Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Đông Nam Á”
Không có tóm lược sửa đổi |
n Đã thay đổi mức khóa của “Đông Nam Á” ([Sửa đổi=Chỉ cho phép các thành viên tự động xác nhận] (hết hạn 09:10, ngày 17 tháng 10 năm 2019 (UTC)) [Di chuyển=Cấm mọi thành viên (trừ bảo quản viên)] (vô thời hạn)) |
(Không có sự khác biệt)
|
Phiên bản lúc 09:10, ngày 10 tháng 10 năm 2019
Bài này có liệt kê các nguồn tham khảo và/hoặc liên kết ngoài, nhưng nội dung trong thân bài cần được dẫn nguồn đầy đủ bằng các chú thích trong hàng để người khác có thể kiểm chứng. |
'
Đông Nam ÁĐông Nam Á là một khu vực nằm ở phía Đông Nam châu Á, bao gồm các nước nằm ở phía nam Trung Quốc, phía đông Ấn Độ và phía bắc của Úc, phía Tây Papua New Guinea[1]. Khu vực này rộng 4.494.047 km² (chiếm 10.5% diện tích Châu Á và 3% diện tích đất trên Trái Đất). Phần lớn khu vực nằm ở bán cầu Bắc và nằm một chút tại bán cầu Nam. Nó bao gồm 11 quốc gia được chia thành 2 nhóm:
- Nhóm đất liền (Bán đảo Trung - Ấn): Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan, Myanmar và phía tây Malaysia.
- Nhóm hải đảo (Quần đảo Mã Lai): Indonesia, phía đông Malaysia, Singapore, Philipines, Đông Timor, Brunei.
Vào năm 2014, dân số của cả khu vực lên đến 612.7 triệu người, trong đó hơn 1/6 sống trên đảo Java (Indonesia). Hầu hết các quốc gia Đông Nam Á đều gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN (Association Southeast Asian Nations) trừ Đông Timor.
Địa hình
Đông Nam Á là chỗ giao nhau của nhiều mảng địa chất có núi lửa và động đất hoạt động mạnh.
Các quốc gia của khu vực
Các quốc gia của khu vực được chia ra làm hai nhóm chính: Myanmar, Thái Lan, Campuchia, Lào và Việt Nam nằm ở Đông Nam Á lục địa, còn gọi bán đảo Trung Ấn, còn các quốc gia còn lại tạo thành Đông Nam Á hải đảo.
- Các quốc gia thuộc Đông Nam Á hải đảo: Malaysia, Singapore, Brunei, Indonesia, Philippines và Đông Timor.
- Các quốc gia thuộc Đông Nam Á lục địa: Myanmar, Lào, Thái Lan, Campuchia và Việt Nam.
Trong 11 nước Đông Nam Á, thì có 10 quốc gia có hải giới, trừ Lào. Philippines và Singapore là nước trong khu vực này không có địa giới chung với bất kỳ quốc gia nào khác.
Tên gọi
Ý niệm về Đông Nam Á như một khu vực riêng biệt đã có từ lâu. Song cùng với thời gian, khái niệm này ngày càng được hiểu một cách đầy đủ và chính xác hơn. Người Trung Quốc xưa kia thường dùng từ "Nam Dương" để chỉ những nước nằm trong vùng biển phía nam. Người Nhật gọi vùng này là "NanYo". Người Ả Rập xưa gọi vùng này là "Qumr", rồi lại gọi là "Waq - Waq" và sau này chỉ gọi là "Zabag". Còn người Ấn Độ từ xưa vẫn gọi vùng này là "Suvarnabhumi" (đất vàng) hay "Suvarnadvipa" (đảo vàng). Tuy nhiên đối với các lái buôn thời bấy giờ, Đông Nam Á được nhìn nhận là một vùng thần bí, nơi sản xuất hương liệu gia vị và những sản phẩm kì lạ khác, còn sinh sống ở đây là những con người thành thạo và can đảm.
Tên gọi "Đông Nam Á" được các nhà nghiên cứu chính trị và quân sự của Hà Lan, Anh, Mỹ đưa ra từ những năm đầu khi nổ ra Chiến tranh thế giới thứ hai, nhưng chính thức đi vào lịch sử với ý nghĩa là một khu vực địa - chính trị, và quân sự được bắt đầu từ khi Tổng thống Mỹ Franklin D. Roosevelt và Thủ tướng Anh Winston Churchill tại Hội nghị Québec lần thứ nhất vào tháng 8 năm 1943 nhất trí thành lập Bộ chỉ huy tối cao quân Đồng Minh ở Đông Nam Á. Trước đó, để chỉ khu vực này, người ta đã dùng nhiều tên gọi khác nhau cho những mục đích riêng biệt.
Lúc bấy giờ cũng có sự khác nhau về cách viết từ Đông Nam Á bằng tiếng Anh. Một số nhà nghiên cứu như Victor Purcell, E.G.H. Dobby, dùng từ Southeast thay cho South East hay South-East, vốn được dùng từ lâu. Bộ tư lệnh tối cao Đông Nam Á (SEAC) vẫn dùng từ Southeast [cần dẫn nguồn]. Như thế có thể thấy rằng từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, từ "Đông Nam Á" mới xuất hiện trên bản đồ chính trị thế giới như một khu vực riêng biệt và có tầm quan trọng đặc biệt. Song nếu như trước đây, người ta mới chỉ nhìn thấy tính khu vực Đông Nam Á thể hiện ở vị trí địa lý - chính trị và quân sự của nó thì đến nay nhiều người đã khẳng định rằng ít nhất cho đến thế kỷ XVI, Đông Nam Á đã nổi lên như một trong những trung tâm văn minh, một khu vực địa lý - lịch sử - văn hóa trước khi trở thành một khu vực địa lý - chính trị.
Văn minh Đông Nam Á
Trong quá trình phát triển lịch sử, Đông Nam Á chịu ảnh hưởng của các nền văn minh bên ngoài, song sự tác động ấy không vì thế mà biết vùng này thành khu vực "Ấn Độ hóa" hay "Hán hoá". Nó đã lựa chọn những gì thích hợp trong văn hóa Dravid, đồng thời phục tùng các đặc điểm của mình, chứ không phải tiếp thu tất cả những gì xa lạ với nó. [cần dẫn nguồn]
Theo một số nhà nghiên cứu thì cư dân Đông Nam Á có những nét chung thống nhất về mặt văn hóa, vì cư dân ở đây có chung một nền tảng văn hóa Đông Nam Á, lấy sản xuất nông nghiệp lúa nước làm phương thức hoạt động kinh tế chính. Đông Nam Á được coi là "cái nôi" của cây lúa nước và là một trong 5 trung tâm cây trồng lớn trên thế giới[cần dẫn nguồn]. Văn hóa Hòa Bình đã chứng minh cư dân ở đây đã thuần hóa nhiều giống lúa, thực vật khác nhau, xuất hiện nền nông nghiệp sơ khai với các loại cây trồng, đặc biệt là các loại cây có củ và bầu bí, các cây họ đậu ở vùng thung lũng chân núi. Có nhà nghiên cứu còn cho rằng chủ nhân văn hóa Hoà Bình là người biết trồng trọt đầu tiên trên thế giới[cần dẫn nguồn]; niên đại nông nghiệp ở đây có thể lên đến hơn 1 vạn năm TCN. Vì thế, Đông Nam Á đã là một trong những nơi có cuộc cách mạng nông nghiệp sớm nhất trên thế giới. Đến thời đại đồ đồng, trong điều kiện của vùng nhiệt đới, cư dân Đông Nam Á đã bước sang kinh tế trồng lúa khô ở nương rẫy và lúa nước ở vùng thung lũng hẹp châu thổ. Cây lúa đầu tiên được thuần dưỡng ở vùng vùng thung lũng theo chân núi dần dần được chuyển xuống vùng châu thổ thích nghi với vùng ngập nước. Cùng với việc trồng lúa nước, người ta đã thuần dưỡng trâu bò làm sức kéo, xuất hiện các nghề thủ công, đặc biệt là nghề sông biển. Từ đó, nông nghiệp lúa nước đã trở thành một cơ sở quan trọng của nền văn minh khu vực. Đó là một nền văn minh mang đủ các sắc thái của những nền văn minh đồng bằng, biển, nửa đồi núi, nửa rừng với đủ các dạng kết cấu đan xen phức tạp... cơ sở chung của nền văn minh này là nông nghiệp trồng lúa nước, văn hóa xóm làng.
Đến khoảng nửa đầu thế kỷ XV, hầu hết các quốc gia tiền thân ở Đông Nam Á đã ra đời, và bắt đầu bước vào giai đoạn phát triển rực rỡ mà điển hình là nhà nước Đại Việt dưới triều nhà Lê. Đây là nhà nước hoàn thiện và hùng mạnh nhất ở Đông Nam Á thời bấy giờ[cần dẫn nguồn]. Nhưng đến nửa đầu thế kỷ XVIII, các nhà nước trên bắt đầu suy yếu và rơi vào sự xâm lược hoặc lệ thuộc vào phương Tây, bắt đầu chịu ảnh hưởng của văn hóa châu Âu.
Tự nhiên ảnh hưởng đến khu vực
Phải nói rằng gió mùa không chỉ đem lại thuận lợi cho con người mà còn là những yếu tố tự nhiên tác động và tạo nên sự thất thường cho khí hậu trong vùng, với biên độ không lớn lắm. Mưa nhiệt đới trên địa bàn tự nhiên của khu vực tạo ra những vùng nhỏ, xen kẽ giữa rừng nhiệt đới, đồi núi, bờ biển, và đồng bằng, tạo nên những cảnh quan đa dạng. Thực tế đó khiến cho Đông Nam Á thiếu những không gian rộng cho sự phát triển kinh tế - xã hội trên quy mô lớn, thiếu những điều kiện tự nhiên cho sự phát triển những kĩ thuật tinh tế, phức tạp. Ở đây không có những đồng bằng rộng lớn như vùng châu thổ sông Ấn, sông Hằng hay Hoàng Hà; cũng không có những đồng cỏ mênh mông như vùng thảo nguyên. Không gian sinh tồn ở đây tuy nhỏ hẹp nhưng lại rất phong phú, đa dạng. Con người có thể khai thác ở thiên nhiên đủ loại thức ăn để sinh tồn. Vì thế có người gọi Đông Nam Á là khu vực khai thác thức ăn theo nghĩa rộng. Những điều kiện đó rất thuận lợi cho cuộc sống con người trong buổi đầu, nhưng không khỏi ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển của một nền sản xuất lớn, tạo nên một khối lượng sản phẩm lớn trong những giai đoạn phát triển sau này của khu vực. Đồng thời, sự đa dạng, đan xen của những địa bàn sinh tụ nhỏ trong văn hóa tộc người của cả khu vực và trong mỗi quốc gia.
Do điều kiện địa lý của mình, Đông Nam Á chịu ảnh hưởng chủ yếu của gió mùa, tạo nên hai muà tương đối rõ rệt: mùa khô lạnh, mát và mùa mưa tương đối nóng và ẩm. Vì thế, Đông Nam Á còn được gọi là khu vực "Châu Á gió mùa". Nếu theo khái niệm này thì ranh giới địa lý khu vực Đông Nam Á còn bao gồm cả miền Nam Trường Giang và vùng Đông Bắc của Ấn Độ nữa. Chính gió mùa và khí hậu biển làm cho khí hậu vùng Đông Nam Á đáng lẽ có thể trở nên khô cằn như một số khu vực lục địa khác có cùng vĩ độ [2] đã trở nên xanh tốt và trù phú với những đô thị đông đúc và thịnh vượng như Kuala Lumpur, Singapore, Jakarta... Gió mùa kèm theo những cơn mưa nhiệt đới đã cung cấp đủ nước cho con người dùng trong đời sống và sản xuất hằng năm, tạo nên những cánh rừng nhiệt đới phong phú về thảo mộc và chim muông. Đông Nam Á từ lâu đã trở thành quê hương của những cây gia vị, cây hương liệu đặc trưng như hồ tiêu, sa nhân, đậu khấu, hồi, quế, trầm hương... và cây lương thực đặc trưng là lúa nước.
Kinh tế biển của khu vực Đông Nam Á
Do vị trí địa lý nằm án ngữ trên con đường hàng hải nối liền giữa Ấn Độ Dương với Thái Bình Dương, Đông Nam Á từ lâu vẫn được coi là cầu nối giữa Trung Quốc, Nhật Bản với Ấn Độ, Tây Á và Địa Trung Hải. Thậm chí đến gần đây, một số nhà nghiên cứu vẫn gọi khu vực này là "ống thông gió" hay "ngã tư đường"[cần dẫn nguồn].
Việc đi lại bằng thuyền ở đây đã có từ thời rất xa xưa. Có thể nói cư dân nơi đây đã biết đóng thuyền bè mảng và thuyền đi biển rất sớm. Dựa trên các tài liệu cổ học, W. Solheime đã nhận định rằng kỹ thuật đi biển xuất hiện sớm nhất ở vùng duyên hải quần đảo Sulu, giữa Mindanao, Borneo và đảo Celebes khoảng 8000 - 9000 năm trước. Kĩ thuật hàng hải cổ đạt đến đỉnh cao vào khoảng thế kỷ V TCN khi những hình thuyền cỡ dáng to lớn, kiểu cong mũi, cong lái được khắc trên nhiều trống đồng Đông Sơn. Các thư tịch cổ Trung Quốc từ thế kỷ III cũng xác nhận rằng các sư tăng Trung Hoa sang Ấn Độ đều đi trên những thuyền gọi là "Côn Luân bản", dài đến 50m, trọng tải đến 600 tấn, có thể chở hàng trăm người, có buồm lớn, buồm con... của các nước thương nghiệp Đông Nam Á. Những con thuyền này đều có cột, giương buồm đã vượt khơi nối liền Đông Nam Á với Trung Quốc và Ấn Độ, chở người và hàng hóa, từ đầu Công nguyên cho đến thế kỷ XV-XVI. Trong cuộc hành trình này, một số thuyền bị đắm. P.Y. Manguin đưa ra một danh mục 10 thuyền bị đắm đã được khảo cổ học dưới nước phát hiện và nghiên cứu trong đó có 2 thuyền ở Pahang (Malaysia) và Agusan (Philippines) có niên đại từ thế kỷ III-V; 3 thuyền thuộc thế kỷ V-VI và những thuyền khác thuộc thế kỷ VII-XIV. Trên tường khu đền Borobudur còn có phù điêu hình con thuyền buồm lớn nhiều mái chèo, gần giống với những hạm thuyền của La Mã cổ đại[cần dẫn nguồn].
Việc buôn bán bằng đường biển với Đông Nam Á đã khá nhộn nhịp từ thế kỷ II. Đến thế kỷ VII, thuyền buôn Ả Rập đã thường xuyên đến vùng này để mua hương liệu, gia vị. Không phải ngẫu nhiên mà ở đây đã có mặt những nhà địa lý hay du lịch, nhà truyền giáo hay ngoại giao của cả phương Đông và phương Tây. Trong suốt chiều dài của cuộc hàng trình nổi lên những nhà thám hiểm như Claudius Ptolemaeus[cần dẫn nguồn], Khang Thái, Nghĩa Tình, Pháp Hiển, Trịnh Hòa, Marco Polo, Chu Đạt Quang... Họ đã đến đây xem xét, ghi chép và để lại những tài liệu quý giá cho đời sau. Cũng không phải ngẫu nhiên mà nhiều nhà nghiên cứu coi Đông Nam Á là một bộ phận của hệ thống mậu dịch thế giới, nối liền hai thế giới Đông - Tây, có từ thời truyền bá đạo Phật, đạo Hindu cho đến tận ngày nay.
Đông Nam Á là khu vực văn hóa lâu đời, có nguồn gốc và bản sắc riêng của mỗi dân tộc, bên cạnh những nét chung do mối quan hệ từ lâu đời trên nhiều lĩnh vực. Dù có chịu nhiều ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc, văn hóa Ấn Độ, nền văn hóa Đông Nam Á vẫn mang tính riêng biệt độc đáo.
Các thống kê
Quốc gia | Diện tích (km2)[3] |
Dân số (2014)[3] |
Mật độ dân số (người/km2) |
GDP (danh nghĩa), USD (2014)[3] |
GDP đầu người, USD (2014)[3] |
HDI (2013)[4] | Thủ đô | Quốc huy và Huy hiệu |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Brunei | 5.765 | 453.000 | 78 | 17.105.000.000 | $37.759 | 0,852 cao
|
Bandar Seri Begawan | |
Campuchia | 181.035 | 15.561.000 | 85 | 17.291.000.000 | $1.111 | 0,584 trung bình
|
Phnom Penh | |
Đông Timor | 14.874 | 1.172.000 | 75 | 4.382.000.000 | $3.739 | 0,620 trung bình
|
Dili | |
Indonesia | 1.904.569 | 251.490.000 | 132 | 1.187.962.000.000 | $4.723 | 0,684 trung bình
|
Jakarta | |
Lào | 236.800 | 6.557.000 | 30 | 11.206.000.000 | $1.709 | 0,569 trung bình
|
Vientiane | |
Malaysia | 329.847 | 30.034.000 | 91 | 367.712.000.000 | $12.243 | 0,773 cao
|
Kuala Lumpur | |
Myanmar | 676.000 | 51.419.000 | 98 | 63.881.000.000 | $964 | 0,524 trung bình
|
Naypyidaw | |
Philippines | 342.353 | 101.649.000 | 338 | 278.260.000.000 | $2.737 | 0,660 trung bình
|
Manila | |
Singapore | 724 | 5.554.000 | 7.671 | 289.086.000.000 | $52.049 | 0,901 rất cao
|
Singapore | |
Thái Lan | 513.120 | 65.236.000 | 127 | 437.344.000.000 | $6.703 | 0,722 cao
|
Băng Cốc | |
Việt Nam | 331.210 | 92.571.000 | 279 | 187.848.000.000 | $2.385 | 0,638 trung bình
|
Hà Nội |
Dân số quá khứ và trong tương lai
Rank | Country | Area (km2) | 1950 (Đơn vị nghìn dân) | 2000 | 2020 | 2050 | 2100 |
---|---|---|---|---|---|---|---|
1 | Indonesia | 1.904.569 | 82,979 | 166,070 | 271,080 | 327,000 | 356,000 |
2 | Myanmar | 676.000 | 21,050 | 36,766 | 59,126 | 70,600 | 56,511 |
3 | Thái Lan | 513.120 | 23,342 | 51,759 | 68,978 | 66,064 | 64,800 |
4 | Philippines | 342.353 | 24,336 | 61,600 | 109,181 | 154,381 | 167,300 |
5 | Việt Nam | 331.210 | 25,000 | 80,285 | 98,156 | 112,783 | 105,000 |
6 | Malaysia | 329.847 | 7,312 | 15,650 | 32,653 | 42,929 | 51,000 |
7 | Lào | 236.800 | 2,078 | 4,211 | 7,448 | 10,900 | 23,800 |
8 | Campuchia | 181.035 | 5,211 | 9,368 | 16,927 | 22,400 | 56,511 |
9 | Đông Timor | 14.874 | 473 | 740 | 1,400 | 2,192 | 2,990 |
10 | Brunei | 5.765 | 45 | 254 | 465 | 639 | 721 |
11 | Singapore | 824 | 1,123 | 3,048 | 6,210 | 8,610 | 9,210 |
Total | 4.536.397 | 192,949 | 429,751 | 671,624 | 818,498 | ' |
Chỉ số tự do
Dưới đây là bảng thống kê chỉ số tự do của các nước khu vực Đông Nam Á 2018, dựa trên các tiêu chí tự do công dân (quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí) và tự do chính trị.
Quốc gia | Chỉ số tự do 2018 |
---|---|
Lào | Không tự do |
Campuchia | Không tự do |
Myanmar | Không tự do |
Brunei | Không tự do |
Việt Nam | Không tự do |
Indonesia | Khá tự do |
Malaysia | Khá tự do |
Singapore | Khá tự do |
Philippines | Khá tự do |
Đông Timor | Khá tự do |
Thái Lan | Khá tự do |
Cơ quan lập pháp
Cơ quan lập pháp tại các quốc gia Đông Nam Á được tổ chức theo 2 hệ thống: Hệ thống lưỡng viện gồm các quốc gia: Thái Lan, Campuchia, Myanmar, Malaysia, Indonesia và Philippines. Hệ thống đơn viện gồm các quốc gia: Việt Nam, Lào, Singapore, Brunei và Đông Timor. Quốc hội Indonesia được xem là nghị viện có số đại biểu đông nhất Đông Nam Á, với 692 thành viên (132 ở thượng viện và 560 ở hạ viện). Quốc hội Brunei có số thành viên ít nhất, chỉ có 36 nghị sĩ.
STT | Quốc gia | Tổng số ghế | Số ghế thượng viện | Số ghế hạ viện | Tuổi bầu cử | Đứng đầu Quốc hội | Nhiệm kỳ |
---|---|---|---|---|---|---|---|
1 | Campuchia | 184 ghế | 61 ghế | 123 ghế | 18 tuổi trở lên | Chủ tịch Thượng viện và Chủ tịch Hạ viện | 5 năm tại Thượng viện và 5 năm tại Hạ viện |
2 | Thái Lan | 650 ghế | 150 ghế | 500 ghế | 18 tuổi trở lên | Phát ngôn viên Thượng viện và Phát ngôn viên Hạ viện | 5 năm tại Thượng viện và 5 năm tại Hạ viện |
3 | Myanmar | 664 ghế | 224 ghế | 440 ghế | 18 tuổi trở lên | Chủ tịch Thượng viện và Phát ngôn viên Hạ viện | 5 năm tại Thượng viện và 5 năm tại Hạ viện |
4 | Malaysia | 292 ghế | 70 ghế | 222 ghế | 21 tuổi trở lên | Chủ tịch Thượng viện và chủ tịch Hạ viện | 3 năm tại Thượng viện và 5 năm tại Hạ viện |
5 | Indonesia | 692 ghế | 132 ghế | 560 ghế | 17 tuổi trở lên | Chủ tịch Thượng viện và Chủ tịch Hạ viện | 5 năm tại Thượng viện và 5 năm tại Hạ viện |
6 | Philippines | 310 ghế | 24 ghế | 286 ghế | 18 tuổi trở lên | Chủ tịch Thượng viện và Chủ tịch Hạ viện | 6 năm tại Thượng viện và 3 năm tại Hạ viện |
7 | Việt Nam | 498 ghế | Không chia viện | Không chia viện | 18 tuổi trở lên | Chủ tịch Quốc hội | 5 năm |
8 | Lào | 115 ghế | Không chia viện | Không chia viện | 18 tuổi trở lên | Chủ tịch Quốc hội | 5 năm |
9 | Singapore | 99 ghế | Không chia viện | Không chia viện | 21 tuổi trở lên | Phát ngôn viên Quốc hội | 5 năm |
10 | Brunei | 36 ghế | Không chia viện | Không chia viện | 18 tuổi trở lên | Chủ tịch Quốc hội | Không cố định |
11 | Đông Timor | 65 ghế | Không chia viện | Không chia viện | 17 tuổi trở lên | Chủ tịch Quốc hội | 5 năm |
Đặc điểm xã hội
Đông Nam Á có các biển, vịnh biển ăn sâu vào đất liền, tạo điều kiện cho các luồng di dân giữa đất liền và các đảo, cho sự giao lưu văn hóa giữa các quốc gia, các dân tộc. Người Đông Nam Á có nhiều nét tương đồng trong sinh hoạt, sản xuất, như cùng trồng lúa nước, dùng trâu bò làm sức kéo, dùng gạo làm nguồn lương thực chính... Tuy vậy mỗi nước vẫn có những phong tục, tập quán, tín ngưỡng riêng tạo nên sự đa dạng trong văn hóa của cả khu vực. Ví dụ sự đa dạng về tín ngưỡng: đa số người Malaysia, Indonesia theo đạo Hồi; người Myanmar, Thái Lan, Campuchia và Lào theo đạo Phật; ở Philippines, đạo Ki-tô và đạo Hồi có số người theo đông nhất. Ở Việt Nam cùng với đạo Phật, đạo Ki-tô, người dân còn có các tín ngưỡng địa phương.
Vị trí cầu nối và nguồn tài nguyên giàu có của Đông nam Á đã thu hút sự chú ý của các nước đế quốc. Cho tới trước chiến tranh thế giới thứ hai, ba nước Campuchia, Lào, Việt Nam bị đế quốc Pháp xâm chiếm; Myanmar, Malaysia trở thành thuộc địa của Anh; Indonesia là thuộc địa của Hà Lan; Philippines bị Tây Ban Nha và sau đó Hoa Kỳ chiếm đóng. Ngoại lệ, Thái Lan giữ được nền độc lập nhưng lệ thuộc phương Tây nhiều mặt. Trong chiến tranh thế giới thứ hai, hầu hết các nước Đông Nam Á bị phát xít Nhật xâm chiếm. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, các nước đã lần lượt giành lại được độc lập. Hiện nay đa số các quốc gia trong khu vực theo chế độ cộng hòa, bên cạnh đó là một số quốc gia theo chính thể quân chủ lập hiến. Các nước trong khu vực đều mong muốn hợp tác phát triển. Các nước Đông Nam Á có những nét tương đồng trong nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, trong lịch sử đấu tranh giành độc lập và đang cùng nhau xây dựng mối quan hệ hợp tác toàn diện, cùng nhau phát triển đất nước và khu vực.
Đặc điểm dân cư
Đông Nam Á có nhiều chủng tộc Môn-gô-lô-ít và Ô-xtra-lô-it cùng chung sống. Dân cư đông đúc, dân số trẻ chiếm số đông nên Đông Nam Á vừa là nơi có nguồn lao động dồi dào vừa là một thị trường tiêu thụ lớn. Đó là những yếu tố thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội của khu vực.
Chú thích
- ^ https://binbin0111.wordpress.com/2019/06/15/information-about-in-southeast-asia/
- ^ lịch sử trung đại thế giới phần phương đông. GS Lương Ninh. trang 9
- ^ a b c d “Southeast Asia GDP”. Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF).
- ^ “2014 Human Development Report Summary” (PDF). Chương trình Phát triển của Liên hiệp quốc. tr. 21–25. Truy cập 13 tháng 4 năm 2015.
- ^ https://danso.org/dong-nam-a/.
|title=
trống hay bị thiếu (trợ giúp)
Xem thêm
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Đông Nam Á. |