Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Sở Khang vương”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Dòng 39: Dòng 39:
| thụy hiệu = <font color = "grey"> Khang vương</font> (康王)
| thụy hiệu = <font color = "grey"> Khang vương</font> (康王)
}}
}}
'''Sở Khang vương''' ([[chữ Hán]]: 楚康王, ?-[[545 TCN]], trị vì: [[559 TCN]]-[[545 TCN]]<ref>Sử ký, Sở thế gia</ref><ref>Phương Thi Danh, sách đã dẫn, tr 26</ref>), tên thật là '''Hùng Chiêu''' (熊審) hay '''Mi Chiêu''' (羋審), là vị vua thứ 27 của [[sở (nước)|nước Sở]] - [[chư hầu nhà Chu]] trong [[lịch sử Trung Quốc]].
'''Sở Khang vương''' ([[chữ Hán]]: 楚康王, ?-[[545 TCN]], trị vì: [[559 TCN]]-[[545 TCN]]<ref>Sử ký, Sở thế gia</ref><ref>Phương Thi Danh, sách đã dẫn, tr 26</ref>), tên thật là '''Hùng Chiêu''' (熊審) hay '''Mị Chiêu''' (羋審), là vị vua thứ 27 của [[sở (nước)|nước Sở]] - [[chư hầu nhà Chu]] trong [[lịch sử Trung Quốc]].


Hùng Chiêu là con trai trưởng của [[Sở Cung vương]], vua thứ 26 của nước Sở. Năm [[560 TCN]], Sở Cung vương qua đời, Hùng Chiêu lên nối ngôi, tức là Sở Khang vương.
Hùng Chiêu là con trai trưởng của [[Sở Cung vương]], vua thứ 26 của nước Sở. Năm [[560 TCN]], Sở Cung vương qua đời, Hùng Chiêu lên nối ngôi, tức là Sở Khang vương.

Phiên bản lúc 08:23, ngày 20 tháng 9 năm 2019

Sở Khang vương
楚康王
Vua chư hầu Trung Quốc
Vua nước Sở
Trị vì560 TCN - 545 TCN
Tiền nhiệmSở Cung vương
Kế nhiệmSở Giáp Ngao
Thông tin chung
Mất545 TCN
Trung Quốc
Hậu duệSở Giáp Ngao
Tên thật
Hùng Chiêu (熊審)
Thụy hiệu
Khang vương (康王)
Chính quyềnnước Sở
Thân phụSở Cung vương

Sở Khang vương (chữ Hán: 楚康王, ?-545 TCN, trị vì: 559 TCN-545 TCN[1][2]), tên thật là Hùng Chiêu (熊審) hay Mị Chiêu (羋審), là vị vua thứ 27 của nước Sở - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.

Hùng Chiêu là con trai trưởng của Sở Cung vương, vua thứ 26 của nước Sở. Năm 560 TCN, Sở Cung vương qua đời, Hùng Chiêu lên nối ngôi, tức là Sở Khang vương.

Tranh chấp ngôi bá với Tấn

Vừa lên ngôi, Sở Khang vương dùng công tử Ngọ làm Tả Lệnh doãn, công tử Bãi là Hữu lệnh doãn, Vi Tử Bằng làm tả tư mã, công tử Thác Sư làm hữu tư mã, Khuất Đáo làm mạc ngao, công tử Chuy Thư làm Cung cứu doãn. Việc dùng người của Khang vương được xem là đúng đắn giúp nước Sở được yên ổn[3].

Năm 560 TCN, nước Trịnh lại thần phục nước Sở, Sở Khang vương bèn trả lại sứ giả của Trịnh bị vua cha bắt giam khi trước.

Mùa thu năm đó, vua Ngô là Chư Phàn đem quân đánh nước Sở, nhưng bị quân Sở đánh bại.

Năm 559 TCN, Tấn Điệu công hội quân chư hầu các nước Tề, Trịnh, Tống, Lỗ, Vệ cùng đánh nước Tần, đồng minh của Sở. Quân Tấn vượt sông Kinh Thủy, đánh tan quân Tần. Sở Khang vương đem quân cứu Tần. Nước Ngô nhân cơ hội đó đánh Sở, đánh bại quân Sở.

Năm 557 TCN, Tấn Bình công đem quân đánh Sở, tiến đến Đắc Trạm, đánh tan quân Sở.

Năm 555 TCN, sau khi đánh bại quân Tề, nước Tấn lại tập hợp chư hầu đánh Tần. Lệnh doãn Khuất Kiến án binh không cứu Tần.

Cùng năm, nội bộ nước Trịnh có tranh chấp. Công tử Gia muốn bãi chức các đại phu để nắm quyền và rời khỏi ảnh hưởng của nước Tấn, bèn mượn nước Sở. Sở Khang vương sai công tử Ngọ mang quân đánh Trịnh, trong lúc cánh quân theo nước Tấn đi đánh Tề chưa về. Các đại phu nước Trịnh ráo riết phòng thủ, quân Sở tiến đến Ngư Lăng, cuối cùng không hạ được thành phải rút lui.

Mùa hè năm 551 TCN, Sở Khang vương mang quân đánh nước Ngô. Nhưng quân Sở không thắng được quân Ngô, phải rút về.

Năm 549 TCN, Tấn Bình công định đánh Tề vì Tề Trang công liên minh với Sở, nhưng không đủ sức nên không phát lệnh ra quân. Sở Khang vương họp quân Sái, Hứa, Trần đi đánh Trịnh để cứu Tề. Các chư hầu bèn quay về cứu Trịnh. Quân Sở rút lui.

Năm 548 TCN, Sở Khang vương lại họp quân Sái, Trần đánh Trịnh. Liên quân tiến đánh phá thành Nam Lý nước Trịnh. Cùng năm, Sở Khang vương sai Lệnh doãn Khuất Kiến mang quân đánh nước Thư Cưu. Nước Thư Cưu cầu cứu nước Ngô. Ngô Chư Phàn cho quân tới cứu. Quân Ngô đóng giữa 2 cánh quân Sở. Quân Sở đóng trong vùng ẩm thấp, sợ để lâu ngày sẽ mất sức chiến đấu, bèn quyết định đánh nhanh, đánh bại quân Ngô. Sau khi quân Ngô rút, quân Sở tiến vào diệt nước Thư Cưu. Bờ cõi nước Sở tiếp tục được mở rộng.

Cuối năm đó, Ngô Chư Phàn đi đánh Sở báo thù. Quân Ngô vây ấp Sào nước Sở. Sào Ngưu Thần bày kế dụ quân Ngô vào và cho quân mai phục. Ngô Chư Phàn trúng kế, tiến vào thành trước, bị Ngưu Thần nấp sau tường thấp bắn, trúng tên tử trận. Quân Ngô rút lui.

Năm 547 TCN, đại phu nước Sở là Tiêu Cử bị Sở Khang vương ghét, tức giận bỏ trốn sang Tấn.

Giảng hòa với Tấn

Đại phu Hướng Thú nước Tống kết bạn với cả Triệu Mạnh nước Tấn và Lệnh doãn Tử Mộc nước Sở. Hướng Thú muốn chư hầu kết thúc nạn chiến tranh liên miên vì ngôi bá chủ giữa nước Tấn và nước Sở, sau khi xin lệnh Tống Bình công, bèn đi ngoại giao với 2 nước lớn Tấn, Sở đề nghị dàn xếp để hội chư hầu, trong đó cả hai nước Tấn và Sở đều làm bá chủ[4].

Sở Khang vương và Tấn Bình công đều đồng tình với gợi ý của nước Tống, chư hầu thống nhất tổ chức hội nghị tại nước Tống. Vào tháng 5 năm 546 TCN, chư hầu các nước đến hội họp gồm có Tấn, Sở, Lỗ, Sái, Tần, Vệ, Trần, Trịnh, Hứa, Tào. Đây là hội chư hầu đầu tiên cả vua Tấn và vua Sở cùng làm bá chủ[5] và được xác định là hội nghị duy nhất có sự kiện này trong thời Xuân Thu[4].

Tại hội, Sở Khang vương và Tấn Bình công cùng lên bôi sáp huyết thề trước tiên, sau đó đến các vua chư hầu nhỏ. Các chư hầu theo Tấn sang chào Sở Khang vương, các chư hầu theo Sở sang chào Tấn Bình công. TấnSở thống nhất coi TềTần là chư hầu hàng thứ 2. Sau khi bàn bạc, tới tháng 7 năm đó Tấn và Sở ký hiệp ước[6]. Từ đó trong một thời gian, các chư hầu bớt phải tham gia vào các liên minh tranh giành bá chủ giữa Tấn và Sở, tạm thời kết thúc cục diện tranh hùng gần 100 năm giữa hai nước.

Qua đời

Năm 545 TCN, Sở Khang vương qua đời. Ông làm vua được 15 năm. Con ông là Hùng Viên lên nối ngôi, tức là Sở Giáp Ngao.

Ngày tết năm mới, Lỗ Tương công ở Sính đô dự tang Sở Khang vương. Theo đề nghị của vị quan Vu chúc (phụ trách nghi lễ) nước Sở, vua Lỗ thân hành tới đưa đồ áo khâm liệm, cầm cành đào làm phép trừ khử việc không lành cho Sở Khang vương. Theo nghi lễ, việc cầm cành đào làm phép trừ tà là việc vua đến viếng bầy tôi qua đời mới làm. Ban đầu Lỗ Tương công ngần ngại, nhưng vì vị quan Vu chúc nước Sở đề nghị mới làm theo. Bá quan nước Sở không ngăn cản gì, sau đó mới ân hận vì để vua nước Lỗ nhỏ hơn coi vua mình như bề tôi[7].

Xem thêm

Tham khảo

  • Sử ký Tư Mã Thiên, thiên:
    • Sở thế gia
  • Phương Thi Danh (2001), Niên biểu lịch sử Trung Quốc, Nhà xuất bản Thế giới
  • Khổng Tử (2002), Xuân Thu tam truyện, tập 4, Nhà xuất bản TP Hồ Chí Minh
  • Chu Thiệu Hầu (2003), Tổng tập lược truyện các Tể tướng trong lịch sử Trung Quốc, tập 1, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin

Chú thích

  1. ^ Sử ký, Sở thế gia
  2. ^ Phương Thi Danh, sách đã dẫn, tr 26
  3. ^ Xuân Thu tam truyện, tập 4, tr 100
  4. ^ a b Chu Thiệu Hầu, sách đã dẫn, tr 141
  5. ^ Xuân Thu tam truyện, tập 4, tr 196
  6. ^ Xuân Thu tam truyện, tập 4, tr 198
  7. ^ Xuân Thu tam truyện, tập 4, tr 218