Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tiếng Hán thượng cổ”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 31: Dòng 31:
'''Tiếng Trung Quốc thượng cổ''', '''tiếng Hán thượng cổ''' ({{zh|t=上古漢語|s=上古汉语|p=Shànggǔ Hànyǔ|hv=Thượng Cổ Hán Ngữ}}) là giai đoạn [[tiếng Trung Quốc]] cổ nhất được ghi nhận, là tiền thân của tất cả [[Các dạng tiếng Trung Quốc|dạng tiếng Trung Quốc]] ngày nay.{{efn|Mỗi học giả nhìn nhận giai đoạn tiếng Trung Quốc cổ đại theo một cách khác nhau.
'''Tiếng Trung Quốc thượng cổ''', '''tiếng Hán thượng cổ''' ({{zh|t=上古漢語|s=上古汉语|p=Shànggǔ Hànyǔ|hv=Thượng Cổ Hán Ngữ}}) là giai đoạn [[tiếng Trung Quốc]] cổ nhất được ghi nhận, là tiền thân của tất cả [[Các dạng tiếng Trung Quốc|dạng tiếng Trung Quốc]] ngày nay.{{efn|Mỗi học giả nhìn nhận giai đoạn tiếng Trung Quốc cổ đại theo một cách khác nhau.
Một số cho rằng thời kỳ này dừng ở đầu nhà Chu, dựa trên bằng chứng hình thái học hiện có.
Một số cho rằng thời kỳ này dừng ở đầu nhà Chu, dựa trên bằng chứng hình thái học hiện có.
Số khác cho rằng thời kỳ này gồm toàn bộ thời nhà Chu, thêm cả thời cuối [[nhà Thương]] dựa trên ngữ liệu cổ có được. Số khác nữa gồm thời nhà Tần, Hán, đôi lúc cả những thời kỳ sau nữa. Thời [[Tiếng Trung Quốc trung đại|tiếng Trung Quốc trung đại/trung cổ]] được cho là bắt đầu sau khi nhà Tấn thống nhất Trung Quốc, kết thúc vào khoảng khi nhà Tuỳ sụp đổ và khi ''[[Thiết Vận]]'' hoàn thành.{{sfnp|Tai|Chan|1999|pp=225–233}}
Số khác cho rằng thời kỳ này gồm toàn bộ thời nhà Chu, thêm cả thời cuối [[nhà Thương]] dựa trên ngữ liệu cổ có được. Số khác nữa gồm thời nhà Tần, Hán, đôi lúc cả những thời kỳ sau nữa. Thời [[Tiếng Trung Quốc trung đại|tiếng Trung Quốc trung đại/trung cổ]] được cho là bắt đầu sau khi nhà Tấn thống nhất Trung Quốc, trước khi nhà Tuỳ sụp đổ và trước khi ''[[Thiết Vận]]'' hoàn thành.{{sfnp|Tai|Chan|1999|pp=225–233}}
Tiền thân của lớp từ vựng cổ nhất trong các phương ngữ [[tiếng Mân]] được cho là tách khỏi phần còn lại vào nhà Hán, cuối thời kỳ tiếng Trung thượng cổ.{{sfnp|Baxter|Sagart|2014|p=33}}|name=|group=}} Ngữ liệu cổ nhất ta có được là những bản khắc [[Giáp cốt văn]] niên đại khoảng 1250 TCN, cuối [[nhà Thương]]. Sau đó, thời [[nhà Chu]], [[Kim văn]] trở nên phổ biến. Nửa cuối nhà Chu, nền văn học phát triển vượt bậc, với các [[Tứ Thư Ngũ Kinh|tác phẩm kinh điển]] như ''[[Luận ngữ]]'', ''[[Mạnh Tử (sách)|Mạnh Tử]]'', ''[[Tả truyện]]''. Những tác phẩm này là hình mẫu cho [[Văn ngôn]], dạng tiếng Trung viết chuẩn cho đến đầu thế kỷ XX, qua đó giúp lưu giữ phần từ vựng-ngữ pháp thời cuối tiếng Trung thượng cổ.
Tiền thân của lớp từ vựng cổ nhất trong các phương ngữ [[tiếng Mân]] được cho là tách khỏi phần còn lại vào nhà Hán, cuối thời kỳ tiếng Trung thượng cổ.{{sfnp|Baxter|Sagart|2014|p=33}}|name=|group=}} Ngữ liệu cổ nhất ta có được là những bản khắc [[Giáp cốt văn]] niên đại khoảng 1250 TCN, cuối [[nhà Thương]]. Sau đó, thời [[nhà Chu]], [[Kim văn]] trở nên phổ biến. Nửa cuối nhà Chu, nền văn học phát triển vượt bậc, với các [[Tứ Thư Ngũ Kinh|tác phẩm kinh điển]] như ''[[Luận ngữ]]'', ''[[Mạnh Tử (sách)|Mạnh Tử]]'', ''[[Tả truyện]]''. Những tác phẩm này là hình mẫu cho [[Văn ngôn]], dạng tiếng Trung viết chuẩn cho đến đầu thế kỷ XX, qua đó giúp lưu giữ phần từ vựng-ngữ pháp thời cuối tiếng Trung thượng cổ.



Phiên bản lúc 10:26, ngày 1 tháng 11 năm 2019

Tiếng Trung Quốc thượng cổ
Tiếng Trung Quốc cổ đại
Kim văn thời nha Chu (khoảng  825 TCN[1])
Sử dụng tạiTrung Quốc cổ đại
Phân loạiHán-Tạng
  • Hán
    • Tiếng Trung Quốc thượng cổ
Hệ chữ viếtGiáp cốt văn, Kim văn, Triện thư
Mã ngôn ngữ
ISO 639-3och
Glottologshan1294
Linguasphere79-AAA-a
Bài viết này có chứa ký tự ngữ âm IPA. Nếu không thích hợp hỗ trợ dựng hình, bạn có thể sẽ nhìn thấy dấu chấm hỏi, hộp, hoặc ký hiệu khác thay vì kí tự Unicode. Để biết hướng dẫn giới thiệu về các ký hiệu IPA, xem Trợ giúp:IPA.

Tiếng Trung Quốc thượng cổ, tiếng Hán thượng cổ (giản thể: 上古汉语; phồn thể: 上古漢語; Hán-Việt: Thượng Cổ Hán Ngữ; bính âm: Shànggǔ Hànyǔ) là giai đoạn tiếng Trung Quốc cổ nhất được ghi nhận, là tiền thân của tất cả dạng tiếng Trung Quốc ngày nay.[a] Ngữ liệu cổ nhất ta có được là những bản khắc Giáp cốt văn niên đại khoảng 1250 TCN, cuối nhà Thương. Sau đó, thời nhà Chu, Kim văn trở nên phổ biến. Nửa cuối nhà Chu, nền văn học phát triển vượt bậc, với các tác phẩm kinh điển như Luận ngữ, Mạnh Tử, Tả truyện. Những tác phẩm này là hình mẫu cho Văn ngôn, dạng tiếng Trung viết chuẩn cho đến đầu thế kỷ XX, qua đó giúp lưu giữ phần từ vựng-ngữ pháp thời cuối tiếng Trung thượng cổ.

Chú thích

  1. ^ Mỗi học giả nhìn nhận giai đoạn tiếng Trung Quốc cổ đại theo một cách khác nhau. Một số cho rằng thời kỳ này dừng ở đầu nhà Chu, dựa trên bằng chứng hình thái học hiện có. Số khác cho rằng thời kỳ này gồm toàn bộ thời nhà Chu, thêm cả thời cuối nhà Thương dựa trên ngữ liệu cổ có được. Số khác nữa gồm thời nhà Tần, Hán, đôi lúc cả những thời kỳ sau nữa. Thời tiếng Trung Quốc trung đại/trung cổ được cho là bắt đầu sau khi nhà Tấn thống nhất Trung Quốc, trước khi nhà Tuỳ sụp đổ và trước khi Thiết Vận hoàn thành.[2] Tiền thân của lớp từ vựng cổ nhất trong các phương ngữ tiếng Mân được cho là tách khỏi phần còn lại vào nhà Hán, cuối thời kỳ tiếng Trung thượng cổ.[3]

Nguồn tham khảo

  1. ^ Shaughnessy (1999), tr. 298.
  2. ^ Tai & Chan (1999), tr. 225–233.
  3. ^ Baxter & Sagart (2014), tr. 33.