Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Minh Tịnh”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Soạn thảo trực quan Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1: Dòng 1:
SƠ LƯỢC TIỂU SỬ VÀ CUỘC ĐỜI THIỀN SƯ MINH TỊNH {{Thiền sư Việt Nam}}
{{Thiền sư Việt Nam}}
Thiền sư Minh Tịnh (明淨禪師, 1888 - ?) hay còn gọi là hòa thượng '''Thích Nhẫn Tế''' (釋忍濟) hoặc hòa thượng '''Chơn Phổ-Nhẫn Tế''' (真普-忍濟) thế danh Nguyễn Văn Tạo, tên thường gọi là Mười Tạo, là một thiền sư nổi tiếng của Việt Nam.
==Tiểu sử==
Thiền sư Minh Tịnh là người ở thôn An Thạnh (ngày nay là thị trấn [[Lái Thiêu]], thị xã [[Thuận An, Bình Dương|Thuận An]]), tỉnh [[Bình Dương]].


Ông là bậc am tường Đông và Tây học, và nguyên là công chức của ngành [[y tế]]. Về sau, vì lòng ham thích [[Phật giáo]] từ khi tuổi hãy còn trẻ, nên ông xin xuất gia với Hòa thượng Ấn Thành-Từ Thiện ở chùa Thiên Tôn và được ban pháp danh là '''Chơn Phổ''' (真普), pháp hiệu '''Nhẫn Tế'''(忍濟), thuộc dòng thiền [[Lâm Tế tông|Lâm Tế]] đời thứ 40 thế hệ thứ 7 của phái '''Chúc Thánh'''.
Năm Bính Dần 1926, tại chùa Long Hoà núi Thiên Thai, Bà Rịa, Hòa thượng cầu pháp học đạo với tổ Huệ Đăng và thụ giới với Hòa thượng Ngộ Định-Từ Phong được ban pháp danh '''Trừng Liến''', pháp hiệu là '''Minh Tịnh''' (明淨), nối pháp đời thứ 42 dòng Thiên Thai Thiền giáo Tông <ref>Theo ''Sơ thảo Phật giáo Bình Dương''. Dẫn lại theo bài viết "Chùa Tây Tạng: Vết chân đầu tiên của Mật tông Việt Nam" đăng trên báo ''Giáo Ngộ online'' [http://giacngo.vn/PrintView.aspx?Language=vi&ID=734212].</ref>.


Năm [[1928]], Sư dựng một am nhỏ thờ [[Phật]] trên một ngọn đồi thấp có nhiều cây cổ thụ, để có chỗ tu tập và phổ độ chúng sanh, và đặt tên là '''Bửu Hương Tự''' (寶香寺) <ref>Theo bài viết "Hành trình Tây du Phật quốc của vị Tiểu Đường Tăng Việt Nam" đăng trên website '''Người đưa tin''', cập nhật ngày 14 tháng 7 năm 2013 [http://www.nguoiduatin.vn/hanh-trinh-tay-du-phat-quoc-khong-tuong-cua-vi-tieu-duong-tang-viet-namchua-tay-tang-qua-ngot-sau-ngay-tro-ve-a88556.html]. Tuy nhiên, theo lời kể của thầy Trì Chánh (72 tuổi vào năm 2012), người đã có nhiều năm tu hành tại đây, thì chùa được xây dựng từ những năm [[1930]]. Lúc đầu chùa có quy mô nhỏ mang tên Bửu Hương Tự do một người địa phương tạo lập. Sau này vì nghe tiếng thiền sư Minh Tịnh nên người địa phương đã mời Sư về trụ trì chùa. Theo "Độc đáo tượng Bồ Đề Đạt Ma thành hình từ tóc của hàng ngàn Phật tử", nguồn đã dẫn.</ref>. Năm [[1937]], sau khi Sư vân du đất Phật trở về, mới cho đổi tên chùa thành '''Tây Tạng Tự''' (西藏寺).
Hoà thượng Thubten Osall Lama, pháp danh Chơn Phổ, pháp hiệu Nhẫn Tế, nối pháp đời thứ 40 dòng Lâm Tế Chúc Thánh. Sau Ngài cầu pháp với Tổ sư Huệ Đăng, được ban pháp danh là Trừng Liến, pháp hiệu là Minh Tịnh, nối pháp đời thứ 42 dòng Thiên Thai Thiền giáo Tông.

Ngài thế danh là Nguyễn Tấn Tạo, sanh ngày rằm tháng bảy năm Kỷ Sửu - 1889, tại làng An Thạnh ( thường gọi Búng), Lái Thiêu, tỉnh Thủ Dầu Một ( nay là tỉnh Bình Dương). Thân phụ là cụ ông Nguyễn Văn Lập, thân mẫu là cụ bà Lê Thị Ri, Ngài sinh trưởng trong một gia đình trung lưu trí thức nên từ thuở nhỏ đã được song thân cho đi học Quốc ngữ và Pháp ngữ.

Năm Giáp Thìn 1904, khi lên 16 tuổi, Ngài tìm đến chùa Thiên Tôn, một ngôi chùa cổ nổi tiếng trong vùng, xin quy y với Hoà thượng Ấn Thành - Từ Thiện, được pháp danh là Chơn Phổ để nghiên cứu và tham học giáo điển Phật đà. Nhờ có trí tuệ thông minh và trình độ thế học, Ngài chóng thâm nhập vào áo nghĩa kinh tạng và có ý tưởng sẽ thực hiện hạnh giải thoát.

Sau khi học hành thành đạt, Ngài làm công chức trong ngành Y tế được một thời gian. Ngài chán cảnh thế gian đầy đua chen danh lợi cũng như bất mãn trước sự cai quản hà khắc của thực dân Pháp đối với dân chúng Việt Nam nên đã quyết định hồi hưu, dứt bỏ trần nghiệp, du hành học đạo khắp mọi nơi, có lúc thì tu hạnh đầu đà khi thì đắp y nguyên thuỷ để tìm cho mình hướng đi đích thực trên con đường giải thoát.

Năm Bính Dần 1926, chùa Long Hoà núi Thiên Thai, Bà Rịa mở giới đàn do Hoà thượng Huệ Đăng làm Đàng đầu truyền giới, Ngài đến đăng đàng thọ cụ túc giới. Cảm phục đức độ và tư tưởng yêu nước của Tổ sư Huệ Đăng, Ngài xin cầu pháp với Tổ sư, được ban pháp danh là Trừng Liến, pháp hiệu là Minh Tịnh.


Ngày 27 tháng 2 năm 1936, Ngài bắt đầu khởi hành đi Tây Tạng theo các vị Lạt Ma trong đoàn chiêm bái Bồ Đề Đạo Tràng khi họ trở về xứ. Đường đi gian khổ vất vả đi hơn hai tháng mới đến xứ Bhutan, mất một tháng ở lại đây học hỏi ngôn ngữ, phong tục, chờ tuyết tan và đi một tháng nữa mới đến thủ đô Lhasa. Ngài đến xứ Tây Tạng vào ngày 28 tháng 6 năm 1936.
Ngày 27 tháng 2 năm 1936, Ngài bắt đầu khởi hành đi Tây Tạng theo các vị Lạt Ma trong đoàn chiêm bái Bồ Đề Đạo Tràng khi họ trở về xứ. Đường đi gian khổ vất vả đi hơn hai tháng mới đến xứ Bhutan, mất một tháng ở lại đây học hỏi ngôn ngữ, phong tục, chờ tuyết tan và đi một tháng nữa mới đến thủ đô Lhasa. Ngài đến xứ Tây Tạng vào ngày 28 tháng 6 năm 1936.


Tại Tây Tạng, Ngài tham học về Kim Cang thừa Mật giáo với Lama Quốc Vương. Để được học pháp môn này, Ngài phải trải qua khảo thí khắt khe nghiêm mật trong cuộc thi tuyển toàn quốc, Ngài là một trong hai người được tuyển chọn cuối cùng. Sau một trăm ngày tu học ở Tây Tạng, Ngài được Lam Quốc Vương ấn chứng sở đắc thiền quán, truyền tâm pháp Kim Cang thừa và ban cho pháp danh là Thubten Osall Lama. Thành tựu sở nguyện, ngày 29 tháng 10 năm 1936, Ngài lên đường rời xứ Tây Tạng, mất một tháng để trở lại Ấn Độ. Ngài ở lại đây đi chiêm bái và học hỏi thêm một thời gian nữa rồi xuống tàu về nước.
Tại Tây Tạng, Ngài tham học về Kim Cang thừa Mật giáo với Lama Quốc Vương. Để được học pháp môn này, Ngài phải trải qua khảo thí khắt khe nghiêm mật trong cuộc thi tuyển toàn quốc, Ngài là một trong hai người được tuyển chọn cuối cùng. Sau một trăm ngày tu học ở Tây Tạng, Ngài được Lam Quốc Vương ấn chứng sở đắc thiền quán, truyền tâm pháp Kim Cang thừa và ban cho pháp danh là '''Thubten Osall Lama'''. Thành tựu sở nguyện, ngày 29 tháng 10 năm 1936, Ngài lên đường rời xứ Tây Tạng, mất một tháng để trở lại Ấn Độ. Ngài ở lại đây đi chiêm bái và học hỏi thêm một thời gian nữa rồi xuống tàu về nước.


Ngày 30 tháng 6 năm 1937, Ngài về đến Việt Nam kết thúc chuyến du hành chiêm bái Thánh Tích dài hai năm bốn tháng. Ngài đến chùa Thiên Thai định lễ Tổ sư rồi dâng cúng ngọc xá lợi lên Hoà thượng để làm biểu tượng chánh pháp tại đây. Về lại trụ xứ Bình Dương, uy tín đạo đức của Ngài lan rộng, bổn đạo làng Phú Cường cung thỉnh Ngài chứng minh trụ trì ngôi chùa Bửu Hương vốn thuộc giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương. Ngài đổi tên chùa thành Tây Tạng Tự để ghi nhớ nơi Ngài đã đến cầu pháp.
Ngày 30 tháng 6 năm 1937, Ngài về đến Việt Nam kết thúc chuyến du hành chiêm bái Thánh Tích dài hai năm bốn tháng. Ngài đến chùa Thiên Thai định lễ Tổ sư rồi dâng cúng ngọc xá lợi lên Hoà thượng để làm biểu tượng chánh pháp tại đây. Về lại trụ xứ Bình Dương, uy tín đạo đức của Ngài lan rộng, bổn đạo làng Phú Cường cung thỉnh Ngài chứng minh trụ trì ngôi chùa Bửu Hương. Ngài đổi tên chùa thành Tây Tạng Tự để ghi nhớ nơi Ngài đã đến cầu pháp.


Năm Mậu Dần 1938, Ngài khởi công xây dựng lại chùa Thiên Chơn tại làng An Thạnh ngay trên nền cũ của am nơi Ngài đã tu trước khi đi Ấn Độ. Chùa được khánh thành vào năm 1940.
Năm Mậu Dần 1938, Ngài khởi công xây dựng lại chùa Thiên Chơn tại làng An Thạnh ngay trên nền cũ của am nơi Ngài đã tu trước khi đi Ấn Độ. Chùa được khánh thành vào năm 1940.
Dòng 33: Dòng 30:


Ngày 17 tháng 5 năm Tân Mão, Ngài thâu thần viên tịch tại chùa Tây Tạng, trụ thế 63 năm, giới lạp 25 mùa hạ. Môn đồ lập bảo tháp thờ nhục thân của Ngài tại chùa Thiên Chơn và lập bảo tháp thờ vọng tại khuôn viên chùa Tây Tạng.
Ngày 17 tháng 5 năm Tân Mão, Ngài thâu thần viên tịch tại chùa Tây Tạng, trụ thế 63 năm, giới lạp 25 mùa hạ. Môn đồ lập bảo tháp thờ nhục thân của Ngài tại chùa Thiên Chơn và lập bảo tháp thờ vọng tại khuôn viên chùa Tây Tạng.

==Tiểu sử==
Thiền sư Minh Tịnh là người ở thôn An Thạnh (ngày nay là thị trấn [[Lái Thiêu]], thị xã [[Thuận An, Bình Dương|Thuận An]]), tỉnh [[Bình Dương]].

Ông là bậc am tường Đông và Tây học, và nguyên là công chức của ngành [[y tế]]. Về sau, vì lòng ham thích [[Phật giáo]] từ khi tuổi hãy còn trẻ, nên ông xin xuất gia với Hòa thượng Ấn Thành-Từ Thiện ở chùa Thiên Tôn và được ban pháp danh là '''Chơn Phổ-Nhẫn Tế''', thuộc dòng thiền [[Lâm Tế tông|Lâm Tế]] đời thứ 40. Sở thêm pháp danh '''Minh Tịnh''' là do cầu pháp học đạo với tổ Huệ Đăng và thụ giới với Hòa thượng Ngộ Định-Từ Phong <ref>Theo ''Sơ thảo Phật giáo Bình Dương''. Dẫn lại theo bài viết "Chùa Tây Tạng: Vết chân đầu tiên của Mật tông Việt Nam" đăng trên báo ''Giáo Ngộ online'' [http://giacngo.vn/PrintView.aspx?Language=vi&ID=734212].</ref>.

Năm [[1928]], Sư dựng một am nhỏ thờ [[Phật]] trên một ngọn đồi thấp có nhiều cây cổ thụ, để có chỗ tu tập và phổ độ chúng sanh, và đặt tên là '''Bửu Hương Tự''' <ref>Theo bài viết "Hành trình Tây du Phật quốc của vị Tiểu Đường Tăng Việt Nam" đăng trên website '''Người đưa tin''', cập nhật ngày 14 tháng 7 năm 2013 [http://www.nguoiduatin.vn/hanh-trinh-tay-du-phat-quoc-khong-tuong-cua-vi-tieu-duong-tang-viet-namchua-tay-tang-qua-ngot-sau-ngay-tro-ve-a88556.html]. Tuy nhiên, theo lời kể của thầy Trì Chánh (72 tuổi vào năm 2012), người đã có nhiều năm tu hành tại đây, thì chùa được xây dựng từ những năm [[1930]]. Lúc đầu chùa có quy mô nhỏ mang tên Bửu Hương Tự do một người địa phương tạo lập. Sau này vì nghe tiếng thiền sư Minh Tịnh nên người địa phương đã mời Sư về trụ trì chùa. Theo "Độc đáo tượng Bồ Đề Đạt Ma thành hình từ tóc của hàng ngàn Phật tử", nguồn đã dẫn.</ref>. Năm [[1937]], sau khi Sư vân du đất Phật trở về, mới cho đổi tên chùa thành '''Tây Tạng Tự'''.

Thiền sư Minh Tịnh viên tịch nào chưa rõ.


==Hành trình đi Tây Tạng==
==Hành trình đi Tây Tạng==

Phiên bản lúc 03:52, ngày 5 tháng 9 năm 2019

Thiền sư Minh Tịnh (明淨禪師, 1888 - ?) hay còn gọi là hòa thượng Thích Nhẫn Tế (釋忍濟) hoặc hòa thượng Chơn Phổ-Nhẫn Tế (真普-忍濟) thế danh Nguyễn Văn Tạo, tên thường gọi là Mười Tạo, là một thiền sư nổi tiếng của Việt Nam.

Tiểu sử

Thiền sư Minh Tịnh là người ở thôn An Thạnh (ngày nay là thị trấn Lái Thiêu, thị xã Thuận An), tỉnh Bình Dương.

Ông là bậc am tường Đông và Tây học, và nguyên là công chức của ngành y tế. Về sau, vì lòng ham thích Phật giáo từ khi tuổi hãy còn trẻ, nên ông xin xuất gia với Hòa thượng Ấn Thành-Từ Thiện ở chùa Thiên Tôn và được ban pháp danh là Chơn Phổ (真普), pháp hiệu Nhẫn Tế(忍濟), thuộc dòng thiền Lâm Tế đời thứ 40 và là thế hệ thứ 7 của phái Chúc Thánh. Năm Bính Dần 1926, tại chùa Long Hoà núi Thiên Thai, Bà Rịa, Hòa thượng cầu pháp học đạo với tổ Huệ Đăng và thụ giới với Hòa thượng Ngộ Định-Từ Phong được ban pháp danh Trừng Liến, pháp hiệu là Minh Tịnh (明淨), nối pháp đời thứ 42 dòng Thiên Thai Thiền giáo Tông [1].

Năm 1928, Sư dựng một am nhỏ thờ Phật trên một ngọn đồi thấp có nhiều cây cổ thụ, để có chỗ tu tập và phổ độ chúng sanh, và đặt tên là Bửu Hương Tự (寶香寺) [2]. Năm 1937, sau khi Sư vân du đất Phật trở về, mới cho đổi tên chùa thành Tây Tạng Tự (西藏寺).

Ngày 27 tháng 2 năm 1936, Ngài bắt đầu khởi hành đi Tây Tạng theo các vị Lạt Ma trong đoàn chiêm bái Bồ Đề Đạo Tràng khi họ trở về xứ. Đường đi gian khổ vất vả đi hơn hai tháng mới đến xứ Bhutan, mất một tháng ở lại đây học hỏi ngôn ngữ, phong tục, chờ tuyết tan và đi một tháng nữa mới đến thủ đô Lhasa. Ngài đến xứ Tây Tạng vào ngày 28 tháng 6 năm 1936.

Tại Tây Tạng, Ngài tham học về Kim Cang thừa Mật giáo với Lama Quốc Vương. Để được học pháp môn này, Ngài phải trải qua khảo thí khắt khe nghiêm mật trong cuộc thi tuyển toàn quốc, Ngài là một trong hai người được tuyển chọn cuối cùng. Sau một trăm ngày tu học ở Tây Tạng, Ngài được Lam Quốc Vương ấn chứng sở đắc thiền quán, truyền tâm pháp Kim Cang thừa và ban cho pháp danh là Thubten Osall Lama. Thành tựu sở nguyện, ngày 29 tháng 10 năm 1936, Ngài lên đường rời xứ Tây Tạng, mất một tháng để trở lại Ấn Độ. Ngài ở lại đây đi chiêm bái và học hỏi thêm một thời gian nữa rồi xuống tàu về nước.

Ngày 30 tháng 6 năm 1937, Ngài về đến Việt Nam kết thúc chuyến du hành chiêm bái Thánh Tích dài hai năm bốn tháng. Ngài đến chùa Thiên Thai định lễ Tổ sư rồi dâng cúng ngọc xá lợi lên Hoà thượng để làm biểu tượng chánh pháp tại đây. Về lại trụ xứ Bình Dương, uy tín đạo đức của Ngài lan rộng, bổn đạo làng Phú Cường cung thỉnh Ngài chứng minh trụ trì ngôi chùa Bửu Hương. Ngài đổi tên chùa thành Tây Tạng Tự để ghi nhớ nơi Ngài đã đến cầu pháp.

Năm Mậu Dần 1938, Ngài khởi công xây dựng lại chùa Thiên Chơn tại làng An Thạnh ngay trên nền cũ của am nơi Ngài đã tu trước khi đi Ấn Độ. Chùa được khánh thành vào năm 1940.

Năm Ất Dậu 1945, hưởng ứng lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Ngài tham gia Hội Phật giáo Cứu quốc Thủ Dầu Một và được suy cử làm chủ tịch. Tháng 6 năm 1946, Ngài là thành viên Mặt trận Việt Minh tỉnh Thủ Dầu Một tại Khu Thuận An Hoà. Ngài đã đóng góp công lao trong cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Việt Nam. Dù ước muốn xây dựng lại chùa Tây Tạng nhưng với tấm lòng yêu nước và ủng hộ kháng chiến Ngài đã nói : " Khi còn chiến tranh thì một viên ngói, một viên gạch cũng không được sử dụng xây chùa... " .

Đến tháng 8 năm Quý Dậu - 1933, chùa Thiên Tôn mở Đại giới đàn do Hoà thượng Ngộ Định - Từ Phong làm đàng đầu truyền giới, Ngài được thọ đại giới lại với Sơn môn, được ban pháp hiệu là Nhẫn Tế, nối pháp đời thứ 40 dòng Lâm Tế Chúc Thánh.

Trải qua thời gian tu hành và tham học, Ngài cảm thấy vẫn chưa thoả mãn chí nguyện, muốn tìm về cội nguồn Phật tổ, trước là để chiêm bái Thánh tích sau là tham cứu học hỏi phương pháp tu trì mong đạt được sở chứng tỏ ngộ bản tâm, thoát ly sanh tử. Vì thế, Ngài rời chùa Thiên Tôn cất một cái am đặt hiệu Thiên Chơn để tu, chuẩn bị hành trang, học thêm Anh ngữ đợi ngày thực hiện ý chí du hành về đất Phật.

Năm Ngài 47 tuổi, Ngài xuống Sài Gòn khởi hành sang Ấn Độ vào ngày 17 tháng 4 năm 1935. Trong thời gian trên đất Ấn, tùy thuận phong tục, Ngài đắp y theo xứ Tích Lan và học tiếng Tamil khi ở Nam Ấn, học tiếng Hindu khi ở Bắc Ấn. Lúc đến xứ Bhutan, Tây Tạng Ngài đổi sang pháp phục Lạt Ma và học tiếng Tây Tạng để thích hợp việc tham cầu giáo pháp.

Ngày 06 tháng 2 năm 1936, Ngài đến xứ Nêpan để tham lễ chùa tháp. Khi đến tháp Bodha Nath, Ngài được đảnh lễ chiêm ngưỡng Xá Lợi Phật và thỉnh cầu Thượng toạ quản tháp cho thỉnh một phần Xá Lợi đem về bổn quốc làm chứng tín cho hàng đệ tử tôn thờ. Ngài là người đầu tiên thỉnh được Xá Lợi Phật về Việt Nam.

Trong cuộc đời tu học và hoằng dương đạo pháp, Ngài hóa độ rất nhiều đồ chúng xuất gia cũng như tại gia, đệ tử mà Ngài truyền thừa là Hoà thượng Như Trạm - Tịch Chiếu. Ngài có hai tác phẩm lưu lại cho hậu thế là Bộ Kinh Lăng Nghiêm Tông Thông và Nhật Ký Tham Bái Ấn Độ, Tây Tạng.

Ngày 17 tháng 5 năm Tân Mão, Ngài thâu thần viên tịch tại chùa Tây Tạng, trụ thế 63 năm, giới lạp 25 mùa hạ. Môn đồ lập bảo tháp thờ nhục thân của Ngài tại chùa Thiên Chơn và lập bảo tháp thờ vọng tại khuôn viên chùa Tây Tạng.

Hành trình đi Tây Tạng

Trong chùa Tây Tạng hiện còn cuốn nhật ký lưu giữ hình ảnh và sự kiện hành trình về đất Phật một cách chi tiết, đầy đủ từng ngày từ Việt Nam qua Ấn Độ - Nêpan - Tây Tạng và ngược lại của thiền sư Minh Tịnh. Cuốn nhật ký này, có thể xem như là tập "Tây Trúc - Tây Tạng ký" ghi rõ thời gian, các địa danh và Phật sự suốt cuộc hành trình từ khi ngài xuất hành từ Thủ Dầu Một (Bình Dương), rời bến Nhà Rồng (Sài Gòn) vào ngày 17 tháng 4 năm 1935 cho đến khi trở về nước vào ngày 30 tháng 6 năm 1937 (kéo dài 2 năm 2 tháng 13 ngày). Cuốn nhật ký ghi bằng thủ bút của thiền sư với nét chữ nghiêng, đẹp, rõ ràng bằng chữ quốc ngữ, có xen lẫn ghi chú bằng tiếng Pháp, Anh, Tây Tạng, Phạn. Nhật ký có độ dày trên 300 trang khổ lớn, hiện còn lưu giữ cẩn thận tại chùa Tây Tạng. Và có thể nói Sư là một "tiểu Huyền Trang của Việt Nam" [3].

Xem thêm

Chú thích

  1. ^ Theo Sơ thảo Phật giáo Bình Dương. Dẫn lại theo bài viết "Chùa Tây Tạng: Vết chân đầu tiên của Mật tông Việt Nam" đăng trên báo Giáo Ngộ online [1].
  2. ^ Theo bài viết "Hành trình Tây du Phật quốc của vị Tiểu Đường Tăng Việt Nam" đăng trên website Người đưa tin, cập nhật ngày 14 tháng 7 năm 2013 [2]. Tuy nhiên, theo lời kể của thầy Trì Chánh (72 tuổi vào năm 2012), người đã có nhiều năm tu hành tại đây, thì chùa được xây dựng từ những năm 1930. Lúc đầu chùa có quy mô nhỏ mang tên Bửu Hương Tự do một người địa phương tạo lập. Sau này vì nghe tiếng thiền sư Minh Tịnh nên người địa phương đã mời Sư về trụ trì chùa. Theo "Độc đáo tượng Bồ Đề Đạt Ma thành hình từ tóc của hàng ngàn Phật tử", nguồn đã dẫn.
  3. ^ Theo tập san Chùa Cổ Bình Dương. Dẫn lại theo bài viết "Chùa Tây Tạng: Vết chân đầu tiên của Mật tông Việt Nam" đăng trên báo Giáo Ngộ online, đã dẫn.