Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Minh Thành Tổ”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Dòng 76: Dòng 76:
Triều đình của Huệ Đế có những nghi ngại về sức mạnh của các ông chú vì họ nắm giữ các vùng đất được phong như các vương quốc với sức mạnh quân sự lớn và nguồn lực tài chính dồi dào. Huệ Đế và các đại thần của ông đã tìm cách cải cách hệ thống đế quốc và tiêu diệt sức mạnh của hoàng tử. Nhưng điều này chắc chắn đã gặp sự kháng cự của các hoàng tử. Chu Đệ là thành viên hoàng tộc có sức ảnh hưởng lớn nhất trong các hoàng thân quốc thích, và ông cho rằng mình mới là người xứng đáng thừa kế ngôi vị hoàng đế.
Triều đình của Huệ Đế có những nghi ngại về sức mạnh của các ông chú vì họ nắm giữ các vùng đất được phong như các vương quốc với sức mạnh quân sự lớn và nguồn lực tài chính dồi dào. Huệ Đế và các đại thần của ông đã tìm cách cải cách hệ thống đế quốc và tiêu diệt sức mạnh của hoàng tử. Nhưng điều này chắc chắn đã gặp sự kháng cự của các hoàng tử. Chu Đệ là thành viên hoàng tộc có sức ảnh hưởng lớn nhất trong các hoàng thân quốc thích, và ông cho rằng mình mới là người xứng đáng thừa kế ngôi vị hoàng đế.


== Giành được ngai vàng ==
== Đoạt vị, giành ngôi ==
''Bài chi tiết: [[Chiến dịch Tĩnh Nan]]''[[Tập tin:Нанкинг-капија.JPG|thumb|Cổng thành Nam Kinh]]
''Bài chi tiết: [[Chiến dịch Tĩnh Nan]]''[[Tập tin:Нанкинг-капија.JPG|thumb|Cổng thành Nam Kinh]]
=== Mở màn Tĩnh Nan chi dịch ===
=== Mở màn Tĩnh Nan chi dịch ===

Phiên bản lúc 10:00, ngày 5 tháng 8 năm 2019

Minh Thành Tổ
明成祖
Hoàng đế Trung Hoa
Hoàng đế Đại Minh
Trị vì17 tháng 7 năm 140212 tháng 8 năm 1424
(22 năm, 26 ngày)[1]
Tiền nhiệmMinh Huệ Đế
Kế nhiệmMinh Nhân Tông
Thông tin chung
Sinh17 tháng 4 năm Chí Chính thứ 20 Nhà Nguyên
2 tháng 5 năm 1360
Ứng Thiên (nay là Nam Kinh)
Mất18 tháng 7 năm Vĩnh Lạc thứ 22 Nhà Minh
12 tháng 8 năm 1424(1424-08-12) (64 tuổi)
Yumuchuan (nay là Ujimqin, Nội Mông Cổ)
An tángTrường lăng (永乐), Thập Tam Lăng
Hoàng hậuNhân Hiếu Văn hoàng hậu
Hậu duệ
Tên thật
Chu Đệ (朱棣)
Niên hiệu
Vĩnh Lạc (永樂)
Thụy hiệu
Thể Thiên Hoằng Đạo Cao Minh Quảng Vận Thánh Vũ Thần Công Thuần Nhân Chí Hiếu Văn hoàng đế
(體天弘道高明廣運聖武神功純仁至孝文皇帝)
Khải Thiên Hoằng Đạo Cao Minh Triệu Vận Thánh Vũ Thần Công Thuần Nhân Chí Hiếu Văn hoàng đế
(啓天弘道高明肇運聖武神功純仁至孝文皇帝)
(thụy đổi tháng 9 năm Gia Tĩnh thứ 17 (1538) thời Minh Thế Tông)
Miếu hiệu
Thái Tông (太宗)
Thành Tổ (成祖)
(đổi tháng 9 năm Gia Tĩnh thứ 17 (1538) thời Minh Thế Tông)
Triều đạiNhà Minh
Thân phụMinh Thái Tổ
Thân mẫuHiếu Từ Cao hoàng hậu

Minh Thành Tổ (chữ Hán: 明成祖, 2 tháng 5, 136012 tháng 8, 1424), ban đầu gọi là Minh Thái Tông (明太宗), là vị hoàng đế thứ ba của Nhà Minh, tại vị từ năm 1402 đến năm 1424, tổng cộng 22 năm. Ông chỉ dùng một niên hiệu Vĩnh Lạc (永樂), nên sử gia còn gọi ông là Vĩnh Lạc Đế (永樂) hay Vĩnh Lạc đại đế (永樂大帝). Ông được coi là vị hoàng đế kiệt xuất nhất của Triều đại Nhà Minh, và là một trong các Hoàng đế kiệt xuất nhất trong lịch sử Trung Quốc. Thời kỳ của ông về sau được ca ngợi gọi là Vĩnh Lạc thịnh thế (永樂盛世), khiến Đại Minh phát triển đỉnh cao về quyền lực.

Khi còn là hoàng tử, ông được phong làm Yên vương (燕王), đóng đô ở Bắc Bình (nay là Bắc Kinh). Sau một loạt chiến dịch thành công chống quân Mông Cổ, ông bắt đầu củng cố quyền lực của mình ở phía bắc và tiêu trừ các đối thủ, tiêu biểu như đại tướng Lam Ngọc. Ban đầu, ông chấp nhận sự chỉ định của Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương về người kế vị là đứa cháu trai Minh Huệ Đế Chu Doãn Văn. Tuy nhiên, việc Hoàng đế mới bắt đầu giáng chức và tiêu diệt những ông chú quyền lực đã buộc Yên vương hành động. Ông lật đổ cháu trai Huệ Đế trong một cuộc nội chiến, vốn bất lợi cho ông vào thời gian đầu, đem quân từ Bắc Bình đánh xuống thủ đô Nam Kinh để giành ngai vàng vào năm 1402.

Chu Đệ đã bắt đầu triều đại của mình bằng việc hợp pháp hóa việc lên ngôi với việc xóa bỏ toàn bộ thời gian trị vì của người cháu và thiêu hủy hay sửa đổi các tài liệu có liên quan đến tuổi thơ và cuộc nổi loạn của mình. Điều này dẫn đến việc thanh trừng vô số quan viên ở Nam Kinh và ban thẩm quyền đặc biệt ngoài vòng pháp luật cho chính sách bí mật của hoạn quan. Ông nối tiếp chính sách tập trung của cha mình (Minh Thái Tổ), tăng cường thể chế của đế quốc và thành lập thủ đô mới tại Bắc Kinh. Để kiểm soát các quan viên, ông cho cải cách khoa cử thay vì chế độ đề cử và bổ nhiệm như dưới thời cha mình. Ông theo đuổi một chính sách đối ngoại bành trướng và đã tiến hành nhiều chiến dịch quy mô lớn chống lại quân Mông Cổ.

Nhằm tăng cường ảnh hưởng của mình trong khu vực Đông ÁĐông Nam Á, Minh Thành Tổ thành lập một hạm đội hùng hậu do Trịnh Hòa điều khiển. Trịnh Hòa (1371-1433) đã dẫn hạm đội xuống Bắc nước Úc, qua bán đảo Ả Rập và có tài liệu cho rằng Trịnh Hòa qua tận châu Mỹ. Hoàng đế còn cho sửa và mở lại Đại Vận Hà và vào khoảng năm 1407 đến năm 1420, trực tiếp chỉ đạo việc xây dựng Tử Cấm Thành. Dưới thời ông, các học giả đương thời đã hoàn thành công trình đồ sộ Vĩnh Lạc đại điển.

Thiếu thời

Minh Thành Tổ Vĩnh Lạc hoàng đế Chu Đệ

Minh Thành Tổ tên thật là Chu Lệ (朱棣), sinh vào ngày 2 tháng 5 năm 1360 tại Nam Kinh, là con trai thứ tư của Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương và Hiếu Từ Cao hoàng hậu Mã thị (có thuyết cho rằng ông không phải là con ruột do Mã hoàng hậu sinh ra mà là con một phi tần người Triều Tiên của Minh Thái Tổ). Chu Đệ được sinh ra khi cha của ông là Chu Nguyên Chương đang dấy binh chống lại Nhà Nguyên đang trên đà sụp đổ. Chu Đệ trở thành hoàng tử Nhà Minh khi Chu Nguyên Chương xưng đế năm 1368.

Minh Thái Tổ giám sát việc giáo dục các hoàng tử rất nghiêm ngặt, phong vương cho các hoàng tử, cho nắm giữ binh quyền các phiên tại đất phong và đều có quân đội riêng để tự vệ. Trong suốt niên hiệu Hồng Vũ (1368-1398), lực lượng phiên vương đã làm rất tốt vai trò thay mặt vua cha thống trị các phiên, vì Minh Thái Tổ không tin tưởng ngoại thần, và bảo vệ biên cương tốt khỏi sự xâm lược của các lực lượng Mông Cổ.

Năm 1370, Chu Lệ được phong làm Yên vương (燕王), được Minh Thái Tổ giao quyền lực nắm giữ thành Bắc Bình, khu vực quan trọng tạo tiền đề cho việc giành ngôi hoàng đế của ông sau này.

Năm 1380, Chu Lệ và gia đình của ông chuyển từ thủ đô Nam Kinh đến Bắc Bình, nó từng là thủ đô của Triều đại người Mông CổTrung Hoa, có kích thước tương tự như Hoàng cung ở Nam Kinh, so với các Hoàng tử anh em của ông, ông được nhận vùng đất phong có điều kiện tốt nhất cho phát triển. Ông đã tạo ra xung quanh mình một hệ thống quan lại tương đương với 1 triều đình độc lập. Hơn nữa, bên cạnh có tướng Từ Đạt, cha vợ của ông, thành Bắc Bình có vị trí quan trọng và được mở rộng để làm các căn cứ quân sự chính ở phía bắc.Từ đó, ông đã thực hiện nhiều chiến dịch thành công chống lại quân Mông Cổ dọc theo biên giới. Từ Đạt bệnh nặng vào năm 1384 và được gọi trở lại Nam Kinh, ông giao lại cho con trai thứ quyền chỉ huy 30 vạn quân, kế tục lòng trung thành của ông với Yên vương Chu Đệ.

Bắc Bình được tổ chức tốt trong 19 năm Chu Đệ nắm quyền. Tuy nhiên các chiến thắng của quân Minh ở phía bắc dưới thời Hồng Vũ không phải do Chu Đệ, mà do người họ hàng bên vợ của thái tử là đại tướng Lam Ngọc chỉ huy.

Lam Ngọc trong quân đội Nhà Minh chỉ đứng sau các danh tướng khai quốc như Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân. Ông vốn được ví như Vệ Thanh nhà Hán, Lý Tĩnh nhà Đường do có công đánh dẹp người Mông Cổ, mở rộng bờ cõi nhưng do kiêu ngạo nên bị Thái Tổ ghét. Chu Đệ biết cha không thích Lam Ngọc bèn dùng kế, vu oan cho Lam Ngọc mưu phản. Thái Tổ vốn có ý giết Ngọc, sai Cẩm Y Vệ vào cuộc, bắt giữ cả nhà Lam Ngọc rồi tru di chín họ cùng 2 vạn người. Thái tử mất đi một người ủng hộ hùng mạnh, còn Chu Đệ thì không còn đối thủ trong quân đội Nhà Minh ở phía bắc. Đây cũng là tiền đề để Chu Đệ cướp ngôi sau này, khi triều đình không còn danh tướng nào so được với ông.

Năm 1392, Hoàng thái tử Chu Tiêu con cả của Minh Thái Tổ qua đời, là người mà Minh Thái Tổ có ý định truyền ngôi, và sau đó ý định lập người kế vị của Minh Thái Tổ trở nên thất thường, khó đoán. Ông không tin tưởng nhiều vào các con trai và với cả Chu Đệ. Mối quan hệ của Chu Đệ với cha ông vẫn được giữ vững, nên Chu Đệ chờ đợi để xem ai sẽ được chỉ định kế nhiệm. Trái với kỳ vọng, cha ông đã chọn cho cháu nội là Chu Doãn Văn (Minh Huệ Đế).

Năm 1398, Minh Thái Tổ qua đời và cháu nội của ông là Thái tôn Chu Doãn Văn lên ngôi, tức Minh Huệ Đế. Triều đình mới có một khởi đầu tồi tệ khi Minh Huệ Đế cấm cả chú ruột Chu Đệ tham dự lễ tang của cha mình ở Nam Kinh. Khi Chu Đệ mang quan quân về kinh viếng cha, bị quân triều đình chặn lại ở Hoài An với lý do 3 vị vương tử con ông đã được tân hoàng giữ lại thủ hiếu giùm ông, bắt ông phải quay về Bắc Bình. Chu Đệ phải quay về trong nhục nhã. Ông lúc đó đã khóc nói: "Cùng là cốt nhục chí thân, sao lại làm nhục ta quá vậy?". Sau khi Chu Đệ về đến nhà thì cáo bệnh giả ốm, không lâu sau thì "phát điên" để tránh bị nghi ngờ bởi hoàng đế vì ông là phiên vương lớn mạnh nhất và để bảo đảm an toàn cho 3 người con trai.

Triều đình của Huệ Đế có những nghi ngại về sức mạnh của các ông chú vì họ nắm giữ các vùng đất được phong như các vương quốc với sức mạnh quân sự lớn và nguồn lực tài chính dồi dào. Huệ Đế và các đại thần của ông đã tìm cách cải cách hệ thống đế quốc và tiêu diệt sức mạnh của hoàng tử. Nhưng điều này chắc chắn đã gặp sự kháng cự của các hoàng tử. Chu Đệ là thành viên hoàng tộc có sức ảnh hưởng lớn nhất trong các hoàng thân quốc thích, và ông cho rằng mình mới là người xứng đáng thừa kế ngôi vị hoàng đế.

Đoạt vị, giành ngôi

Bài chi tiết: Chiến dịch Tĩnh Nan

Cổng thành Nam Kinh

Mở màn Tĩnh Nan chi dịch

Sau khi Chu Đệ cố gắng kiến nghị với hoàng đế ở Nam Kinh, nhưng đã thất bại, Chu Đệ đã tìm cách giải cứu 3 người con trai đang làm con tin ở kinh thành. Khi biết tin các con đã an toàn thoát khỏi tay hoàng đế, ông đã quyết định hành động. Năm 1399, ông tuyên bố chiến tranh với lý do rằng đó là " Cứu vua cháu khỏi sự thao túng của bọn quan lại tiếm quyền". Cuộc nội chiến bắt đầu rất thuận lợi cho Huệ Đế. Ông có nhiều quân và tài chính mạnh hơn và một vị trí chiến lược tốt hơn. Quân đội triều đình đã tấn công đến Bắc Bình một cách khá nhanh chóng, nhưng Bắc Bình phòng thủ tốt trước những cuộc tấn công dữ dội.

Triều đình bắc phạt

Minh Thành Tổ quan sát các hoạn quan triều đình đang chơi cuju, một trò chơi cổ xưa của Trung Quốc tương tự như bóng đá.

Vì các tướng lĩnh biết cầm quân đã bị Minh Thái Tổ giết sạch, việc chọn chủ tướng là một mối lo với triều đình.[2] Không có chọn lựa khác, triều đình cử lão tướng Cảnh Tinh Văn lúc đó đã 65 tuổi làm chủ soái và dẫn theo 13 vạn đại quân lên phía bắc. Một tướng dưới quyền Cảnh Tinh Văn đầu hàng Chu Đệ và thông báo cho Chu Đệ vị trí của Cảnh Tinh Văn. Chu Đệ cho viên tướng đó quay lại và nói cho Cảnh Tinh Văn biết rằng quân Yên đang đến và nên chuẩn bị giao tranh. Ngày 25 tháng 8, Chu Đệ bất ngờ tập kích quân triều đình. Bản thân Chu Đệ đích thân chỉ huy tấn công vào bên cánh của quân Minh và đánh bại Cảnh Tinh Văn. Hơn 3,000 người hàng Chu Đệ, số còn lại chạy về Chân Định. Chu Đệ dẫn quân đánh Chân Định nhưng không hạ được. Ngày 29 tháng 8, quân Yên rút về Bắc Bình.

Khi biết tin thua trận, Minh Huệ Đế rất lo lắng. Hoàng Tử Trừng tiến cử Tào quốc công Lý Cảnh Long, vốn là cháu ngoại Thái Tổ, làm chủ tướng và được chấp nhận bất chấp sự phản đối của Tề Thái. Lý Cảnh Long dẫn theo 50 vạn đại quân tiến đến Hà Gian. Lúc này quân triều đình ở Liêu Đông tấn công Vĩnh Bình, Chu Đệ đem quân đi cứu và đánh lui quân triều đình. Nhân đà thắng lợi, Chu Đệ tấn công Đại Ninh, sáp nhập quân đội của Ninh vương. Lý Cảnh Long nghe tin Chu Đệ đi Liêu Đông liền hạ lệnh tấn công Bắc Bình. Có lần quân triều đình đã suýt phá được thành nhưng Lý Cảnh Long vì nghi ngờ nên đã hạ lệnh lui quân. Thời tiết tháng 10 ở Bắc Bình rất lạnh, Chu Cao Sí buổi tối sai người đổ nước lên tường thành, ngày hôm sau đã đóng băng làm quân triều đình không tấn công được. Quân triều đình là người phía nam nên không chịu được cái lạnh phía bắc. Chu Đệ đem quân về cứu Bắc Bình và đã đánh bại Lý Cảnh Long tại ngoại vị Bắc Bình vào tháng 11. Lý Cảnh Long thua chạy về Đức Châu, quân triều đình thương vong hơn 10 vạn người.

Tháng 4 năm 1400, Lý Cảnh Long tập hợp được 60 vạn quân và lần nữa tiến về phía bắc. Ngày 24 tháng 4, quân Yên và quân triều đình chạm trán nhau. Quân Yên ban đầu bị phục kích nên thua chạy. Quân triều đình đặt địa lôi trên đường khiến quân Yên tổn thất nặng. Ngày hôm sau, quân triều đình tấn công vào cánh của quân Yên, Chu Đệ tự thân chống trả bằng cách tấn công vào trung quân của Lý Cảnh Long và được sự hỗ trợ từ viện quân của Chu Cao Sí. Lúc này một cơn gió to làm gãy cờ chủ soái của Lý Cảnh Long khiến quân triều đình hoang mang gây ra hỗn loạn. Chu Đệ nhân cơ hội toàn lực phản kích, đánh bại quân triều đình. Hơn 10 vạn người theo hàng Chu Đệ và Lý Cảnh Long lại chạy về Đức Châu. Quân Yên sau đó đánh hạ Đức Châu. Lý Cảnh Long chạy về Tế Nam, quân Yên đuổi theo bao vây Tế Nam. Lý Cảnh Long phải chạy về Nam Kinh. Mặc dù thua trận, thiệt quân và bị triều thần đàn hặc, Lý Cảnh Long vẫn được tha chết.

Một quan viên của Minh Huệ Đế đã hiến kế ly gián, Huệ Đế nghe theo, sai sứ giả mang tiền tài đến Bắc Bình, vốn đang được trấn thủ bởi con trưởng của Chu Đệ là Chu Cao Sí, cùng với lời hứa nếu giao nộp Bắc Bình sẽ được giữ lại tước vị Yên Vương và được thế tập về sau. Biết tính cha đa nghi, Chu Cao Sí bắt ngay sứ giả và đem cả người lẫn vật đến giao cho Chu Đệ ngoài tiền tuyến. Chu Đệ cho chém sứ giả, lại đem tiền đó thưởng cho Chu Cao Sí để khen thưởng vỗ về, bảo đảm cho hậu phương vững chắc. Chu Đệ còn cho người tung tin rằng mình là con đẻ của Mã Hoàng hậu để hợp pháp việc thừa kế ngai vàng. Ông còn phao tin rằng chính mình mới là người được Thái Tổ chọn để truyền ngôi nhưng đã bị Chu Tiêu và những kẻ ủng hộ cản trở.

Công phá kinh thành

Chu Đệ sau đó đã thay đổi chiến lược quân sự. Đầu tiên, ông đặt trọng tâm quân đội vào kỵ binh Mông Cổ. Trong khoảng thời gian 20 năm nắm quyền tại miền Bắc Trung Quốc, có nhiều bộ lạc Mông Cổ đã đầu hàng và hết lòng trung thành với ông. Thời gian đầu cuộc chiến nhờ lực lượng này đã giúp ông sống sót các cuộc tấn công của triều đình. Nhưng lực lượng tinh nhuệ này không thể chịu được sự tấn công của kỵ binh hoàng gia. Điều thứ hai, trái với quân của Chu Đệ chỉ huy, quân của Huệ Đế giành được sự trung thành rất lớn từ quân đội và trong nhân dân. Điều thứ ba, thay vì tấn công Nam Kinh, nơi có phòng thủ tốt thì Chu Đệ lại dẫn quân về phía Tây. Trận chiến xảy ra nhưng quân của Huệ Đế đã không thể đánh bại Chu Đệ.

Nhờ vào tin tình báo từ các tướng lĩnh và hoạn quan bị Huệ Đế ngược đãi, Chu Đệ đã lập nên một chiến thuật đánh-và-chạy vào các kho lương dọc suốt Đại Vận Hà, trong khi tránh giao tranh trực tiếp với đại quân triều đình. Cho đến năm 1402, quân của Chu Đệ đã tấn công và cướp phá Từ Châu, Tô Châu và Dương Châu. Vào mùa xuân năm 1402, Chu Đệ chọc thủng phòng tuyến quân sự và dẫn quân xuống phía Nam sông Dương Tử khi bí mật mua chuộc người bên phe hoàng đế. Nhờ tướng Trần Tuyên phản bội, Chu Đệ đã nắm được trong tay hạm đội sông Dương Tử và dễ dàng vượt sông. Ngày 13-7-1402 cổng thành Nam Kinh mở do sự phản bội của Lý Cảnh Long và một người em cùng cha khác mẹ của Chu Đệ là Cốc Vương Chu Huệ. Trong lúc hỗn loạn, cung điện đã bị đốt cháy, Chu Đệ tìm thấy 3 xác chết cháy đen không còn nhận dạng được nên mọi người cho rằng Huệ Đế tự sát cùng hoàng hậu và con trai cả (nhưng cũng có truyền thuyết cho rằng xác chết cháy là giả, còn Huệ Đế thật thì đã bỏ trốn bằng đường hầm và mai danh ẩn tích từ đó).

Các quần thần đều cùng nhau tôn ông làm hoàng đế, ban đầu ông từ chối để tỏ lòng khiêm nhường, Chu Đệ đồng ý rằng năm sau sẽ lấy là Vĩnh Lạc nguyên niên. Chu Đệ làm lễ lên ngôi 4 ngày sau, 17-7-1402, ở tuổi 42 sau khi đi viếng thăm nơi chôn cất của cha mình là Minh Thái Tổ.

Thanh trừng

Giai đoạn cai trị của Huệ Đế đã bị xóa bỏ trong các hồ sơ lịch sử, thời gian bị thiếu chỉ đơn giản là thêm vào thời kỳ Minh Thái Tổ. Đầu tiên, hoàng đế mới Chu Đệ thực hiện thanh trừng trên quy mô lớn, tất cả các đại thần và gia đình họ. Phần lớn của các quan lại bị loại bỏ. Nhiều người tự tử, vì họ khinh miệt Minh Thành Tổ cướp ngôi. Một vấn đề lớn là hai người con trai còn lại của Huệ Đế và ba anh em của Chu Đệ. Để loại bỏ kẻ địch tiềm năng, họ đã bị hành hình. Hai vạn người đã trở thành nạn nhân của cuộc thanh trừng.[3] Người anh trai cả đã mất của Chu Đệ là Chu Tiêu, vốn được Huệ Đế truy tôn làm hoàng đế cũng bị ông giáng xuống làm Ý Văn Thái tử.

Án "giết 10 họ" của Phương Hiếu Nhụ

Thảm án "giết mười họ" của Phương Hiếu Nhụ dưới thời Chu Đệ vẫn thường được nhắc tới như bi kịch gia tộc đẫm máu nhất trong lịch sử Trung Quốc. Đây cũng là một trong những sự việc khiến vị Hoàng đế thứ ba của Nhà Minh là Minh Thành Tổ Chu Đệ bị hậu thế đánh giá là "tàn bạo", "hám sát".

Tương truyền rằng, một quan viên trung thành của Huệ Đế là Phương Hiếu Nhụ, vốn được coi là bậc đại nho đương thời. Khi Nam Kinh đã bị công phá, Chu Đệ sau khi sai người dập tắt lửa trong cung, bèn triệu văn học sĩ Phương Hiếu Nhụ đến khởi thảo chiếu thư để mình lên kế vị. Phương Hiếu Nhụ là trung thần của Kiến Văn Vương, ông mặc bộ đồ tang vừa đi vừa khóc bước vào điện, không thi lễ mà chỉ đứng khóc. Chu Đệ thấy vậy nói rằng: "Ta cũng là noi gương Chu Công phù trợ Thành vương mà thôi". Phương Hiếu Nhụ ngừng khóc hỏi Thành vương hiện ở đâu, thì Chu Đê nói đã bị lửa thiêu chết rồi. Phương Hiếu Nhụ lại hỏi: "Thế sao không lập con của Thành Vương?". Chu Đệ đáp: "Nhà nước đang cần một ông vua đứng tuổi". Phương Hiếu Nhụ giận dữ quát lên rằng: "Thế sao không lập em của Thành Vương?".

Chu Đệ không biết đối đáp ra sao, liền bước xuống điện đến trước mặt Phương Hiếu Nhụ nói rằng: "Đó là việc trong nhà ta, tiên sinh hà tất phải hao tâm tốn sức ". Bấy giờ, người hầu đem giấy bút ra, Chu Đệ nói rằng: "Việc viết chiếu thư, phi tiên sinh không có người nào khác". Phương Hiếu Nhụ giật lấy giấy bút, viết lên chữ "Yên tặc soán ngôi" rồi quăng bút xuống thềm điện, vừa khóc vừa nói rằng "Chết thì thôi, chứ đừng hòng mong tôi viết chiếu thư ". Chu Đệ nổi giận quát lên rằng: "Ta không để ngươi chết ngay được, chẳng lẽ ngươi không sợ ta Tru di cửu tộc (giết cả chín họ) ư?". Phương Hiếu Nhụ cũng gân cổ lên nói rằng: "Tru di thập tộc đã làm gì được ta nào".

Lúc này, Chu Đệ đã trở lại ngồi trên ngai vàng, cơn giận bốc lên liền ra lệnh cho vệ sĩ dùng dao to cắt môi của Phương Hiếu Nhụ, vết dao rạch đến tận mang tai. Sau đó, Chu Đệ lại sai người bắt gia quyến cửu tộc, cộng thêm cả học trò của Phương Hiếu Nhụ nữa là thành ra "thập tộc", cả thảy 873 người bị lôi đến chém chết ngay trước mặt Phương Hiếu Nhụ, Phương Hiếu Nhụ cố ghìm nước mắt, sau đó ông bị lôi ra xử lăng trì ở ngoài Tụ Bảo Môn, bấy giờ mới có 46 tuổi.

Các đại thần khác của Kiến Văn Đế

Thiết Huyền là Binh bộ thượng thư của Kiến Văn Đế bị bắt vào điện. Chu Đệ ngồi trên ngự tọa, Thiết Huyền đứng quay lưng ở dưới cho đến khi chết cũng không quay lại nhìn Chu Đệ. Chu Đệ sai người cắt mũi và tai Thiết Huyền, đem nấu chín rồi nhét vào miệng ông hỏi rằng: "Thịt có ngọt không?". Thiết Huyền lớn tiếng đáp: "Thịt của trung thần hiếu tử làm sao lại không ngọt". Tức thì, Chu Đệ ra lệnh cắt mạch cổ tay ông, Thiết Huyền miệng cứ chửi rủa mãi cho đến chết. Chu Đệ tức giận, lại bắt cả cha mẹ Thiết Huyền đã ngoài 80 tuổi phát vãng đi Hải Nam làm khổ dịch, giết chết hai đứa con mới hơn 10 tuổi của ông, đồng thời đưa vợ và hai con gái ông giao cho nhà chứa để đàn ông mặc sức chà đạp.

Còn Tề Thái, Hoàng Tử Trình cũng bị xử lăng trì và Tru di tam tộc.

Lưu Đoan là người chủ trì chùa Đại Lý đã bỏ trốn rồi sau bị bắt dẫn đến trước điện, Chu Đệ hỏi rằng: "Phương Hiếu Nhụ là người thế nào ?". Lưu Đoan cười đáp: "Là trung thần". Chu Đệ lại hỏi: "Còn ông bỏ chùa chạy trốn có coi là trung thần không?".Lưu Đoan cứng cỏi đáp: "Tôi cũng vì muốn sống để sau này báo thù mà thôi". Chu Đệ nổi giận liền sai người cắt mũi và tai Lưu Đoan, rồi cười hỏi Lưu Đoan máu me đầy mặt rằng: "Bây giờ ngươi mặt mũi thế này còn coi là người nữa không?". Lưu Đoan đáp: "Khuôn mặt ta là mặt trung thần hiếu tử, chết xuống âm phủ còn có mặt mũi gặp thái tổ hoàng đế". Chu Đệ càng thêm bực tức, liền vung gậy đập chết Lưu Đoan.

Chu Đệ cả thảy đã giết hơn 10 nghìn trung thần của Kiến Văn Đế cùng gia quyến, trong lịch sử chưa từng có vụ tàn sát quan lại đối phương quy mô như vậy. 22 năm sau, khi Chu Cao Sí con trai của Chu Đệ lên nối ngôi, mới hạ chiếu phế bỏ kiếp nô lệ cho gia quyến của các trung thần triều đại Kiến Văn Đế.

Thảm án ni cô

Theo "Minh sử" ghi lại, vào tháng 2 năm Vĩnh Lạc thứ 18, Đường Trại Nhi (quê ở Bồ Đài, Tân Châu, Sơn Đông) đã quy tập mấy ngàn giáo đồ Bạch Liên giáo, khởi nghĩa vũ trang chống lại triều đình. Vụ việc này đã dấy lên phong trào khởi nghĩa nông dân ở Sơn Đông, nhưng bởi quy mô nhỏ, thời gian tồn tại ngắn, nên không gây nhiều tác động đối với giai cấp cầm quyền, thậm chí còn không được ghi lại trong sách giáo khoa ngày nay.

Tuy nhiên, lúc bấy giờ, Hoàng đế Chu Đệ lại "vô cùng khiếp sợ", chẳng những phái ra 5000 quân tinh nhuệ từ kinh sư, mà còn đặc biệt huy động biệt đội kháng Oa (kháng Nhật) ở duyên hải Sơn Đông để trấn áp cuộc khởi nghĩa nhỏ bé này. Dưới sự đàn áp đẫm máu của triều đình, khởi nghĩa chỉ duy trì chưa đầy 3 tháng. Nhưng sự biến mất một cách bí ẩn của nữ hiệp Đường Trại Nhi lại tiếp tục trở thành nguyên nhân của "thảm án ni cô" sau đó.

Để tiêu trừ thù hận trong lòng, cũng nhằm mục đích "diệt cỏ tận gốc", Chu Đệ đã quyết định "giết một người để răn trăm người". Minh Thành Tổ hạ lệnh truy nã Đường Trại Nhi, tiến hành điều tra bách tính, dân thường trên phạm vi rộng lớn. Tuy nhiên, tung tích của nữ hiệp họ Đường vẫn "lặn tăm" một cách bí ẩn.

Lúc bấy giờ, có người liền tố giác với Chu Đệ: chỉ có kẻ đã trà trộn vào Phật môn mới có thể trốn tránh được quan quân triều đình! Hơn nữa, khi phất cờ khởi nghĩa, Đường Trại Nhi từng tự xưng là "Phật mẫu", khiến Chu Đệ càng tin vị nữ hiệp này có liên quan tới cửa Phật.

Năm Vĩnh Lạc thứ 18 (1420), Minh Thành Tổ Chu Đệ đột nhiên hạ lệnh bắt tất cả các ni cô và nữ đạo sĩ ở Sơn Đông, Bắc Kinh về kinh sư để thấm vấn, xác minh thân phận. Mặc dù mệnh lệnh được ban hành trên danh nghĩa "thẩm vấn", nhưng triều đình nhiều lần lạm dụng nhục hình, thậm chí còn bắt tay với tầng lớp hòa thượng để đẩy những phụ nữ xuất gia vào cảnh "sống không bằng chết".

Tháng 7 cùng năm, Minh Thành Tổ phong cho Đoàn Minh làm Tả tham chính Sơn Đông, tiếp tục truy tìm tung tích của Đường Trại Nhi. Để lập công với Thành Tổ, Đoàn Minh mở rộng phạm vi điều tra ra cả nước, làm liên lụy tới mấy vạn phụ nữ đã xuất gia, tu hành. Sự kiện này đã từng được ghi lại trong "Minh sử": "Tháng hai năm Vĩnh Lạc thứ 18, Đường Trại Nhi người Sơn Đông làm phản nhưng không bắt được, triều đình liền bắt giữ hàng vạn phụ nữ xuất gia."

Cho tới khi nhắm mắt xuôi tay, Chu Đệ vẫn chưa thể bắt giữ nữ hiệp Đường Trại Nhi. Minh triều thấy hành động tróc nã này quá mất lòng dân nên mới dừng lại. Tuy vậy, "thảm án ni cô" đã gây nên bi kịch không chốn dung thân cho hàng vạn ni cô, đạo sĩ, thậm chí tước đi sinh mạng của hơn một ngàn người. Đây được xem là "vụ án ni cô" chấn động nhất trong lịch sử Trung Quốc, phá vỡ sự thanh tịnh của Phật giáo đã được duy trì cả ngàn năm tại nước này.

Chính sách đối nội

Giống như cha mình Chu Nguyên Chương, Chu Đệ là một vị hoàng đế chăm chỉ và nghiêm khắc. Ông không đắm mình vào xa hoa chốn cung đình mà luôn thể hiện là người năng động và táo bạo.

Tượng đồng của Hoàng đế Vĩnh Lạc. Đây là bản sao của bức tượng đá gốc đã bị phá hủy trong Cách mạng Văn hóa.

Lại trị

Sau khi tàn sát các quan lại cũ của Minh Huệ Đế, chính quyền trung ương có những thiếu sót rất lớn về quan viên. Minh Thành Tổ vì vậy rất khao khát những người đọc sách có tài nguyện ý ra giúp mình. Ngay khi lên ngôi ông đã hạ lệnh mở ân khoa tuyển chọn sĩ tử vào triều làm quan để lấp các chỗ trống, tuy nhiên ông cũng rất khắt khe với việc gian lận. Thời Hồng Vũ, Minh Thái Tổ vì ít đọc sách nên không đặt nặng việc khoa cử, chỉ bổ nhiệm các thân tín, Thành Tổ cho cải cách khoa cử để hấp dẫn tầng lớp trí thức ra sức làm quan giúp mình. Ông đặt rất nhiều tâm huyết vào việc tuyển chọn nhân tài, thậm chí ông còn có những nguyên tắc riêng khi dùng người. Mặc dù là người độc đoán, Vĩnh Lạc cũng chứng tỏ mình là người sáng suốt và khôn ngoan khi biết tiếp thu có chọn lọc ý kiến của các cố vấn.

Để giúp đỡ cho công việc của hoàng đế, Minh Thành Tổ đã cho thành lập một cơ quan mới là Nội các tập hợp các đại thần thân tín với người đứng đầu được gọi là Thủ phụ. Nội các sẽ giúp hoàng đế quản lý Lục bộ và các sự kiện quan trọng của đế quốc, chia sẻ và giảm bớt gánh nặng cho hoàng đế. Đây là việc không bao giờ xảy dưới triều Minh Thái Tổ, một người độc tài và không bao giờ tin tưởng thần tử của mình. Tuy nhiên đây cũng là tác hại lớn, khi các hoàng đế đời sau từ Anh Tông bắt đầu sa vào hưởng lạc, không quan tâm triều chính nên không còn giữ được sự khống chế với Nội các. Quyền lực của Nội các càng lúc càng lớn, có quyền bổ nhiệm quan viên, kiểm soát ngân khố và thậm chí là điều động quân đội. Người đứng đầu Nội các, sau hoàng đế, mới là người thực sự điều khiển đất nước như Nghiêm Tung hay thậm chí lấn át cả hoàng đế như Trương Cư Chính. Đây là một trong những điều dẫn đến sự suy vong của Nhà Minh. Thành Tổ còn là một vị vua nghiêm khắc với quan lại tham nhũng, trừng phạt họ giống như cha mình là Thái Tổ. Quan viên tham ô 60 lượng bạc thì chém đầu, nhiều hơn thì lột da.

Kinh tế

Sau 4 năm chiến tranh tranh giành ngai vàng, đất nước đã phải hứng chịu nặng nề những hậu quả của chiến tranh, nhân khẩu giảm mạnh, làng mạc ruộng đồng bị phá hủy. Đất nước phải đối mặt với sự suy giảm cả về kinh tế và dân số. Tân hoàng đế Vĩnh Lạc có những kế hoạch lâu dài và phổ thông để tăng cường và ổn định nền kinh tế mới, nhưng trước hết ông phải loại bỏ những kẻ bất đồng. Hoàng đế tạo ra một hệ thống kiểm duyệt phức tạp, cách chức các tham quan tung tin đồn bất lợi với nền kinh tế. Để tăng cường nền kinh tế và chống sự suy giảm dân số, Vĩnh Lạc cho thu hồi đất đai để ban phát lại cho dân nghèo đã mất đất trong chiến tranh, giảm thuế ở các vùng bị tàn phá nặng nề nhất. Việc làm này đã giúp ông sử dụng nhiều nhất lực lượng lao động có thể, và tối đa hóa sản lượng dệt may và nông nghiệp. Ông tuy là người tàn bạo nhưng trong những năm ông trị vì, dân số đã khôi phục và phát triển, số lượng người chết vì đói rét rất ít.

Minh Thành Tổ bất đồng ý kiến với cha mình về thương nghiệp. Nếu như hoàng đế Hồng Vũ là người bài xích giai cấp thương nhân, ra lệnh bế quan tỏa cảng ức chế thương nghiệp thì Vĩnh Lạc lại cho mở cửa, xây cảng biển và cho thái giám thân tín của mình là Trịnh Hòa thực hiện các chuyến du hành ra đại dương để tìm các đối tác thông thương và khám phá ra các vùng đất mới. Điều này đã tăng thêm thu nhập cho đế quốc, phục vụ cho các công trình xây dựng tốn kém và các cuộc chinh phạt quy mô.

Các công trình xây dựng

Minh Thành Tổ cho thực hiện cuộc tái thiết lớn Đại Vận hà, trong những năm ông trị vì công trình Đại Vận hà gần như đã được hoàn thành và Đại Vận hà được dùng để di chuyển các hàng hóa nhập khẩu đến từ khắp nơi trên thế giới. Việc này cũng giúp cho giao thông phát triển, lương thực từ phía nam có thể dễ dàng vận chuyển ra phía bắc đảm bảo cho các cuộc chinh phạt Mông Cổ của hoàng đế.

Việc tiếp theo của Minh Thành Tổ là muốn dời đô về phía bắc mà kinh đô chính là Bắc Bình, thủ phủ cũ của ông khi còn là Yên vương, mặc dù vấp phải nhiều sự phản đối của các đại thần, phần nhiều là do tổ huấn của vua cha Thái Tổ phải định đô ở Kim Lăng để tránh sự xâm lược từ Nhung Địch phía bắc. Nhưng sau khi được một số tướng lĩnh khuyên can rằng Kim Lăng nằm ở vị trí dễ bị công phá bởi pháo binh và không tin tưởng vào hệ thống phòng thủ của thành phố do nhìn vào tấm gương của Minh Huệ Đế, cộng thêm tư tưởng: "Thiên tử thủ biên cương", Vĩnh Lạc vẫn quyết định dời đô về Bắc Bình và cho đổi tên là Bắc Kinh (hay Yên Kinh) còn Kim Lăng đổi thành Nam Kinh. Nam Kinh vẫn có Lục bộ riêng và được trấn thủ bởi em vợ của hoàng đế, con trai út của đại tướng khai quốc Từ Đạt. Ở Bắc Kinh, Minh Thành Tổ cho thực hiện một mạng lưới công trình đồ sộ, một nơi mà có thể đặt được các cơ quan chính phủ và là nơi cư trú cho các thành viên hoàng thất. Để thực hiện công trình này Minh Thành Tổ đã cho huy động hơn 10 vạn dân phu, và sau 13 năm (1407-1420), Tử Cấm thành đã được hoàn thành và trở thành thủ đô cho hai đế quốc Minh-Thanh trong 500 năm tiếp theo.

Trong khi Minh Thái Tổ muốn bản thân và con cháu được chôn ở Hiếu lăng, Nam Kinh thì việc dời đô của Thành Tổ đã làm xuất hiện một việc cấp thiết là phải kiến tạo một lăng mộ hoàng gia mới. Sau khi được cố vấn bởi các thầy địa lý phong thủy, Minh Thành Tổ chọn một vùng đất phía bắc thành Bắc Kinh làm nơi xây dựng mộ phần của mình và các hoàng đế tiếp theo. Trong hơn 200 năm tiếp theo, 13 vị hoàng đế Nhà Minh đã được chôn cất tại đây.

Văn hóa

Năm Vĩnh Lạc thứ 2 (1403), Thành Tổ cho người biên soan một bộ bách khoa toàn thư, lấy tên là Vĩnh Lạc đại điển, với chủ biên là Thủ phụ đầu tiên của Nhà Minh là Giải Tấn, một học giả tài danh đương thời cùng với 147 học giả khác. Bộ sách được biên soạn với mục đích gìn giữ bảo vệ văn hóa và văn học Trung Quốc bằng chữ. Đến năm 1408, bộ sách được hoàn thành, trở thành bách khoa toàn thư đầu tiên của thế giới và là bộ sách đồ sộ nhất của thể loại này, tuy nhiên vì quá to lớn, nên bộ sách không được in ra mà chỉ có một bản duy nhất, đến nay đã gần như mất dần với thời gian.

Minh Thành Tổ còn là người khoan dung với các tư tưởng triết học khác với mình (nhà vua là người theo đạo Khổng Mạnh), đối xử bình đẳng với các tôn giáo Phật-Đạo-Nho. Mặc dù các nho sinh đương thời xem ông là kẻ đạo đức giả, việc đối xử khoan dung và bình đẳng tôn giáo đã giúp ông có được sự yêu quý của nhân dân, củng cố sự thống nhất đế quốc. Việc xem trọng văn hóa truyền thống đã dấy lên làn sóng căm ghét văn hóa Mông Cổ còn sót lại ở Trung Quốc, hoàng đế xem việc ăn mặc, đặt tên, nói năng như người Mông Cổ là rác rưởi và ra lệnh cấm tiệt. Đạo Hồi dưới triều ông cũng rất phát triển, nhà vua đã ra lệnh xây thêm 2 nhà thờ Hồi giáo để truyền giáo. Ông được nhân dân đương thời gọi là "Vị Phật năng động".

Triệt phiên

Sau khi lên ngôi, nhận biết được tác hại của các phiên vương đối với hoàng quyền mà chính bản thân mình là ví dụ điển hình và thành công nhất, Thành Tổ quyết tâm triệt phiên. Nhưng rút được bài học từ Minh Huệ Đế triệt phiên quá vội vàng, thậm chí là mất hết nhân tính khi tru diệt nhiều phiên vương và không cân nhắc các biện pháp quân sự tương xứng, cũng như không muốn đế quốc mới thống nhất lại bị chia cắt và tàn phá bởi thêm một cuộc nội chiến nữa, Thành Tổ sử dụng các biện vỗ về an ủi các vương ngoài mặt nhưng ngấm ngầm thực hiện các mưu đồ suy yếu các phiên. Các phiên vương dần bị bãi bỏ binh quyền và thu giảm đất phong trong suốt thời kỳ trị vì của Thành Tổ. Cuối cùng các phiên vương trở thành những kẻ sống xa hoa lãng phí, ăn no nằm chờ chết và trở thành gánh nặng của đế quốc.

Ninh Vương Chu Quyền, người em thứ 17 của Thành Tổ, là một trong những đồng minh trung thành nhất và góp nhiều công lao trong việc giành lấy ngai vàng cho vua anh. Lực lượng của Ninh Vương là mạnh nhất sau Yên Vương thời đó, nên Thành Tổ lúc khởi sự đã hứa khi sự thành sẽ cùng hưởng chung thiên hạ với NInh Vương. Tuy nhiên khi lên ngôi, nhà vua đã ép Ninh Vương phải rời bỏ đất phong và chuyển về một vùng đất nghèo nàn hơn và bị bãi bỏ binh quyền. Ninh Vương chết trong uất ức, còn con cháu ông cũng mang lòng bất mãn với triều đình. Đỉnh điểm là hậu duệ Chu Thần Hào của Ninh Vương nổi binh làm phản dưới thời Chính Đức của Minh Vũ Tông, tuy nhiên đã bị đàn áp và thất bại, dòng dõi của Ninh Vương bị giết hết và biến mất.

Trị an

Khi thành Nam Kinh bị phá, Minh Huệ Đế đốt cung điện và Thành Tổ sai người tìm thấy một xác chết cháy đen không nhận biết được nên Thành Tổ nghi ngờ rằng Huệ Đế dùng kế kim thiền thoát xác và đang lẩn trốn trong dân gian. Thành Tổ lên ngôi lập tức hạ lệnh tái lập cơ quan mật vụ đầy tai tiếng dưới thời cha mình là Cẩm Y Vệ. Nhiệm vụ của Cẩm Y Vệ là bắt giữ và tra tấn các quan viên trung thành với Minh Huệ Đế, giám sát và có quyền bắt giữ các quan viên bị nghi ngờ là mang lòng phản nghịch, nhưng trọng yếu nhất là tìm và diệt "Kiến Văn dư đảng" bao gồm cả Huệ Đế dù sống hay chết. Cẩm Y Vệ được Thành Tổ giao cho một tướng lĩnh thân cận đã lập được nhiều công lao trong Tĩnh Nan chi dịch là Kỷ Cương làm Cẩm Y Vệ Chỉ huy sứ. Kỷ Cương ỷ được Thành Tổ yêu quý nên hoành hành ngang ngược, không việc ác nào không làm, thậm chí còn lén sai người chọn trong các tú nữ dâng lên cho hoàng đế để cướp những người đẹp nhất về cho mình.

Trái ngược với cha mình là Thái Tổ và người tiền nhiệm là Huệ Đế, những người mang ác cảm với hoạn quan, còn treo bảng hoạn quan can chính thì giết không tha, Thành Tổ lại cực kỳ tín nhiệm hoạn quan, vì nhờ các hoạn quan bị Huệ Đế ngược đãi đã bán tin mật của triều đình cho Thành Tổ, còn đem dâng Nam Kinh cho Thành Tổ. Khi Kỷ Cương dính vào án mưu phản, Kỷ Cương xin Thành Tổ niệm tình công lao bao năm nay, xin được chịu chết một mình và xin hoàng đế tha cho cả họ. Thành Tổ ban đầu cũng mủi lòng, nhưng khi nghe bọn tay chân của Kỷ Cương báo lại các việc làm của hắn trong đó có việc cướp tú nữ, Thành Tổ giận lắm, sai người tru di hết chín họ của Kỷ Cương, bản thân Kỷ Cương và đứa cháu bị lăng trì cắt từng miếng thịt. Qua sự việc này, Thành Tổ thấy Cẩm Y Vệ quyền hành lớn quá, che cả tai mắt nhà vua nên quyết định lập thêm một cơ quan mật vụ nữa để phân quyền với Cẩm Y Vệ. Năm Vĩnh Lạc thứ 18 (1420), Thành Tổ cho thành lập Đông Tập Sự xưởng, gọi tắt là Đông Xưởng, do một hoạn quan thân tín đứng đầu, gọi là Xưởng công. Đông Xưởng cũng có nhiệm giám sát bách quan, truy bắt và tiêu diệt các phần tử phản nghịch với thêm một nhiệm vụ trọng yếu nữa là cùng Cẩm Y Vệ giám sát lẫn nhau. Việc này đã mở màn cho hoạn quan bước lên vũ đài chính trị, khi các nha môn của triều đình dần rơi vào tay hoạn quan, còn các hoạn quan được phái đi trấn thủ khắp các nơi trên đất nước. Việc tranh chấp giữa Xưởng và Vệ, các quan lại sĩ lâm và lực lượng hoạn quan vô tình đã đẩy Nhà Minh vào bờ vực bất ổn rồi đến suy yếu và diệt vong, khi các quân chủ đời sau không còn đủ khả năng để kiểm soát hoàn toàn các lực lượng này. Các hoạn quan Nhà Minh đã vì lợi ích bản thân mà làm suy yếu đế quốc điển hình là Vương Chấn, Uông Trực, Lưu Cẩn và nổi tiếng nhất vì đã trực tiếp làm Nhà Minh đi đến bờ diệt vong là Ngụy Trung Hiền.

Chính sách đối ngoại

Một con hươu cao cổ châu Phi được quốc vương Bengal tặng cho Minh Thành Tổ. Theo một số thuyết thì kỳ lân được cách điệu theo con hươu cao cổ này

Mông Cổ

Mông Cổ tuy đã bị Minh Thái Tổ đuổi ra khỏi Trung Quốc từ năm 1368 nhưng vẫn là một kình địch đáng gờm của nhà Minh. Quân Mông Cổ du mục vẫn còn gây ra một số bất ổn cho Nhà Minh. Vĩnh Lạc đã chuẩn bị để loại trừ mối đe dọa này. Ông sửa chữa hệ thống phòng thủ phía Bắc và xây dựng đội quân liên minh ở vùng đệm với Mông Cổ. Chiến lược của ông là để buộc người Mông Cổ vào phụ thuộc kinh tế vào Trung Quốc và tiến hành tiến đánh định kì vào Mông Cổ để làm tê liệt sức mạnh của họ. Ông thậm chí còn thành công trong việc buộc Mông Cổ trở thành một chư hầu Nhà Minh, và tiến hành cô lập người Mông Cổ. Thông qua chiến đấu, Minh Thành Tổ đã đánh giá cao tầm quan trọng của kỵ binh trong chiến trận và đã dành nhiều nguồn lực để phát triển nó. Minh Thành Tổ dành cả đời để đánh Mông Cổ, có cả thắng thua, tuy nhiên qua các cuộc chinh phạt này biên giới Nhà Minh được mở rộng và trong lần chinh phạt thứ 2 đã giúp cho Đại Minh có được hòa bình ở phía bắc trong bảy năm. Ông thực hiện 5 cuộc viễn chinh vào sa mạc GobiSiberia và nghiền nát những tàn tích còn sót của Triều đại Nhà Nguyên, sau khi chúng đã bỏ chạy xa về phía bắc do bị đánh bại bởi Chu Nguyên Chương, diễn ra từ năm 1410 đến năm 1424.

Lần thứ nhất

Nhà Minh gửi sứ giả đến Đông Mông Cổ đòi nước này phải thần phục và cống nạp cho Nhà Minh. Năm 1409, Bunyashiri[4] thủ lĩnh Đông Mông Cổ cho chém sứ giả Nhà Minh. Ngược lại, Mahmud của Ngõa Lạt Mông Cổ (Tây Mông Cổ) lại cho sứ thần đến cống nạp cho Nhà Minh vào năm 1408. Nhà Minh đã lợi dụng mối quan hệ này một cách thành công trong việc chống lại Đông Mông Cổ.

Mùa đông năm 1409, Vĩnh Lạc triệu tập quân đội, trưng thu lương thảo chuẩn bị cho chiến tranh. Tháng ba năm 1410, nhà vua rời khỏi Bắc Kinh với 10 vạn đại quân, 3 vạn xe chở lương thảo. Khi đến bờ bắc sông Kerulen, hoàng đế cho khắc vào đá:"Năm Vĩnh Lạc thứ 8, Hoàng đế nhà Đại Minh đã qua đây với 6 đạo quân để chinh phạt bọn kẻ cướp Man Di".

Bunyashiri muốn bỏ chạy khỏi quân Minh, nhưng Arughtai không đồng ý nên hai thủ lĩnh Mông Cổ mang theo quân của mình đi theo 2 hướng khác nhau. Quân Minh đuổi theo Bunyashiri, đánh bại và tiêu diệt gần hết đội quân này, tuy nhiên Bunyashiri trốn thoát với một số cận vệ. Sau đó, quân Minh đuổi theo và đánh bại Arughtai, còn Arughtai cũng trốn thoát được quân Minh. Vĩnh Lạc hoàng đế trở về Bắc Kinh vào tháng 9.

Arughtai sau khi bị đánh bại, vì sợ sức mạnh quân sự của Nhà Minh và muốn có hàng hóa qua buôn bán nên đồng ý thần phục và cống nạp cho Nhà Minh. Còn Bunyashiri bị quân Ngõa Lạt bắt và giết vào năm 1412.

Lần thứ hai

Triều đình nhà Nhà Minh ngày càng coi thường và có thái độ tiêu cực với Ngõa Lạt. Minh Thành Tổ từ chối khen thưởng cho Mahmud và quân Ngõa Lạt, những người đã chiến đấu chống lại Bunyashiri và Arughtai. Mahmud ngày càng tức giận vì bị coi thường bởi vua Minh và đã bắt giữ sứ đoàn Nhà Minh, nên Vĩnh Lạc phải phái một hoạn quan đến đảm bảo an toàn và phóng thích cho sứ đoàn.

Cảm thấy bị đe dọa, Mahmud đã huy động 3 vạn quân Ngõa Lạt Mông Cổ tiến đến sông Kerulen chống lại Nhà Minh vào năm 1413. Cuối năm đó, Arughtai thông báo cho Nhà Minh là Mahmud đã vượt sông Kerulen chuẩn bị khai chiến với quân Minh. Tháng 4 năm 1414, Vĩnh Lạc xuất quân khỏi Bắc Kinh để đối đầu với Ngõa Lạt. Quân Minh tiến đến Kerulen, và gặp phải quân Ngõa Lạt ở thượng nguồn sông Tula. Quân Ngõa Lạt bị choáng với các cuộc pháo kích của pháo binh Nhà Minh nên bị tổn thất nghiêm trọng và buộc phải rút lui. Mahmud trốn thoát cùng với Delbek, một khả hãn bù nhìn. Vĩnh Lạc khải hoàn về Bắc Kinh vào tháng 8.

Arughtai viện cớ bị bệnh nên không tham gia cuộc chiến, còn Mahmud muốn nối lại hòa bình với Nhà Minh, mặc dù Vĩnh Lạc nghi ngờ sự trung thực của Mahmud. Dù sao, vào năm 1416, Mahmud và Delbek đã bị Arughtai tấn công và giết chết.

Lần thứ ba

Arughtai muốn nhận được phần thưởng của mình vì đã cung cấp tình báo cho quân Minh. Tuy nhiên, Vĩnh Lạc chỉ ban cho Arughtai và mẹ mình tước hiệu chứ không phải các đặc quyền kinh tế. Việc này khiến Arughtai ngày càng thù địch Nhà Minh và bắt đầu tấn công các thương đoàn phía bắc Trung Quốc. Năm 1421, Arughtai ngừng gửi cống nạp cho Nhà Minh. Năm 1422, Arughtai tấn công và phá hủy một vài pháo đài phía bắc Nhà Minh. Việc này đã buộc Nhà Minh phải chuẩn bị cho cuộc chinh phạt thứ 3.

Ở triều đình Nhà Minh, các đại thần của Minh Thành Tổ khuyên can ông không nên động binh vì quốc khố sẽ trở nên trống rỗng. Vĩnh Lạc bỏ ngoài tai những lời này, trong số các vị thượng thư khuyên can, 1 người tự sát còn 2 người thì bị bỏ ngục.

Tháng 4 năm 1422, Minh Thành Tổ khởi 23 vạn đại quân từ Bắc Kinh tiến đến Dolon, nơi Arughtai đang đóng trại. Quân Minh gây hoảng sợ cho Arughtai, kẻ bị buộc phải tránh giao chiến với quân Minh và rút vào thảo nguyên. Quân Minh đáp trả bằng các cuộc cướp bóc vào trại của Arughtai. Tình huống bực bội này đã làm cho Vĩnh Lạc chuyển hướng tấn công và cướp bóc đẫm máu sang bộ tộc Urianghai, trong khi bộ tộc này không hề dính dáng đến sự thù địch của Arughtai. Những kiểu tấn công này được lập lại trong các chiến dịch sau. Quân Minh trở về Bắc Kinh vào tháng 9.

Lần thứ tư

Năm 1423, Minh Thành Tổ phát động một đòn tấn công phủ đầu vào lực lượng của Arughtai vào tháng tám. Tuy nhiên Arughtai lại tránh giao chiến với quân Minh. Ésen Tugel, một tướng lĩnh của Đông Mông Cổ đã đầu hàng Nhà Minh. Quân Minh về Bắc Kinh vào tháng 12.

Lần thứ năm

Arughtai tiếp tục các cuộc tấn công cướp bóc vào Khai Bình và Đại Đồng. Năm 1424, Minh Thành Tổ đáp trả bằng cách phát động chiến dịch thứ 5 đánh Mông Cổ, ông tập hợp quân đội ở Bắc Kinh và Tuyên Phủ, vào tháng tư thì khởi binh đánh Arughtai. Cũng như các lần trước, Arughtai tránh giao chiến với quân Minh và lui về thảo nguyên. Các tướng lĩnh Nhà Minh đề nghị truy kích Arughtai bằng cách thọc sâu vào thảo nguyên Mông Cổ nhưng Minh Thành Tổ, lúc này đã già, cho rằng làm vậy là quá sức mình, đã hạ lệnh lui quân.

Đại Ngu - Đại Việt

Giao Chỉ (miền Bắc Việt Nam) dưới sự chiếm đóng của nhà Minh
Triều Minh Trung Quốc dưới Triều đại Vĩnh Lạc (1424)

Đại Việt, với tên gọi mới Đại Ngu từ năm 1400, là một vấn đề hóc búa trong suốt Triều đại của Minh Thành Tổ. Năm 1406, Minh Thành Tổ chính thức đáp lại các thỉnh cầu từ Trần Thiêm Bình - người xưng là dòng dõi Nhà Trần đã bị Nhà Hồ lật đổ năm 1400. Ông sai tướng Hoàng Trung đem 10 vạn quân hộ tống Trần Thiêm Bình về nước. Quân Đại Ngu chặn ở biên giới nhưng bị quân Minh đánh tan; không lâu sau, một cánh quân Đại Ngu khác đánh úp quân Minh. Hoàng Trung phải nhượng bộ xin giao nộp Trần Thiêm Bình cho nhà Hồ bắt giết để được mở đường rút quân về nước.

Để đáp lại sự sỉ nhục này, Minh Thành Tổ đã sai Trương Phụ, Mộc Thạnh đem 21 vạn quân (nói phao lên thành 80 vạn) xâm lược Đại Ngu. Quân Minh liên tiếp thắng trận, bắt được vua Hồ Hán Thương và thượng hoàng Hồ Quý Ly. Nhà Hồ hoàn toàn sụp đổ vào năm 1407 và nhà Minh chính thức giành quyền đô hộ nước Việt, mở ra thời kỳ Bắc thuộc lần 4. Trung Quốc đã bắt đầu âm mưu đồng hóa một cách lâu dài. Vĩnh Lạc cho người đốt hết những sách vở, phá hủy những bia đá có khắc văn tự của người Việt, bắt những thợ thủ công có tay nghề cao người Việt thiến đi rồi đưa về Trung Quốc để phục dịch, lại đàn áp, tăng sưu thuế bắt người Việt phải phục dịch quân Minh. Nhưng những nỗ lực đó vấp phải sự kháng cự mạnh mẽ của người Việt. Nhiều cuộc nổi dậy nổ ra chống lại các bộ máy cai trị của nhà Minh. Minh Thành Tổ đã điều các tướng Mộc Thạnh, Trương Phụ sang dẹp các cuộc cuộc khởi nghĩa mà lớn nhất ban đầu là phong trào của các quý tộc nhà Trần cũ là Trần NgỗiTrần Quý Khoáng. Sau khi họ Trần thất bại, vào đầu năm 1418 một cuộc nổi dậy lớn do Lê Lợi khởi xướng. Do thời gian Minh Thành Tổ qua đời đúng vào năm 1424, các lực lượng người Việt dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi đã chiếm gần như toàn bộ lại vương quốc. Năm 1427, Minh Tuyên Tông đã từ bỏ những nỗ lực bắt đầu bởi ông nội của ông và chính thức thừa nhận nền độc lập của Việt Nam với điều kiện nước Đại Việt phải chấp nhận tình trạng chư hầu và phải cống nạp người vàng tượng trưng cho tướng Liễu Thăng bị giết ở ải Chi Lăng mỗi lần đi sứ. Tuy nhiên, vai trò và thanh thế của nhà Minh trong khu vực cũng từ đó mà đi xuống, bởi sự lớn mạnh của nước Việt mới ở phương Nam đã cắt đứt ảnh hưởng của nhà Minh xuống vùng Đông Nam Á.

Timurid

Timur Lenk sau khi đã thành lập nên đế quốc Timurid của mình, bắt đầu lên kế hoạch chinh phục Trung Quốc. Vì việc này ông đã thành lập liên minh với nhà Bắc Nguyên và cho bắt giữ một phái đoàn của Nhà Minh. Tháng 12 năm 1404, Timur phát động một chiến dịch quân sự chống lại Nhà Minh, tuy nhiên quân đội của ông đã phải hứng chịu cái lạnh và dịch bệnh ở bờ sông Sihon, nơi ông đóng quân. Đó là một trong những mùa đông khắc nghiệt nhất trong lịch sử, tương truyền quân của Timur đã phải đào sâu mấy chục thước vào lòng đất để tìm nước. Bản thân Timur mất vì bệnh ở trong quân vào tháng 2 năm 1405, trước khi đến được biên giới Trung Quốc. Chiến dịch bị hủy bỏ và phái đoàn Nhà Minh được trả về.

Tây Tạng

Năm 1403, Minh Thành Tổ cho gửi sứ giả và lễ vật đến Tây Tạng để mời Deshin Shekpa, người đứng đầu phái Kagyu, đến thăm kinh đô của mình, có vẻ như nhà vua đã mơ thấy Quán Thế Âm. Sau một chuyến hành trình dài, Deshin Shekpa tới Nam Kinh vào năm 1407, cưỡi trên một con voi thẳng tới cung điện nơi có hàng vạn nhà sư chờ để đón ông.

Deshin Shekpa khuyên hoàng đế rằng có nhiều tôn giáo khác nhau cho những người khác nhau, có nghĩa là không tôn giáo nào tốt hơn tôn giáo nào. Nhiều người còn cho rằng đã thấy điềm lành trên trời khi Deshin Shekpa ở tại Nam Kinh. Deshin Shekpa còn thực hiện một số nghi lễ cho hoàng gia. Minh Thành Tổ đã tặng ông rất nhiều vàng lụa.

Ngoài vấn đề tôn giáo, Minh Thành Tổ còn muốn thành lập một liên minh với Tây Tạng, thậm chí còn muốn gửi quân đến giúp thống nhất Tây Tạng dưới trướng của phái Kagyu nhưng Deshin Shekpa từ chối vì lúc này một phần Tây Tạng vẫn còn nằm dưới quyền những người ủng hộ Nhà Nguyên. Năm 1408, Deshin Shekpa rời khỏi Nam Kinh về Tây Tạng.

Những cuộc thám hiểm của Trịnh Hòa

Vì mong muốn mở rộng ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa ra khắp thế giới, Minh Thành Tổ đã tài trợ cho các chuyến thám hiểm hoành tráng và dài hạn của Trịnh Hòa. Trong khi thuyền buôn Trung Hoa tiếp tục đến Nhật Bản, Lưu CầuĐông Nam Á trước và sau thời Vĩnh Lạc, các chuyến đi của Trịnh Hòa là những chuyến thám hiểm thế giới quan trọng duy nhất bằng đường biển của Trung Quốc. Chuyến thám hiểm đầu tiên do Trịnh Hòa chỉ huy khởi hành vào năm 1405, 18 năm trước khi Henry Nhà hàng hải bắt đầu các chuyến du hành khám phá của người Bồ Đào Nha. Bảy chuyến thám hiểm diễn ra từ năm 1405 đến 1433, đoàn thám hiểm đã đến các trung tâm thương mại của châu Á thời đó. Một số chiếc thuyền được coi là thuyền chèo bằng gỗ lớn nhất trong lịch sử nhân loại.

Năm 1406, Minh Thành Tổ cảm thấy kinh hãi khi người Lưu Cầu cho thiến nhiều bé trai để đưa đến phục vụ cho hoàng đế. Vĩnh Lạc trả lại những đứa bé này, nói chúng vô tội và không đáng bị như thế, lại hạ lệnh cho người Lưu Cầu sau này không được làm thế nữa. Sau cái chết của Timur, kẻ định xâm lược Trung Hoa, quan hệ ngoại giao giữa Nhà Minh và Shakhrukh, vua của Ba Tư và Transoxania đã được cải thiện đáng kể. Hai nước đã cho trao đổi các phái đoàn chính thức vào một số dịp.

Các chuyến thám hiểm của Trịnh Hòa là những thành tựu vượt bậc về kỹ thuật và công tác hậu cần của Trung Hoa. Những người thừa kế của Minh Thành Tổ, Hồng HiTuyên Đức, lại cho rằng các chuyến thám hiểm này là gánh nặng với ngân khố quốc gia. Hoàng đế Hồng Hi cho chấm dứt các chuyến đi, tuy nhiên một chuyến thám hiểm cuối cùng được diễn ra vào những năm Tuyên Đức. Các hậu duệ của hoàng đế Tuyên Đức cho đè nén và hủy bỏ nhiều tư liệu, thông tin về các chuyến hải hành của Trịnh Hòa.

Qua đời

Chọn ngôi Thái tử

Minh Thành Tổ có bốn con trai, 3 người đầu được sinh bởi Từ Hoàng hậu, người con út chết non. Trong đó người con thứ 3 Chu Cao Toại tuổi nhỏ, nên ngôi Thái tử là cuộc tranh giành giữa người con trưởng Chu Cao Sí và con thứ là Chu Cao Hú. Chu Cao Sí dáng người mập mạp, lại hay bệnh tật từ nhỏ, tính tình lại hiền lành, thích đọc sách, trái ngược với Thành Tổ là người tàn nhẫn và hiếu võ nên vua không thích người con này. Chu Cao Hú lại giống cha, diện mạo khôi ngô, tính nóng nảy lại thích giết người, võ nghệ giỏi giang, không thích đọc sách, khi có loạn Tĩnh Nan, cầm quân một phía chống lại quan quân triều đình, lúc Thành Tổ gặp nguy từng lấy thân ra chắn cho cha, nên được vua rất yêu thích.

Thành Tổ lên ngôi, muốn lập con thứ, nhưng bị Từ Hoàng hậu và các đại thần phản đối, lý do là theo tổ chế phải lập trưởng không lập ấu, vả lại Cao Sí lúc chiến tranh ở hậu phương gìn giữ căn cứ trước quân triều đình, chi viện cho đại quân, công lao không kém Cao Hú, lại không phạm lỗi lầm, phải lập làm Thái tử. Vua còn do dự, các đại thần tâu rằng: "Xin hãy xem cháu của bệ hạ". Chu Cao Hú dòng dõi không vượng, ít con. Còn dòng Chu Cao Sí thì thịnh vượng, con trưởng của Cao Sí là Chu Chiêm Cơ tuổi nhỏ lại gan dạ, tính thông minh, giỏi cả văn võ. Thành Tổ không thích con trưởng nhưng lại cực kỳ quý đứa cháu này. Tương truyền 100 ngày trước khi Minh Thái Tổ mất, lúc ấy vợ của Chu Cao Sí đang mang thai, Yên Vương Chu Đệ nằm mộng thấy cha mình trao cho ông ngọc tỷ ám chỉ rằng ngôi vua sẽ thuộc về ông. Chu Đệ tỉnh dậy, cùng ngày Chu Chiêm Cơ (Minh Tuyên Tông sau này) ra đời, Chu Đệ cho rằng đứa bé là điềm lành, khi lớn lên lại thông minh gan dạ, Chu Đệ cho rằng đứa cháu chính là Thái Tổ đầu thai nên quý lắm. Khi nghe các đại thần tâu, vua quyết định ngay, lập Chu Cao Sí làm thái Thái tử.

Chu Cao Hú thấy vậy tức lắm, bàn mưu với Kỷ Cương muốn học cha mình, đem quân tạo phản. Mưu mô bị phát giác, Kỷ Cương bị tru di, còn Chu Cao Hú bị bắt đến trước mặt Thành Tổ. Vua giận lắm, muốn giết Cao Hú. Thái tử lại niệm tình anh em, xin tha chết cho Cao Hú, vua liền mắng Thái tử là đồ lòng dạ đàn bà nhưng quả thật không nỡ giết con. Chu Cao Hú lại lập lời thề độc nếu mang lòng phản nghịch nữa thì bị ném vào vạc dầu. Vua bèn hỏi cháu là Chu Chiêm Cơ, lúc này mới hơn 10 tuổi: "Chú của cháu mang lòng phản, Trẫm ở đây nó không dám làm gì, Trẫm không còn nữa, nó lại mưu nghịch thì sao?", Chu Chiêm Cơ đáp rằng:"Cháu không sợ". Vua nghe thế vui lắm liền tha mạng cho Chu Cao Hú, nhưng bị biếm đi làm Hán Vương ở Vân Nam. Sau này vào thời Tuyên Đức, Chu Cao Hú lại muốn làm phản, Chu Chiêm Cơ đích thân dẫn quân đến bắt được, hành quyết mấy người con trai của Hán Vương cùng mấy trăm quan viên. Còn Chu Cao Hú thì bị trói vào cột mà thiêu tới chết cho ứng với lời thề.

Hậu cung

Từ hoàng hậu

Từ Hoàng hậu

Trong cuộc đời Minh Thành Tổ Chu Đệ có bốn người con gái mà ông vô cùng sủng ái. Họ đều là những người mỹ nhân tài đức vẹn toàn, nhưng có lẽ người có công lớn nhất khiến một đại hoàng đế xuất chúng như Chu Đệ cả đời kính trọng, yêu thương và thương nhớ chính là Từ Nghĩa Hoa, Từ hoàng hậu. Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương có giao tình tốt với Từ Đạt, muốn hậu đãi nhà họ Từ, bèn gả Từ thị cho Chu Đệ. Chu Đệ kính trọng và yêu thương Từ vương phi không chỉ bởi tài hoa, đức hạnh, mà nàng chính là người có công lớn giúp Chu Đệ xây dựng thành công đế nghiệp. Nhưng bất hạnh Từ Hoàng hậu mắc bệnh mất sớm để lại sự đau đớn tiếc thương vô hạn cho hoàng đế Chu Đệ.

Từ Diệu Cẩm

Nàng là con gái thứ ba của Ngụy Quốc Công Từ Đạt, người có công lớn trong đại nghiệp khai quốc của triều Minh. Nàng tài mạo còn vượt cả Từ hoàng hậu - chị gái mình. Từ hoàng hậu là mỹ nhân được Chu Đệ vô cùng yêu thương sủng ái. Nhưng bất hạnh thay, vào năm thứ năm Vĩnh Lạc, bà qua đời. Chu Đệ đã không chọn ai mà nhất nhất muốn đón nàng Từ Diệu Cẩm tiến cung để lấp chỗ trống cho chị gái mình làm mẫu nghi thiên hạ.

Từ Diệu Cẩm vốn vô cùng căm ghét và coi thường con người độc ác tàn bạo của Chu Đệ nên nàng đã từ chối những người được Chu Đệ phái đến. Việc đến đó tưởng là xong. Không ngờ vài hôm sau đích thân Chu Đệ đến gặp nàng. Chu Đệ nhìn kỹ nàng, thấy nàng tuy ăn mặc giản dị, trang điểm sơ sài nhưng nét đẹp vẫn tỏa sáng ngời ngời. Ngay từ giây phút đó, Chu Đệ biết rằng mình đã yêu Từ Diệu Cẩm, muốn ở bên cạnh nàng, muốn lập nàng làm hoàng hậu không phải vì nàng là em gái của Từ hoàng hậu nữa. Nhưng Diệu Cẩm đã không hề có chút gì để ý với Chu Đệ ngay từ đầu và nàng không đáp nhận tình cảm của vua. Nàng chỉ bày tỏ rằng từ nhỏ tuy sống trong cảnh giàu sang phú quý, nhưng nàng không ham danh lợi, không cầu vinh hoa, quyết chí tu hành, trọn đời không xuất giá. Trước thái độ cương quyết của nàng, Chu Đệ đành phải chấp nhận và thề không lập ai làm hoàng hậu nữa để báo đáp Diệu Cẩm. Sau này, khi nàng qua đời, nàng được Chu Đệ an táng theo nghi lễ hoàng hậu.

Quyền phi

Sau có người con gái Triều Tiên dâng lên cho vua, xinh đẹp lại thông minh, vua yêu lắm, lập làm Quyền phi. Quyền phi là con gái của Quyền Vĩnh Quân, làm chức Công tào Điển thư của nước Triều Tiên. Xuất thân trong gia đình danh gia vọng tộc, là bậc ngàn vàng của gia đình thư hương, tự nhiên Quyền phi là bậc cao nhã, tài năng xuất chúng. Lại thêm dung mạo của cô rất xinh đẹp, dáng điệu thướt tha, là đại mỹ nhân nổi tiếng gần xa thời đó.

Bắt đầu từ triều Nguyên, người Triều Tiên đã bị Trung Quốc ép buộc tiến cống mỹ nữ. Đến đầu đời Minh vẫn như thế. Khi nhà Minh lập nước, trong hậu cung của Thái tổ Chu Nguyên Chương cũng có không ít phi tần là người Triều Tiên. Đến Minh Thành Tổ Chu Đệ cũng được sinh ra bởi một người phi tần đến từ Triều Tiên. Có lẽ ông ta mang trong mình một nửa huyết thống Triều Tiên, cũng có lẽ hy vọng tìm thấy hình ảnh của người mẹ đã mất trong ký ức thời niên thiếu của mình ở những mỹ nhân đến từ Triều Tiên. Sau khi Thành Tổ đăng cơ, không ngừng ra chiếu chỉ phái người đến Triều Tiên chọn mỹ nữ đưa vào cung. Quyền phi cũng đến cung đình Trung Quốc vào thời gian này.

Năm Vĩnh Lạc thứ 6, tức năm 1408, Minh Thành Tổ phái Nội sứ Hoàng Nghiêm cùng một số người đi sứ đến Triều Tiên, thưởng cho quốc vương Triều Tiên 1 vạn lạng vàng, 50 xếp lụa, 100 xe nhiễu và nhiều tặng phẩm khác, báo cáo rằng quốc vương Triều Tiên dâng ngựa cho triều đình Đại Minh. Đồng thời đoàn sứ này cũng yêu cầu Triều Tiên tuyển chọn các mỹ nữ trong cả nước, cống tiến tới Bắc Kinh để sung vào hậu cung. Vì thế quốc vương Triều Tiên hạ lệnh cấm các cuộc hôn nhân để tuyển mỹ nữ chuẩn bị tiến cống.

Khi đó, các vương công đại thần cho đến dân thường chẳng có ai mong muốn dâng con gái của mình dời nhà đến làm cung nữ ở một đất nước xa xôi cả ngàn dặm đường vì thế những người tuyển được đều là những cô gái không xinh đẹp gì. Hoàng Nghiêm xem qua một lượt những người đã tuyển được không vừa ý, ra lệnh cho triều đình Triều Tiên tuyển chọn đợt mới. Triều đình Triều Tiên phân cho các ti tuần sát tăng cường việc tuyển chọn, đồng thời thông cáo đến các quan phủ, phàm là con gái các hộ thứ dân, học trò, cho đến hương lại quan chức nếu có nhan sắc đều được tuyển dâng lên. Nếu như cố ý trốn tránh hoặc dùng các phương pháp kim châm, cắt tóc, dán thuốc để trốn tránh việc tuyển chọn thì đều bị xử lý theo luật pháp. Thông qua thủ đoạn cưỡng chế cuối cùng cũng tuyển chọn được những cô gái xinh đẹp.

Hoàng Nghiêm và những sứ thần triều Minh sau khi nhìn qua một lượt, chọn được 5 người trong danh sách đưa lên và người đứng đầu là Quyền phi, khi đó mới 18 tuổi. Những người khác là: con gái của Nhân Vũ Phủ Tả Ti Doãn Nhâm Thiêm Niên, Nhâm thị, 17 tuổi. Con gái của pháp quan phủ Cung An Lý Văn Mệnh, Lý thị, 17 tuổi. Con gái của Hộ quân Lữ Quý Chân, Lữ thị, 16 tuổi. Con gái của Phó ti chính Trung quân Thôi Đắc Phi, Thôi thị chỉ mới 14 tuổi. Không chỉ xuất thân là tiểu thư quý tộc xứ Triều Tiên, năm vị mỹ nữ này còn sở hữu nhan sắc "ngàn dặm khó tìm". Họ cùng với 12 thị nữ và 20 đầu bếp được đưa đến đô thành một đất nước xa xôi ngàn dặm. Khi rời khỏi nhà, cha mẹ họ hàng của những cô gái được tuyển chọn khóc không ngừng. Năm cô gái Triều Tiên được đem cống tiến, chốc chốc lại quay đầu, nước mắt không ngừng tuôn xuống, từ đó quê hương sẽ chỉ xuất hiện trong giấc mơ của họ, một cuộc phân ly mãi mãi!

Năm vị mỹ nhân vừa đặt chân tới hậu cung, Chu Đệ đã vô cùng cao hứng, lập tức phong cho các nàng tước vị cao quý.

Trong đó, Quyền thị được phong làm Hiền phi, cai quản việc lục cung, quyền lực tương đương Hoàng hậu. Nhâm thị là Thuận phi, Lý thị được sắc phong làm Chiêu nghi, Lữ thị là Tiệp dư và Thôi thị được tấn phong Mỹ nhân. Cha của họ đều được phong làm quan ngũ phẩm của triều Minh. Riêng cha của Quyền phi được phong làm Quang Lộc Tự Khanh (quan đứng đầu bộ phận lo yến tiệc) nhưng vàng bạc, ngựa quý vẫn do triều đình Triều Tiên cấp. Đồng thời với họ cũng có hai người Hán được sắc phong là Trương thị và Vương thị.

Trong 5 vị phi tần người Triều Tiên ở hậu cung của Minh Thành Tổ, Quyền phi được Hoàng đế Minh Thành Tổ sủng ái nhất. Miêu tả về vị mỹ nhân Cao Ly vừa tròn 18 tuổi này, "Minh sử - Hậu phi truyện" có viết: "Cung hiến Hiền phi họ Quyền, là người Cao Ly, tư chất hiền hòa, giỏi thổi ngọc tiêu, được Hoàng đế vô cùng yêu mến".

Lần đầu tiên khi Minh Thành Tổ nhìn thấy Quyền phi đã bị vẻ đẹp thanh nhã kỳ lạ của cô hấp dẫn. Thành Tổ hỏi Quyền phi có tài năng sở trường gì. Quyền phi cầm chiếc tiêu ngọc luôn mang theo mình thổi một bản nhạc, tiếng tiêu lúc trầm lúc bổng, du dương êm ái, Thành Tổ nghe bản nhạc như say như tỉnh, vì thế mới chọn Quyền phi ở trên các phi tần khác. Vì đương thời người cai quản hậu cung của Minh Thành Tổ là Từ phi đã chết nên Thành Tổ đã để Quyền phi nắm quyền cai quản hậu cung.

Quyền phi thông minh lại xinh đẹp, ưu nhã hơn người. Mỗi khi Thành Tổ bận hoàn thành việc triều chính, thân thể mệt mỏi đến cung của Quyền phi. Tiếng tiêu mỹ diệu của Quyền phi như một cơn gió xuân ấm áp khiến sự mệt mỏi của Thành Tổ tan biến. Từ sau khi Quyền phi vào hoàng cung triều Minh, một Hoàng đế quả cảm, cương nghị, nam tính mười phần như Thành Tổ đương nhiên là rất yêu một cô gái Triều Tiên yểu điệu, nồng nàn, xinh đẹp hiếm thấy như Quyền phi. Quyền phi không những chỉ được sủng ái nơi hậu cung mà còn luôn được ở bên Thành Tổ.

Tháng 10 năm Vĩnh Lạc thứ 8, tức năm 1410, Quyền phi theo Minh Thành Tổ đem quân chinh phạt Mông Cổ. Từ khi nhà Minh thành lập vùng biên giới phía Bắc luôn bị các thế lực tàn dư của quân Nguyên quấy nhiễu, xâm phạm biên giới nghiêm trọng. Từ cuối thời kỳ Hồng Vũ trở đi các bộ lạc Mông Cổ xảy ra nội chiến phân thành ba bộ phận lớn là Ngõa Lạt, Tác Ta và Ngột Lương. Đến khi Thành Tổ lên ngôi tiếp tục thực hiện sách lược cùng lúc tấn công phân hóa và phong thưởng ra ân, việc xâm phạm biên giới mới được yên ổn.

Năm Vĩnh Lạc thứ 5, thế lực của hậu duệ người Nguyên Bản Nha Thật Lý nổi dậy cùng với thái sư tộc Tác ta là A Lỗ Đài cùng nhau mưu đồ việc thống nhất Mông Cổ. Tháng 2 năm Vĩnh Lạc thứ 7, Chu Đệ phái sứ thần đến Tác ta, muốn cùng họ giao hảo. Không hề nghĩ đến việc sứ thần bị giết hại, Chu Đệ nổi giận, ngay tháng 7 năm đó đã phái Kỳ quốc công Khâu Phúc dẫn 10 vạn đại quân thảo phạt bộ tộc Tác ta. Vì không đánh giá đúng về lực lượng quân đội của Tác ta, lại thêm sự chỉ huy không thích hợp, mười vạn quân của nhà Minh bị chôn vùi ở dòng sông Lư Cù, tức sông Khắc Lỗ Luân. Để bảo vệ sự tôn nghiêm của Hoàng đế Đại Minh Chu Đệ đã trực tiếp thân chinh dẫn quân tấn công Tác ta. Thành Tổ dẫn 50 vạn đại quân tiến sâu vào vùng sa mạc phương Bắc, ở sông Oát Nan, tức sông Ngạc Nộn đã đại phá đại quân của Bản Nhã Thất Lý, cuối cùng quân của Bản Nhã Thất Lý chỉ còn bảy kỵ binh chạy về phía Tây.

Sau khi nhà Minh giành được thắng lợi đầu tiên, tiếng tiêu mỹ diệu của Quyền phi được truyền khắp vùng thảo nguyên ngàn dặm. Điều này khiến cho tinh thần của Minh Thành Tổ Chu Đệ phấn chấn bội phần, tiếp tục thừa thắng tiến lên, tiếp tục đại phá quân của A Lỗ Đài ở núi Hưng An. A Lỗ Đài phải mang vợ con chạy vào vùng núi sâu xa xôi của ngọn Hưng An. Chiến thắng này cũng đánh dấu sự kết thúc của chiến dịch Bắc phạt toàn thắng của vua quân triều Minh. Sau đó Chu Đề dẫn đại quân về triều.

Quyền phi theo Chu Đệ về kinh khi đến Lâm Thành Sơn Đông đột nhiên mắc bệnh nặng cuối cùng không chữa trị được mà mất. Năm đó Quyền phi mới 22 tuổi, có thể nói là hồng nhan bạc mệnh! Minh Thành Tổ mất đi người thiếp yêu, nhất thời không tránh được sự đau xót, sau đó vì quá thương xót mà bị bệnh. Minh Thành Tổ cho an táng Quyền phi ở huyện Dịch Sơn Đông còn hạ lệnh cho quan phủ cử người trông nom phần mộ, định sau này sẽ đưa hài cốt nàng về di táng trong lăng Từ hoàng hậu. Sau khi Quyền phi chết, Thành Tổ đối đãi rất hậu với những gia nhân của cô, đồng thời Chu Đệ cũng khắc cốt ghi tâm từ tiếng nói đến vẻ mặt của Quyền phi. "Triều Tiên Lý triều thực lục" có chép: sau khi Quyền thị qua đời, Vĩnh Lạc đế gặp anh trai của Hiền phi, "lúc ban lời, nước mắt lưng tròng, thở than thương cảm không nói được câu nào".

Cho tới khi về già, vị Hoàng đế này vẫn luôn hoài niệm về phi tần họ Quyền người Triều Tiên ấy mà than:

"Ta già rồi, ăn uống không thấy ngon nữa… Khi Hiền phi còn sống, thường dâng những món ăn hợp khẩu vị. Sau khi nàng qua đời, ngự thiện dâng lên lạnh lẽo, chẳng vừa ý chút nào!".

Sau khi Quyền phi qua đời, Chu Đệ cũng không điều tra nguyên nhân cái chết của nàng. Nhưng có lần, Hoàng đế tình cờ nghe thấy nữ tỳ của Quyền phi cãi vã cùng Lữ tiệp dư về cái chết của Quyền phi.

Biết được sự tình không hề đơn giản, Chu Đệ lập tức bắt giữ nữ tỳ cùng toàn bộ người trong cung của Lữ Tiệp dư để thẩm vấn.

Trong quá trình điều tra, Chu Đệ lại nghe được người tố cáo rằng Lữ Tiệp dư vì ghen tức nên đã thông đồng với hai hoạn quan Kim Đắc, Kim Lương lấy được từ một người thợ bạc một ít tỳ sương (thạch tín), nghiền thành bột rồi cho vào trà Hồ đào dâng Quyền phi uống nên nàng trúng độc mà chết.

Có giai thoại truyền lại rằng, mặc dù đều là người gốc Triều Tiên, nhưng Lữ phi năm xưa từng buông lời châm chọc Quyền phi. Mối quan hệ của hai người vì vậy mà chẳng có lấy nửa điểm tốt đẹp.

Vốn là Hoàng đế tàn bạo khét tiếng, lại đau đớn vì mất đi ái phi, Minh Thành Tổ Chu Đệ trong cơn thịnh nộ đã không cần điều tra, lập tức hạ lệnh giết chết 100 cung nữ và thái giám trong cung Lữ Tiệp dư, bắt các nội quan, thợ bạc giết sạch.

Về phần Lữ Tiệp dư, bản thân mỹ nhân Cao Ly này lại càng bị đối xử tàn bạo, bị dùng que hàn tra tấn suốt một tháng mới được ban chết.

Không chỉ vậy, Chu Đệ còn hạ lệnh bắt Hoàng đế Triều Tiên xử tử toàn bộ gia tộc của vị Tiệp dư họ Lữ này. Trong cơn giận ngút trời, Chu Đệ chẳng thèm điều tra kỹ, cứ mặc sức bắt giết bất chấp đúng sai.  

Mãi đến năm cuối của thời kỳ niên hiệu Vĩnh Lạc, sự thật mới được phơi bày, cho thấy đó là vụ án oan lớn khủng khiếp. Thì ra, năm xưa khi Quyền phi, Lữ Tiệp dư được vào cung, cũng có một Lữ thị khác là con gái một thương gia Trung Hoa được tuyển vào cung.

Để gây dựng phe cánh trong cung, Lữ thị này ở trong cung liên tục kết bè kết phái, lại thấy Lữ Tiệp dư cùng họ nên muốn kết thân để tăng thêm vây cánh, nhưng bị nàng cự tuyệt nên ghi hận trong lòng. Khi Quyền phi qua đời, Lữ thị biết thời cơ trả thù của mình đã đến, liền vu cáo cho Lữ Tiệp dư là kẻ chủ mưu giết người, gây nên thảm án oan khốc chấn động hậu cung Minh triều.

Nhưng dù sao thì Quyền phi vẫn chỉ là một phi tử đơn thuần. Hậu cung bấy giờ không hề thiếu giai lệ, vì sao một Hoàng đế nổi tiếng tàn bạo như Chu Đệ lại nặng lòng với nàng đến như vậy?

Theo lý giải của các sử gia, một phi tần ngoại quốc như Quyền phi sở dĩ có được sự sủng ái đặc biệt vốn là bởi nàng có tướng mạo rất giống người tình trong mộng của Hoàng đế - mỹ nhân Từ Diệu Cẩm, con gái của trọng thần Từ Đạt.

Năm xưa, Từ Đạt có tổng cộng 4 người con gái. Trong đó trưởng nữ của ông chính là Từ Hoàng hậu – chính thê của Chu Đệ.

Thế nhưng Vĩnh Lạc đế trước sau chỉ đem lòng ngưỡng mộ người em vợ Từ Diệu Cẩm. Cũng bởi vậy mà sau khi Hoàng hậu qua đời, ông liền nhanh chóng cầu hôn vị tiểu thư này. Từ Diệu Cẩm không cho nhà vua lấy một cơ hội, lập tức xuống tóc để xuất gia làm ni cô.

Vào năm Vĩnh Lạc thứ sáu, Chu Đệ lại vừa vặn gặp được Quyền phi với dáng dấp giống tình nhân trong mộng năm xưa của ông tới bảy phần.

Đó cũng là nguyên nhân khiến vị Hoàng đế bạo tàn và đa nghi ấy phá lệ cưng chiều nàng, thậm chí còn từng có ý định lập Quyền phi trở thành Hoàng hậu kế tiếp.

Mặc dù có được sự sủng ái của Hoàng đế, vị phi tử ngoại quốc này lại trở thành cái gai trong mắt không ít mỹ nhân chốn hậu cung. Chính điều này đã trở thành nguyên nhân khiến nàng phải bỏ mạng trong tức tưởi, cũng là lý do sâu xa dẫn đến thảm án đoạt mạng cả ngàn cung nhân.

Vương Quý phi

Sau khi Quyền phi chết một thời gian, Minh Thành Tổ cũng dần nguôi ngoai đau buồn. Trong hậu cung có Vương Quý phi dần dần đã thay thế được vị trí của Quyền phi và trở thành phi tử Minh Thành Tổ sủng ái nhất. Sử sách Trung Quốc cũng ghi chép rằng, đây là một phụ nữ hiền hậu, đức hạnh, quản lý êm xuôi mọi việc trong hậu cung nên được Hoàng đế dự định sắc phong làm hoàng hậu. Bình thường, sức khỏe của bà rất tốt. Đột nhiên một ngày, người phụ nữ này bị cảm phong hàn kèm theo đau bụng dữ dội. Sau khi được thái y chẩn bệnh và cho dùng thuốc, ngày đầu tiên bệnh tình của Vương quý phi có dấu hiệu chuyển biến tích cực.

Tuy nhiên, đến ngày hôm sau, tứ chi của bà trở nên lạnh toát, mất cảm giác. Thái y lập tức kê thang thuốc mới nhưng vừa uống xong, Vương Quý phi đột tử. Hoàng đế Chu Đệ nghe tin Vương quý phi chết kinh ngạc tột độ phải mất hồi lâu mới hồi tỉnh. Ông vừa ôm chặt lấy thi thể của Vương quý phi vừa khóc lóc vật vã. Đột nhiên, ông ta nổi cơn điên đứng phắt dậy hạ lệnh đánh chủ trị thái y 80 trượng lớn sau đó thì chặt đầu. Chưa dừng lại, ông ta còn hạ lệnh chém đầu hết hơn 200 người trong dòng tộc của vị thái y kia. Đồng thời, những người tiến cử vị thái y này chữa bệnh cho Quý phi cũng bị cách chức, điều tra.

Chủ trị thái y bị nghi ngờ có sử dụng thạch tín để hạ độc Vương quý phi, như vậy thạch tín được lấy từ đâu?

Thứ nhất: Lấy từ xưởng bạc của công bộ. Thứ hai: Lấy từ chùa Quang Lộc. Thứ ba: Lấy từ kính sự phòng và cuối cùng là từ ngự dược phòng của thái y viện. Xưởng đúc bạc đương nhiên cần phải sử dụng thạch tín để phân biệt bạc thật và bạc giả. Chùa Quang Lộc là nơi mua bán đồ cho nội cung, rất nhiều chuột nên thường dùng chút thạch tín trộn với thức ăn để bẫy chuột. Kính sự phòng phụ trách chế rượu độc ngự ban thì đương nhiên sẽ có thạch tín. Chỉ còn ngự dược phòng tại sao lại có thạch tín khó mà giải thích. Chu Đệ đã phê chuẩn cẩm y vệ đến các nơi này điều tra, cuối cùng những người có nghi ngờ liên quan đến vụ việc cũng đều bị bắt nhốt, tra khảo và chém đầu.

Sau khi tĩnh tâm, Chu Đệ đã cho gọi viện sử của thái y viện đến hỏi nguyên nhân dẫn đến cái chết của Vương quý phi. Viện sử cho rằng việc chủ trị thái y không nhầm khi kê đơn thuốc cho Vương quý phi. Sau khi nghe kỹ việc giải thích của viện sử viện thái y, Chu Đệ đã hiểu rằng thái y chủ trị không có lỗi gì trong cái chết của Vương quý phi nhưng người thì cũng đã giết rồi không làm được gì nữa.

Đúng lúc đấy Minh Thành Tổ nghe tin trong hậu cung phi tần Giả Lữ, Ngư thị và thái giám lén lút “thông gian”. Cơn thịnh nộ nổi lên, ông đã cho treo cổ Giả Lữ và Ngư thị. Đó là năm 1420. Chưa dừng lại đó, Minh Thành Tổ đích thân điều tra thị tỳ của Giả Lữ và phát hiện ra âm mưu kinh thiên động địa trong hậu cung, đó là có người đang tìm cách mưu sát hoàng thượng. Sợ tính mạng của mình cũng như người thân và thiên hạ của mình khó mà giữ được nên trong cơn tức giận điên cuồng, sự tàn bạo đã nổi lên, Chu Đệ với tôn chỉ thà giết nhầm vài nghìn người còn hơn bỏ sót 1 người đã quyết định thanh lọc toàn bộ hậu cung và cuộc thảm sát thứ hai đã xảy ra với cái chết của gần 2.800 cung nữ và thái giám. Ho đã bị khép tội mưu phản và xử tử bằng lăng trì. Màn thảm sát đẫm máu này kéo dài trong 3 ngày liên tiếp trước sự chứng kiến của Chu Đệ, có người trước khi chết còn chỉ mặt hoàng đế mắng chửi.

Khi mới xảy ra vụ án oan, các phi tần Triều Tiên như Nhâm thị, Trịnh thị đều tự thắt cổ tự tử, Hoàng thị, Lý thị bị xử chém...

Hoàng thị khi chết khai thêm nhiều người để họ đi theo, Lý thị thì nói: “Dù sao cũng chết, sao phải bắt người khác chết theo? Có chết thì mình ta chết” không khai gian thêm ai khác. Các người đẹp Triều Tiên hầu như bị giết hết, chỉ có mỗi Thôi thị khi đó ở Nam Kinh nên thoát…

Theo ghi chép trong “Lý triều thực lục”, khi các cung nữ bị giết hại, trời đang trong xanh bỗng dưng toàn bộ hoàng cung bị sấm sét bủa vây. Mọi người trong cung đều vui mừng hi vọng Chu Đệ thấy trời giận dữ mà dừng tay giết người nhưng ông ta vẫn không hề ngưng tay.

Sau khi Chu Đệ lạm sát mấy ngàn người thì 3 cung điện Phụng Thiên, Hoa Cái, Cẩn Thân bị sét đánh trúng, lửa cháy ngút trời, không thể cứu được, rất nhiều người bị thiêu thành tro trong biển lửa.

Cũng từ vụ “thảm án nhị cung” này, Chu Đệ bị lưu danh khát máu muôn đời. Đương nhiên, với nhiều người dưới triều đại đó, người bị hận hơn cả lại là vị thái y chữa bệnh cho Vương quý phi. Nếu như ông ta không khiến cho người đẹp này đột tử, thảm họa khủng khiếp, long trời lở đất này có thể đã không xảy ra.

Trên thực tế, thái y viện của Minh triều đã phát hiện ra việc thái y chữa trị chính cho Vương quý phi dùng thuốc độc trước khi thảm án xảy ra.

Tuy nhiên, vì thấy Hoàng đế đã cho giết cả gia tộc nhà người này, nên viện sử cho rằng việc này đến đây đã có thể khép lại, hơn nữa, cũng là vì muốn bảo toàn thể diện cho thái y viện, nên đã giấu nhẹm chuyện này, không báo lên nhà vua.

Thế mới thấy, sự chuyên quyền trong chế độ phong kiến Trung Hoa dã man và tàn bạo cỡ nào. Ngồi trên đầu thiên hạ, các ông vua Trung Hoa cho mình quyền sinh quyền sát người khác.

Không chỉ giết hại 3.000 người, những thảm án khác xảy ra dưới thời Vĩnh Lạc chính là bằng chứng “hạ bệ” Chu Đệ. Cùng với người cha tàn độc Chu Nguyên Chương, cha con họ Chu đã lưu tiếng xấu trong sử sách dù trên thực tế, cả hai đều là những người có tài và có công với Minh triều.

Qua đời

Khi về già Minh Thành Tổ rất dễ nổi giận và khó kiềm chế được tính khí của mình, thậm chí những lúc đó bản tính độc ác, tàn bạo trong ông lại trỗi dậy, cộng thêm với bệnh tật dày vò càng khiến ông ta trở nên vô cùng đáng sợ.

Năm 1424, Minh Thành Tổ lần thứ 5 xuất chinh đại mạc. Bất lực khi không thể đuổi theo kẻ địch nhanh nhẹn, Vĩnh Lạc đế từ bực bội chuyển sang trầm cảm, rồi thành bệnh mà chết khi đang hành quân về Bắc Kinh vào tháng 8 năm đó, thọ 64 tuổi. Tin ông mất được giữ kín, cho đến lúc về đến Bắc Kinh mới phát tang. Con trưởng ông là Thái tử Chu Cao Sí lên nối ngôi, tức là Minh Nhân Tông. Minh Thành Tổ được chôn cất ở Trường Lăng trong Minh Thập Tam Lăng, phía bắc Bắc Kinh.

Ngày Mậu Ngọ, tháng 10 năm Vĩnh Lạc thứ 22, hơn 30 phi tần được lựa chọn để tuẫn táng dùng cơm tại ngoài điện, sau đó được đưa vào trong điện, lúc này "tiếng khóc của các cung nữ rung cả cung điện". Trong điện đặt hơn ba mươi chiếc "giường gỗ nhỏ", những phi tần bị buộc đi vào cõi chết đó được lệnh đứng lên giường gỗ, trên đỉnh đầu họ là những sợi dây thừng để tự treo cổ đã chuẩn bị sẵn, "chui đầu vào cái vòng, đạp đổ giường, rồi nghẹt thở mà chết". Sau khi ăn cơm xong, những người này bị đưa vào điện đường, tuẫn táng cùng Hoàng đế, tiếng khóc than vang trời.

Nhận xét

Cuộc đời của Minh Thành Tổ là một sự truy cầu quyền lực, uy danh và vinh quang. Ông bị coi là phản nghịch, soán vị cháu của mình, nhưng đã chứng minh được bản thân xứng đáng là hoàng đế hơn, là một người có thể tiếp nối các di sản của Minh Thái Tổ. Ông trái lại với tổ huấn của vua cha, dời đô về bắc, mở cửa buôn bán, thực hiện các chiến dịch tấn công thẳng vào quân Mông Cổ nhưng triều Minh dưới thời ông hùng mạnh cả về kinh tế lẫn quân sự, bản đồ được mở rộng. Nhờ vào các cuộc hải trình của Trịnh Hòa, Trung Quốc biết được thêm nhiều vùng đất mới trên thế giới. Ông chăm chỉ làm việc để gìn giữ và phát huy văn hóa truyền thống Trung Quốc. Các cải cách của Thành Tổ về kinh tế, giáo dục và quân sự đem lại những lợi ích chưa từng có cho người dân và đất nước. Bản đồ Nhà Minh dưới thời Minh Thành Tổ là to lớn nhất, tuy nhiên sau khi ông mất thì nhân dân các nước bị đô hộ đó đều giành lại được lãnh thổ và độc lập. Quân đội Nhà Minh lúc cực thịnh dưới thời ông có hơn 1 triệu 2 trăm nghìn người, tuy nhiên đội quân này đã mất các khả năng thực hiện các chiến dịch phản công vì các quân chủ đời sau không biết gì về quân sự. Ông cũng đã đặt nền móng cho sự loạn chính của hoạn quan và chế độ gián điệp đã hàm oan bao nhiêu người, dẫn đến sự bất ổn và suy vong của Nhà Minh. Triều đại của ông được xem là một phước lành nhưng đầy máu tươi của nhân dân Trung Quốc.

Minh Thành Tổ giành được ngai vàng trên chiến trường nên vẫn thường được xem như là vị hoàng đế khai quốc thứ hai của Nhà Minh. Công lao của ông với đất nước, văn trị hay võ công, có thể so sánh với các vị đại đế như Tần Thủy Hoàng, Hán Vũ Đế, Đường Thái Tông, Tống Thái Tổ. Hoàng đế Khang Hy Nhà Thanh đã từng viết về Triều đại và sự cai trị của ông: "Trị long Đường Tống" (cai trị tốt hơn cả Đường Tống).

Cũng như cha mình là Thái Tổ, Thành Tổ được nhớ đến nhiều như một trong các bạo quân nổi tiếng trong lịch sử. Tuy nhiên khác với cha, ông không tru sát các công thần giúp mình giành thiên hạ mà vẫn trọng dụng họ. Khi biết ái phi của mình bị mưu sát, ông đã hạ lệnh lăng trì 3000 cung nhân phục vụ bị cho là có liên quan đến cái chết của ái phi và ngồi chứng kiến cuộc hành hình. Ông trọng dụng thái giám, một lệ không tốt khi các quân chủ đời sau không lo việc nước mà giao hết cho hoạn quan như Anh Tông, Hiến Tông, Vũ Tông và nổi bật là Hy Tông. Ông cho bắt bớ, tra tấn và tàn sát các quan viên trung thành với Huệ Đế và gia quyến của họ. Ông cũng tự biết mình tàn bạo quá, đã cho người đúc chuông Vĩnh Lạc để thể hiện sự ăn năn và hối hận, tuy nhiên khi chết ông cũng để lại chiếu bắt 30 cung nga xinh đẹp phải thắt cổ rồi bồi táng chung với ông. Bất chấp những điều này, Minh Thành Tổ Chu Đệ vẫn được xem như một kiến trúc sư và nhà gìn giữ văn hóa, lịch sử, chế độ và là một hoàng đế có ảnh hưởng lớn đối với Trung Quốc.

Gia quyến

  • Cha: Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương.
  • Mẹ: Hiếu Từ Cao hoàng hậu Mã thị (孝慈高皇后马氏, 1332 – 1382), người ở Túc Châu, kết tóc thê tử của Thái Tổ hoàng đế. Có thuyết Thành Tổ là con một phi tần vô danh, sau được Hoàng hậu nhận nuôi dưỡng.

Nghi án về mẹ của Minh Thành Tổ Chu Đệ

Sách “Minh Thái Tổ Thực Lục” do Minh Thành Tổ Chu Đệ sau khi lên ngôi chủ trì biên soạn cũng như các sử liệu chứng thích từ “Minh Sử” (Sử Nhà Minh) đều nói rằng, Chu Đệ là do Mã Hoàng hậu sinh ra. Đệ có ba người anh, tức Thái tử Chu Tiêu, Tần Vương Chu Sảng, Tấn Vương Chu Cương. Chu Đệ là con trai thứ 4 và bên dưới còn một người em cũng do Mã Hoàng hậu sinh ra là Chu Thu. Tuy nhiên, các văn nhân thời Minh và Thanh thì đều cho rằng, chính sử đã “bịa chuyện”, và mẹ ruột của Chu Đệ là Ngạc Phi.

Theo đó, những ghi chép về Ngạc Phi không còn nhiều, song nhiều người cho rằng, bà có thể là một hậu phi trong hậu cung Nhà Nguyên được Chu Nguyên Chương giữ lại làm chiến lợi phẩm sau khi đuổi được Nhà Nguyên ra khỏi Trung Quốc. Ngạc Phi có thể là người Mông Cổ, cũng có thể là người Cao Ly (Triều Tiên ngày nay). Tuy nhiên, có một điều chắc chắn rằng, Ngạc Phi chính là mẹ ruột của Chu Đệ chứ không phải Mã Hoàng hậu. Bằng chứng là trong gian thờ chính của Minh Hiếu Lăng có sắp xếp bài vị của Chu Nguyên Chương và các phi tần thì ở chính giữa là Chu Nguyên Chương và Mã Hoàng hậu, phía phải là Lý Thục Phi và hơn 20 người khác, trong khi phía bên trái chỉ có một mình Ngạc Phi.

Trong thời đại phong kiến, các hoàng đế chỉ truyền ngôi cho dòng đích (con trai vợ cả), chính vì thế, là con một thứ phi như Chu Đệ mà ngồi trên ngai hoàng đế là không chính danh. Chính vì vậy, sau khi Chu Đệ lên ngôi hoàng đế, có ý định sửa lại sử sách để mình trở thành con chính cung hoàng hậu nên không dám công khai nhận mẹ ruột của mình là Ngạc Phi nữa. Tuy nhiên, khi tế lễ, Chu Đệ vẫn muốn mẹ mình được hưởng đặc thù riêng nên mới để bài vị của mẹ ruột mình xếp ở bên trái bài vị của Chu Nguyên Chương. Bên cạnh đó, Chu Đệ còn tìm cách xóa tất cả các dấu tích về mẹ ruột của mình. Đây cũng là lý do mà người đời sau không biết gì nhiều về Ngạc Phi.

Hậu phi

  1. Nhân Hiếu Văn hoàng hậu Từ thị (仁孝文皇后徐氏, 1362 - 1407), con gái của đại danh tướng Từ Đạt. Sinh hạ Minh Nhân Tông Chu Cao Sí, phế Hán vương Chu Cao Hú và Triệu Giản vương Chu Cao Toại
  2. Chiêu Hiến Quý phi Vương thị (昭献贵妃王氏, ? - 1420), người Tô Châu, Giang Tô. Sơ phong Chiêu dung (昭容), sau phong Quý phi. Bà tư sắc diễm lệ, thông hiểu lễ nghĩa, rất được Từ Hoàng hậu và Thành Tổ tín nhiệm. Sau khi Từ Hoàng hậu qua đời, bà xử lý hết mọi việc trong cung, được các Hoàng tử, Vương hầu và Công chúa kính nể như đích mẫu. Sau khi qua đời, an táng trọng thể theo lễ của Hồng Vũ Đế Thành Mục Quý phi; Thái tử Chu Cao Sí đích thân để tang phục.
  3. Chiêu Ý Quý phi Trương thị (昭懿貴妃張氏), người Hà Nam, con gái của Hà Giang Trung Vũ vương Trương Ngọc (張玉).
  4. Cung Hiến Hiền phi Quyền thị (恭献贤妃权氏, 1391 - 1410), còn gọi Hiển Nhân phi (显仁妃), người Triều Tiên, thuộc dòng họ An Đông Quyền thị (安東權氏), cha là Quyền Vĩnh Quân (权永均). Tư sắc diễm mỹ đặc biệt, xưng là Đệ nhất quốc sắc, cực kỳ đắc sủng. Năm 1409, được gả nhập cung, khi đó 18 tuổi. Bà được Thành Tổ lập tức sủng ái, phong làm Hiền phi (贤妃). Tùy giá Thành Tổ bắc chinh thì qua đời ở Lâm Thành.
  5. Trung Kính Chiêu Thuận Hiền phi Dụ thị (忠敬昭順賢妃喻氏, ? - 1421)
  6. Khang Mục Ý Cung Huệ phi Ngô thị (康穆懿恭惠妃吳氏)
  7. Cung Thuận Vinh Mục Lệ phi Trần thị (恭順榮穆麗妃陳氏)
  8. Đoan Tĩnh Cung Huệ Thục phi Dương thị (端靜恭惠淑妃楊氏)
  9. Cung Hòa Vinh Thuận Hiền phi Vương thị (恭和榮順賢妃王氏)
  10. Chiêu Huệ Cung Ý Thuận phi Vương thị (昭惠恭懿順妃王氏)
  11. Huệ Mục Chiêu Kính Thuận phi Tiền thị (惠穆昭敬順妃錢氏)
  12. Khang Huệ Trang Thục Lệ phi Hàn thị (康惠莊淑麗妃韓氏; ? - 1424), người Triều Tiên, xuất thân Thanh Châu Hàn thị (清州韓氏). Cha là Hàn Vĩnh Thái (韩永矴), có cháu gái là Chiêu Huệ vương hậu Hàn thị; em gái là Hàn Quế Lan (韓桂蘭) là nữ quan dưới thời Minh Tuyên Tông[5]. Bị tuẫn táng cùng Minh Thành Tổ
  13. Khang Tĩnh Trang Hòa Huệ phi Thôi thị (康靖莊和惠妃崔氏; 1395 - 1424), người Triều Tiên, cha là Thôi Đắc Phi (崔得霏). Bị tuẫn táng cùng Minh Thành Tổ
  14. An Thuận Huệ phi Long thị (安順惠妃龍氏)
  15. Chiêu Thuận Đức phi Lưu thị (昭順德妃劉氏)
  16. Khang Ý Thuận phi Lý thị (康懿順妃李氏)
  17. Huệ Mục Thuận phi Quách thị (惠穆順妃郭氏)
  18. Trinh Tĩnh Thuận phi Trương thị (貞靜順妃張氏)
  19. Thuận phi Nhậm thị (順妃任氏, 1392 - 1421), người Triều Tiên, tuẫn táng
  20. Chiêu nghi Lý thị (昭儀李氏, 1392 - 1421), người Triều Tiên, tuẫn táng, con gái của Cung An phủ Phán quan Lý Văn Mệnh (李文命)
  21. Tiệp dư Lữ thị (婕妤呂氏, 1393 - 1413), người Triều Tiên, con gái của Hộ quân Lữ Quý Chân (吕贵真)
  22. Vương phi Hoàng thị (王妃黄氏), người Triều Tiên, tuẫn táng
  23. Mỹ nhân Thôi thị (美人崔氏), người Triều Tiên
  24. Cung Vinh mỹ nhân Vương thị (恭榮美人王氏)
  25. Cảnh Huệ mỹ nhân Lô thị (景惠美人盧氏)
  26. Trang Huệ mỹ nhân (莊惠美人)

Hoàng tử

TT Họ tên Tước vị Sinh Mất Mẹ Ghi chú
1 Chu Cao Sí
朱高炽
Nhân Tông Chiêu hoàng đế
仁宗昭皇帝
16 tháng 8, 1378 29 tháng 5, 1425 Nhân Hiếu Văn hoàng hậu Đăng cơ vào năm 1424
2 Chu Cao Hú
朱高煦
Hán vương (sau bị phế)
汉王
30 tháng 12, 1380 6 tháng 10, 1426 Nhân Hiếu Văn hoàng hậu Sinh thời cường tráng anh tuấn, giỏi cung kị, rất được Thành Tổ quý, từng có ý được lập Thái tử
Phát động Cao Hú chi loạn (高煦之亂) nhưng bị thất bại, bị cháu ruột là Minh Tuyên Tông ban giết
3 Chu Cao Toại
朱瞻墉
Triệu Giản vương
趙簡王
19 tháng 1, 1383 5 tháng 10, 1431 Nhân Hiếu Văn hoàng hậu Sinh thời không có gì nổi bật
Tham gia Cao Hú chi loạn nhưng được Tuyên Tông tha bổng
4 Chu Cao Tuấn
朱瞻垠
không có 1392 1392 Khang Mục Ý Cung Huệ phi Chết non

Hoàng nữ

TT Tước vị Sinh Mất Mẹ Phu quân Ghi chú
1 Vĩnh An Công chúa
永安公主
1377 1417 Nhân Hiếu Văn hoàng hậu Quảng Bình hầu Viên Dung (袁容) Tên là Chu Ngọc Anh (朱玉英)
Sinh được 1 trai 3 gái
2 Vĩnh Bình Công chúa
永平公主
1379 22 tháng 4, 1444 Nhân Hiếu Văn hoàng hậu Phú Dương hầu Lý Phượng (李让)
3 An Thành Công chúa
安成公主
1384 16 tháng 9, 1443 Nhân Hiếu Văn hoàng hậu Tống Hổ (宋琥), con trai của Tây Ninh hầu Tống Thịnh (宋晟)
4 Hàm Ninh Công chúa
咸宁公主
1385 27 tháng 7, 1440 Nhân Hiếu Văn hoàng hậu Tống Anh (宋瑛), con trai của Tây Ninh hầu
5 Thường Ninh Công chúa
常宁公主
1387 5 tháng 4, 1408 không rõ Mộc Hân (沐昕), con trai của Tây Bình hầu Mộc Anh (沐英)

Chú thích

  1. ^ Ghi chú chung: Ngày tháng tại đây tính theo lịch Julius. Nó không phải là lịch Gregory đón trước.
  2. ^ Theo Minh sử, vào thời Hồng Vũ có hơn 60 người được Minh Thái Tổ phong tước. Trong đó 35 người chết già, 26 người bị Thái Tổ giết. Những người còn sót lại là Cảnh Tinh Văn, Quách Anh và Vu Nguyên.
  3. ^ Chu Đệ, từ ngai vàng đẫm máu đến sở thích giết người, Báo điện tử người đưa tin
  4. ^ Bunyashiri (1379 - 1412) là vua Bắc Nguyên. Ông lên ngôi sau khi cha là Gulichi băng hà, hiệu Bắc Nguyên Thành Tông (1403 - 1412). Thời ông, đạo Hồi phát triển và ông liên minh với các bộ tộc Mông Cổ khác làm thế đối trọng với nhà Mình (Trung Quốc). Ông tiến hành chiến tranh với Nhà Minh, về sau bị Mahmud của Oirat đánh bại và giết chết năm 1412.
  5. ^ Tức là Cung Thận phu nhân (恭慎夫人)