơi ở =

Phiên bản lúc 05:26, ngày 4 tháng 7 năm 2019

Đỗ Kính Tu
Tập tin:DoKinhTuJPG.jpg
Chức vụ
Quốc sư phụ chính thời Lý Cao Tông
Thái úy, Thái phó, Thái bảo Nhà Lý
Thông tin chung
Sinh1152?
Mất1216
Nhuệ Giang
Dân tộcKinh
Tôn giáoPhật giáo
Tập tin:Phanmo.jpg
Phần mộ của Đỗ Kính Tu tại làng Hậu Ái

Đỗ Kính Tu (chữ Hán: 杜敬脩, 1152?-1216?) hay Lý Kính Tu (李敬脩) là một đại thần nhà Lý trong lịch sử Việt Nam.

Quê quán

Đỗ Kính Tu quê ở làng Hậu Ái.[1] Hậu Ái sau là một thôn thuộc xã Vân Canh, tổng Phương Canh, huyện Từ Liêm, tỉnh Hà Đông. Nay là xã Vân Canh, huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội.

Sự nghiệp

Ông thông minh từ bé, năm 13 tuổi đã đỗ Tú tài kỳ thi Hương.[cần dẫn nguồn] Đến năm 18 tuổi, khi triều đình mở khoa thi võ, ông đỗ Phong Võ Chức và được vua cử đi dẹp giặc.[cần dẫn nguồn]

Năm 23 tuổi, ông đỗ đầu khoa thi Tam giáo và được vua phong chức Hàn Lâm Viện Đại Học Sĩ kiêm Võ sư.[cần dẫn nguồn] Sau đó, ông được phong nhiều chức như: Thái úy, Thái phó (Tể tướng), Đế Sư, Thái Bảo.[cần dẫn nguồn]

Năm 1182, sau khi Thái úy Tô Hiến Thành mất, Đỗ Kính Tu được giữ chức Đế sư (thầy dạy học cho vua nhỏ Lý Cao Tông), từ đó chấm dứt hoàn toàn âm mưu phế lập của Chiêu Linh thái hậu.[2] sau giữ chức Quốc sư phụ chính thời Lý Cao Tông.

Cuối thời Lý, vùng Đại Hoàng nổi dậy chống triều đình do Phí Lang cầm đầu. Năm 1204, Đỗ Kính Tu được sai đem quân tới đánh dẹp.[2] Triều đình không giành được thắng lợi, vùng Đại Hoàng vẫn trong tình trạng ly khai trung ương tới tận thời Trần. Theo thần tích, Đỗ Kính Tu biết Phí Lang vốn là quan quân, do bất mãn với gian thần Đàm Dĩ Mông mới nổi dậy, nên Đỗ Kính Tu chỉ đánh lấy lệ rồi rút quân.[1]

Năm 1210, trước khi mất, Lý Cao Tông cho gọi Đỗ Kính Tu để ký thác.[2] Lý Cao Tông mất, Đỗ Kính Tu phò Thái tử Sảm lên ngôi, tức vua Lý Huệ Tông, vì vậy được ban quốc tính, nên còn gọi là Lý Kính Tu.

Cái chết

Theo thần tích ở thôn Hậu Ái, để chống lũ, Lý Kính Tu đứng ra liên lạc với các làng, rồi thống nhất cho người đào ngòi Hương Khê từ Đồng Chầm thuộc thôn Hậu Ái, qua địa phận các thôn Kim Hoàng, An Trai, Hòe Thị, Thị Cấm, đến cửa chùa Linh Ứng ra sông Nhuệ. Trong triều có người vì việc đó tấu rằng Lý Kính Tu mưu phản, Lý Huệ Tông cho người xét tội. Lý Kính Tu uất ức, bèn trầm mình ở bãi Quân Thần (thuộc Từ Liêm) tự vẫn.[1] Theo Nguyễn Vinh Phúc, có khả năng Lý Kính Tu bị mưu sát bởi âm mưu của thế lực họ Trần trong triều.[1] Nỗi oan của ông sau này được giải tỏ, triều đình phong ông làm Phúc thần đựợc thờ làm thành hoàng ở thôn Hậu Ái.

Đình Hậu Ái và mộ Đỗ Kính Tu đều được Bộ VHTT xếp hạng di tích văn hóa lịch sử cấp quốc gia năm 1989.

Chú thích

Liên kết ngoài