Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Kinh Môn”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Soạn thảo trực quan Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Soạn thảo trực quan Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Dòng 101: Dòng 101:
| align="left" style="padding-left: 6px; white-space:nowrap" | [[Lạc Long, Kinh Môn|Lạc Long]] || 6,82 || 7.292
| align="left" style="padding-left: 6px; white-space:nowrap" | [[Lạc Long, Kinh Môn|Lạc Long]] || 6,82 || 7.292
|-bgcolor="#F5F5F5"
|-bgcolor="#F5F5F5"
| align="left" style="padding-left: 6px; white-space:nowrap" | [[Lê Ninh, Kinh Môn|Lê Ninh]] || 11,6 || 8.565
| align="left" style="padding-left: 6px; white-space:nowrap" | [[Lê Ninh, Kinh Môn|Lê Ninh]] || 11,60 || 8.565
|-
|-
| align="left" style="padding-left: 6px; white-space:nowrap" | [[Minh Hòa, Kinh Môn|Minh Hòa]]|| 7,06 || 9.340
| align="left" style="padding-left: 6px; white-space:nowrap" | [[Minh Hòa, Kinh Môn|Minh Hòa]]|| 7,06 || 9.340

Phiên bản lúc 06:27, ngày 14 tháng 9 năm 2019

Kinh Môn
Thị xã
Thị xã Kinh Môn
Tập tin:Tuong daiTHD.jpg
Tượng đài Trần Hưng Đạo ở phường An Sinh, thị xã Kinh Môn, tỉnh Hải Dương
Hành chính
Quốc gia Việt Nam
VùngĐồng bằng sông Hồng
TỉnhHải Dương
Phân chia hành chính14 phường, 9 xã
Thành lập11/9/2019[1]
Địa lý
Tọa độ: 21°B 106°30′20″Đ / 21°B 106,50556°Đ / 21; 106.50556{{#coordinates:}}: vĩ độ không hợp lệ
Kinh Môn trên bản đồ Việt Nam
Kinh Môn
Kinh Môn
Vị trí thị xã Kinh Môn trên bản đồ Việt Nam
Diện tích165,33km2
Dân số (2018)
Tổng cộng203.638 người[2]
Dân tộcKinh...
Khác
Websitekinhmon.haiduong.gov.vn

Kinh Môn là một thị xã thuộc tỉnh Hải Dương, Việt Nam.

Thị xã Kinh Môn thuộc vùng bán sơn địa, một dãy núi đất trong cánh cung Đông Triều làm xương sống của thị xã. Về núi non, Kinh Môn có cảnh trí tương đối giống Chí Linh, nhưng Kinh Môn còn có những núi đá xanh rải rác, các dòng sông bao bọc và những cánh đồng rộng lớn.

Địa lý

Thị xã Kinh Môn có vị trí địa lý:

Hành chính

Thị xã Kinh Môn có 23 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 14 phường: An Lưu, An Phụ, An Sinh, Duy Tân, Hiến Thành, Hiệp An, Hiệp Sơn, Long Xuyên, Minh Tân, Phạm Thái, Phú Thứ, Tân Dân, Thái Thịnh, Thất Hùng và 9 xã: Bạch Đằng, Hiệp Hòa, Hoành Sơn, Lạc Long, Lê Ninh, Minh Hòa, Quang Thành, Thăng Long, Thượng Quận.

Danh sách các đơn vị hành chính trực thuộc thị xã Kinh Môn
Tên Diện tích (km²) Dân số (người)
Phường (14)
An Lưu 2,58 10.243
An Phụ 8,17 12.176
An Sinh 5,32 6.862
Duy Tân 7,75 9.114
Hiến Thành 6,29 11.800
Hiệp An 3,28 6.341
Hiệp Sơn 7,19 7.222
Long Xuyên 4,50 5.500
Minh Tân 13,48 23.760
Phạm Thái 9,65 10.820
Phú Thứ 8,81 17.825
Tân Dân 4,93 6.400
Tên Diện tích (km²) Dân số (người)
Thái Thịnh 4,07 8.780
Thất Hùng 6,10 5.280
(9)
Bạch Đằng 6,75 7.565
Hiệp Hòa 9,84 9.340
Hoành Sơn 4,07 4.430
Lạc Long 6,82 7.292
Lê Ninh 11,60 8.565
Minh Hòa 7,06 9.340
Quang Thành 11,57 10.092
Thăng Long 6,09 7.430
Thượng Quận 7,02 8.097

Lịch sử

Ngày xưa, khi nữ tướng Lê Chân lập trang An Biên khai phát khu vực Hải Phòng ngày nay, chắc chắn Kinh Môn không xa biển.

Đến năm Quang Thuận thứ 10 (1469), Thừa tuyên Hải Dương có 4 phủ, 18 huyện thì phủ Kinh Môn là một trong 4 phủ, quản 7 huyện: Giáp Sơn, Đông Triều, Kim Thành, An Lão, An Dương, Nghi Dương và Thuỷ Đường. Đối chiếu với bản đồ ngày nay, Kinh Môn chỉ còn là danh chỉ huyện Giáp Sơn xưa, trừ các huyện Kim Thành, Đông Triều cơ bản là đất cũ, các huyện còn lại chính là nằm lọt trong phần lớn Thành phố Hải Phòng ngày nay.

Vùng đất thuộc phủ Kinh Môn chắc chắn có một giai đoạn phát triển mạnh, vì nằm giữa Chí Linh quê gốc và Dương Kinh nơi đất căn bản của họ Mạc. Nhưng cuối triều Mạc, bắt đầu Lê Trung hưng phải gánh chịu nhiều cuộc tàn phá ghê gớm. Một phần do sự suy tàn của triều Mạc, một phần đây chính là địa điểm đường thủy nối Tây đô Thanh Hóa với Đông đô, cuộc chiến phò Lê và tồn Mạc đã làm cho cả vùng thành chiến địa. Đại Việt sử ký toàn thư chép năm 1598, Đoan Quốc công Nguyễn Hoàng đã từ Thăng Long, vâng mệnh vua Lê Thế Tông, kéo về Kinh Môn thảo phạt "giặc ngụy". Sau khi nhà Mạc chạy dài lên phía Bắc, thế lực chống triều đình mạnh nhất tập trung ở Thuỷ Đường (nay là Thuỷ Nguyên), rồi Đông Triều, Kim Thành, Thanh Hà, An Dương… đều không thần phục triều đình. Nhưng duy chỉ có Giáp Sơn là không thấy nói có "ngụy", và chắc chắn Nguyễn Hoàng đã kéo quân theo đường thủy đến phủ lỵ Kinh Môn làm bản doanh để làm cuộc chinh phạt. Chính vùng sông nước từ Kinh Môn đến Đồ Sơn, nằm trong khu vực phủ Kinh Môn xưa, hai trăm năm sau lại là vùng đất hoạt động của Quận He Nguyễn Hữu Cầu chống lại triều đình. (Ghi chú: Quyển tiểu thuyết "Vườn An Lạc" của Nguyễn Xuân Hưng chính là viết về giai đoạn này của Kinh Môn).

Ngược dòng lịch sử, Kinh Môn có một vùng di tích vốn là trang ấp của An Sinh vương Trần Liễu, thân sinh Đức Thánh Hưng Đạo đại vương. Trang ấp này ngày nay thuộc xã An Sinh, dưới chân núi An Phụ. Chính sử chép nhà Trần phát tích từ Thiên Trường, nhưng hàn vi mấy đời đánh cá trên sông, cứu công chúa nhà Lý trên sông. Ngày xưa, con sông Bạch Đằng đổ vào hệ thống sông Thái Bình rồi lên kinh thành chính là đường thủy quốc lộ chính, địa vật ngày nay chắc khác xưa nhiều, con cháu nhà Trần có thể đánh cá dọc sông Kinh Thầy hay không, nhưng chắc chắn An Phụ có vị trí tâm linh cao quý đối với họ Trần. Bằng chứng là sau này, các đời vua từ Minh Tông trở về sau đều không phải an táng ở Thiên Trường (Nam Định) mà an táng tại An Sinh. Có sách nói An Sinh ngày nay thuộc Đông Triều, đó là thông tin nhầm lẫn. An Sinh là một phần của Kinh Môn. An Sinh vốn là trang ấp cổ của dòng trưởng họ Trần, các đời vua sau đều là con cháu của cả dòng Trần Cảnh lẫn Trần Liễu, chắc chắn phải chọn nơi đất phát của họ để an táng. Tiếc rằng sau khi Trương Phụ đánh bại nhà Hồ, đã cho tàn phá tất cả những di tích của nước ta, nhất là những địa danh gắn với các vị vua chống ngoại xâm. Ngày nay, tượng Trần Quốc Tuấn đặt tại đỉnh An Phụ, thấp hơn đền Trần Liễu quả là đắc địa và đúng với tâm linh lịch sử. Chính An Sinh chứ không phải Thiên Trường mới là nơi Trần Quốc Tuấn sống thuở ấu thơ, gắn bó với trang ấp của cha, gần với phủ đệ Vạn Kiếp chỉ vài giờ đi thuyền.

Từ những năm 1947-1955, Kinh Môn thuộc tỉnh Quảng Yên. Khi chính phủ quyết định sát nhập 2 tỉnh Hải DươngHưng Yên thành tỉnh Hải Hưng vào năm 1968 thì huyện Kinh Môn sáp nhập với huyện Kim Thành để thành lập huyện Kim Môn. Đến năm 1997, khi tái lập tỉnh Hải Dương thì tách trở lại như trước. Huyện Kinh Môn khi đó gồm có 25 xã: An Lưu, An Phụ, An Sinh, Bạch Đằng, Duy Tân, Hiến Thành, Hiệp An, Hiệp Hòa, Hiệp Sơn, Hoành Sơn, Lạc Long, Lê Ninh, Long Xuyên, Minh Hòa, Minh Tân, Phạm Mệnh, Phú Thứ, Phúc Thành, Quang Trung, Tân Dân, Thái Sơn, Thái Thịnh, Thăng Long, Thất Hùng, Thượng Quận.

Ngày 28-10-1996, chuyển xã An Lưu thành thị trấn An Lưu.

Ngày 3-6-2004, chuyển 2 xã Minh Tân và Phú Thứ thành 2 thị trấn có tên tương ứng; đổi tên thị trấn An Lưu thành thị trấn Kinh Môn.

Từ đó, huyện Kinh Môn có 3 thị trấn: Kinh Môn (huyện lị), Minh Tân, Phú Thứ và 22 xã: An Phụ, An Sinh, Bạch Đằng, Duy Tân, Hiến Thành, Hiệp An, Hiệp Hòa, Hiệp Sơn, Hoành Sơn, Lạc Long, Lê Ninh, Long Xuyên, Minh Hòa, Phạm Mệnh, Phúc Thành, Quang Trung, Tân Dân, Thái Sơn, Thái Thịnh, Thăng Long, Thất Hùng, Thượng Quận.

Ngày 23 tháng 12 năm 2014, thị trấn Kinh Môn mở rộng (bao gồm 3 thị trấn: Kinh Môn, Minh Tân, Phú Thứ) được công nhận là đô thị loại IV.

Ngày 14 tháng 3 năm 2019, toàn bộ huyện Kinh Môn (bao gồm 3 thị trấn: Kinh Môn, Minh Tân, Phú Thứ và 22 xã trực thuộc) được công nhận là đô thị loại IV.

Ngày 11 tháng 9 năm 2019, Ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua Nghị quyết thành lập thị xã Kinh Môn trên cơ sở toàn bộ 16.533,55 ha diện tích tự nhiên và 203.638 người của huyện Kinh Môn. Đồng thời thành lập các phường, xã thuộc thị xã Kinh Môn như sau:

  • Thành lập phường An Lưu trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị trấn Kinh Môn.
  • Thành lập phường Phạm Thái trên cơ sở sáp nhập 2 xã Phạm Mệnh và Thái Sơn.
  • Thành lập 12 phường: An Phụ, An Sinh, Duy Tân, Hiến Thành, Hiệp An, Hiệp Sơn, Long Xuyên, Minh Tân, Phú Thứ, Tân Dân, Thái Thịnh, Thất Hùng trên cơ sở 12 xã, thị trấn có tên tương ứng.
  • Thành lập xã Quang Thành trên cơ sở sáp nhập 2 xã Quang Trung và xã Phúc Thành.

Sau khi sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã, thành lập các phường, thị xã Kinh Môn có 14 phường và 9 xã trực thuộc[3].

Kinh tế

Trước kia, Kinh Môn được xếp vào huyện miền núi, nhiều xã là xã miền núi trong danh sách hưởng chính sách ưu đãi của Nhà nước, ví dụ khu vực "xã đảo" (các xã nằm kẹp sông Kinh Thầy và sông Đá Bạc). Nhưng cũng chính nơi đây, một phần huyện Kinh Môn, nơi trước đây là khu vực chắn giữa sông Kinh Thầy, Đá Bạc vốn là nơi đìu hiu, nghèo nàn nhất của huyện, chậm phát triển nhất tỉnh, thì nay lại là nơi có khu vực công nghiệp xi măng lớn nhất nước, đô thị hóa rất nhanh. Khu vực này đúng là một con gà gáy cả ba tỉnh cùng nghe, là nơi ngã ba tiếp giáp biên giới của Kinh Môn (Hải Dương) - Đông Triều (Quảng Ninh) và Thủy Nguyên (Hải Phòng). Dãy núi có đỉnh cao nhất là An Phụ chia huyện thành hai phần, phần Tây tiếp giáp sông Kinh Môn chạy song song với quốc lộ số 5 ruộng đồng bằng phẳng, từ Thăng Long, Quang Trung giáp Bến Tuần Mây kéo đến Bến Nống (An Lưu) là một cánh đồng vựa lúa, sánh với bất cứ cánh đồng nào của Gia Lộc, Tứ Kỳ vốn nổi danh lúa gạo. Phần bên Đông núi An Phụ, dân vừa làm ruộng, vừa sinh sống với sông Kinh Thầy, vốn là nơi trên bến dưới thuyền, nghề chài lưới lẫn với thương hồ hình thành tính cách quả cảm của dân Kinh Môn, có những con người còn lưu dậm dấu vết trong sử sách.

Công ty Xi măng Vicem Hoàng Thạch ở phường Minh Tân, thị xã Kinh Môn, tỉnh Hải Dương

Thị xã Kinh Môn có diện tích diện tích đất nông nghiệp 8.929,4 ha (chiếm 54,7%); đất lâm nghiệp 9,4%; đất chuyên dùng 16,0%; đất chưa sử dụng và đất sông suối, núi đá 12,8%; có mật độ dân số cao, so với mật độ bình quân của các huyện miền núi cả nước (1.003 người/km²) - là nơi đất chật người đông.

Địa hình Kinh Môn là đồi núi xen kẽ đồng bằng, có 4 sông lớn chảy qua chia cắt địa bàn huyện thành 3 vùng địa lý tương đối riêng biệt (phía nam An Phụ, bắc An Phụ và 5 xã khu đảo), gây khó khăn cho phát triển nông nghiệp và hệ thống giao thông. Khi chưa có cầu An Thái, bất cứ ai đến với Kinh Môn đều phải qua đò, bởi Kinh Môn khi ấy là một "huyện đảo" ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Nhưng với tốc độ phát triển hiện nay và đặc biệt con đường mới đã được mở ra nối liền Quốc lộ 5 Và Quốc lộ 18 với hai câu cầu được xây dựng là cầu Hiệp Thượng được khánh thành vào ngày 29 -12 - 2007 và cầu Hoàng Thạch.

Kinh Môn có khoảng 2.100 ha đồi núi đất và 320 ha núi đá xanh, phân bổ như sau:

  • Phía tả ngạn sông Kinh Thầy (khu Nhị Chiểu), hay còn gọi là 5 xã khu đảo có 34 đỉnh, đỉnh cao trên 100m so với mặt biển là các đỉnh Cúc Tiên, Mỏm Diều, 2 đỉnh Cao San nằm trên dãy núi ngang và các dãy núi đá xanh ở các phường: Duy Tân, Phú Thứ, Tân Dân, Minh Tân, nhưng tập trung nhất ở 2 phường Minh Tân và Phú Thứ với diện tích 5 km².
  • Hữu ngạn sông Kinh Thầy hình thành một dải núi liên tiếp chạy dài từ Tây Bắc đến Đông Nam khoảng 16 km, chỗ rộng nhất là 2 km, có ngọn cao trên 100m so với mặt biển. Riêng đỉnh An Phụ cao 246m là ngọn núi cao nhất trong 113 ngọn núi thuộc thị xã Kinh Môn. Sát bờ sông Kinh Thầy có dãy núi đá Kính Chủ thuộc 2 thôn Dương Nham và Lĩnh Đông (phường Phạm Thái).

Ở dãy núi An Phụ có các đèo Nẻo (Huề Trì - Nghĩa Vũ), đèo Vù (Bồ Bản - Kim Xuyên), đèo Ngà (Miêu Nha - Lê Xá), đèo Than (An Bộ - Trí Giả), đèo Đước (Đích Sơn - Trí Giả)... Ở dãy núi Ngang có đèo Ngang (Thượng Chiểu - Kim Bào), đèo Gai (Lỗ Sơn - Hạ Chiểu)...

Vùng núi đá xanh của thị xã là nguồn nguyên liệu dồi dào để xây dựng các nhà máy ximăng lớn như Hoàng Thạch, Phúc Sơn, Duyên Linh, Văn Chánh... là nguồn nguyên liệu nung vôi và cung cấp đá xanh cho các công trình xây dựng.

Ngoài ra Kinh Môn còn có các tài nguyên khác như cao lanh (có ở Hoàng Thạch - Bích Nhôi - Tử Lạc), quặng bôxít ở Lỗ Sơn, đất chịu lửa ở Lê Ninh...

Danh nhân

Du lịch

Tập tin:Tuong daiTHD.jpg
Tượng đài Trần Hưng Đạo ở phường An Sinh, thị xã Kinh Môn, tỉnh Hải Dương

Kinh Môn nổi tiếng với Đền Cao - là nơi thờ cha Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn và danh lam thắng cảnh động Kính Chủ - nơi có nhiều hang động đá vôi tuyệt đẹp và gắn với cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân Hải Dương cũng như của Việt Nam trong thời kỳ chống ngoại xâm.

Động Kính Chủ nằm trong quần thể núi đá xanh cách An Phụ vài ba cây số. Chắc rằng thời , Kính Chủ là nơi trung tâm Phật giáo, trước khi các nhà tu hành phát hiện ra An Tử. Chính sử chép nơi đây có 49 hang động, lầu son gác tía. Lý Huệ Tông được nhà Trần cho tu ở đó, thực chất là an trí. Nay di tích này không còn nhiều, hầu như chỉ còn phế tích. Vấn đề của Kính Chủ cũng là vấn đề chung nan giải của cả nước. Theo truyền thuyết động Kính Chủ là cột trụ trời.

Khu vực đồi núi Kinh Môn còn có những di tích lịch sử và thắng cảnh được Nhà nước xếp hạng với đỉnh An Phụ có đền thờ An Sinh Vương Trần Liễu - cha của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn; với động Kính Chủ có nhiều hang động tạo nên phong cảnh thiên nhiên đẹp đẽ, nơi đây còn bút tích của danh nhân Phạm Sư Mạnh đề thơ "Đặng thạch môn sơn lưu đề".

Những dãy núi đá Kinh Môn là nơi đã diễn ra các cuộc chiến đấu của ông cha ta chống giặc ngoại xâm như thời vua Trần Nhân Tông đã đóng quân ở núi Kính Chủ để chống quân Nguyên. Đặc biệt trong cuộc kháng chiến chống Pháp đã diễn ra các cuộc chiến đấu rất oanh liệt của quân dân Kinh Môn tại các khu núi đá với các địa danh: Kính Chủ, Áng Sơn, Thung Sanh mãi mãi còn ghi đậm dấu tích kiên cường trong ký sức của người dân Kinh Môn.

Xem thêm


Tham khảo

Liên kết ngoài

Bản mẫu:Các thị xã của Việt Nam