Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Hưng Hóa Tồn Tương”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
AlphamaEditor, Executed time: 00:00:02.0451117 using AWB
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1: Dòng 1:
Thiền Hưng Hóa Tồn Tưởng (tiếng Trung: 興化存奬, tiếng Nhật:Kōke Zonshō, 830-888) là [[Thiền|Thiền Sư]] [[Trung Quốc]] sống vào thời [[Hậu Đường]], đệ tử đắc pháp của [[Thiền sư|Thiền Sư]] [[Lâm Tế Nghĩa Huyền|Lâm]] {{Infobox religious biography|background=#FFD068|color=white|name=Hưng Hóa Tồn Tưởng <br />興化存奬|image=[[Tập tin:Thiền Sư Hưng Hóa Tồn Tưởng.jpg|200px]]|caption=|birth name=|alias=|dharma name=|birth_date=830|birth_place=|death_date=888|death_place=|religion=|school=[[Lâm Tế Tông]]|lineage=|title=[[Thiền sư]]|teacher=[[Lâm Tế Nghĩa Huyền]]|predecessor=[[Lâm Tế Nghĩa Huyền]]|successor=[[Nam Viện Huệ Ngung]]|students=[[Nam Viện Huệ Ngung]]}}[[Lâm Tế Nghĩa Huyền|Tế Nghĩa Huyền]]. Sư nổi tiếng với việc biên soạn tập Lâm Tế Ngữ Lục, dòng truyền thừa [[Lâm Tế tông|Lâm Tế Tông]] của sư là dòng chính nên sư còn được tôn làm Nhị Tổ của [[Lâm Tế tông|Tông Lâm Tế]]. Sư có môn đệ đắc pháp là [[Thiền sư|Thiền Sư]] [[Nam Viện Huệ Ngung]](南院慧顒).
Thiền '''Hưng Hóa Tồn Tưởng''' (tiếng Trung: 興化存奬, tiếng Nhật:Kōke Zonshō, 830-888) là [[thiền sư]] [[Trung Quốc]] sống vào thời [[Hậu Đường]], đệ tử đắc pháp của [[Thiền sư]] [[Lâm Tế Nghĩa Huyền|Lâm]] {{Infobox religious biography|background=#FFD068|color=white|name=Hưng Hóa Tồn Tưởng <br />興化存奬|image=[[Tập tin:Thiền Sư Hưng Hóa Tồn Tưởng.jpg|200px]]|caption=|birth name=|alias=|dharma name=|birth_date=830|birth_place=|death_date=888|death_place=|religion=|school=[[Lâm Tế Tông]]|lineage=|title=[[Thiền sư]]|teacher=[[Lâm Tế Nghĩa Huyền]]|predecessor=[[Lâm Tế Nghĩa Huyền]]|successor=[[Nam Viện Huệ Ngung]]|students=[[Nam Viện Huệ Ngung]]}}[[Lâm Tế Nghĩa Huyền|Tế Nghĩa Huyền]]. Sư nổi tiếng với việc biên soạn tập Lâm Tế Ngữ Lục, dòng truyền thừa [[Lâm Tế tông|Lâm Tế Tông]] của sư là dòng chính nên sư còn được tôn làm Nhị Tổ của [[Lâm Tế tông|Tông Lâm Tế]]. Sư có môn đệ đắc pháp là [[Thiền sư]] [[Nam Viện Huệ Ngung]](南院慧顒).


== Cơ Duyên ==
== Cơ duyên ==
Sư họ Khổng (孔), quê ở vùng Khuyết Lí (闕里), Trung Quốc.
Sư họ Khổng (孔), quê ở vùng Khuyết Lí (闕里), Trung Quốc.


Sư xuất gia, rồi đến tham vấn, làm thị giả dưới hội của [[Thiền sư|Thiền Sư]] [[Lâm Tế Nghĩa Huyền]](臨濟義玄), Đến khi Lâm Tế tịch, sư vẫn chưa triệt ngộ.
Sư xuất gia, rồi đến tham vấn, làm thị giả dưới hội của [[Thiền sư|Thiền Sư]] [[Lâm Tế Nghĩa Huyền]](臨濟義玄), đến khi Lâm Tế tịch, sư vẫn chưa triệt ngộ.


Ở hội của [[Thiền sư]] [[Tam Thánh Huệ Nhiên]] (三聖慧然), Sư làm Thủ toạ, thường nói:Ta nhắm phương Nam đi hành cước, một phen gặp được đầu gậy, mà chẳng từng tìm ra một người hội Phật pháp. Tam Thánh nghe được nói: Ngươi đủ con mắt gì mà nói thế ấy? Sư liền hét. Tam Thánh nói: Phải là ngươi mới được. Thiền Sư Ðại Giác nghe chuyện này mong có ngày gặp sư để thử tài.
Ở hội của [[Thiền sư]] [[Tam Thánh Huệ Nhiên]] (三聖慧然), Sư làm thủ toạ, thường nói: Ta nhắm phương Nam đi hành cước, một phen gặp được đầu gậy, mà chẳng từng tìm ra một người hội Phật pháp. Tam Thánh nghe được nói: Ngươi đủ con mắt gì mà nói thế ấy? Sư liền hét. Tam Thánh nói: Phải là ngươi mới được. Thiền Sư Ðại Giác nghe chuyện này mong có ngày gặp sư để thử tài.


Sau sư đến làm Viện Chủ dưới hội của Thiền Ngụy Phủ Đại Giác(một đệ tử đắc pháp khác của Lâm tế), rồi được triệt ngộ. Công án ghi lại như sau:<blockquote>Một hôm Thiền Sư Đại Giác hỏi:Viện chủ! Ta nghe ông nói:Nhắm phương Nam đi hành cước, một phen gặp được đầu gậy, mà chẳng từng tìm ra một người hội Phật pháp, ông y cứ vào đạo gì mà nói như thế? Sư liền hét, Ðại Giác liền đánh, Sư lại hét, Ðại Giác lại đánh.
Sau sư đến làm viện chủ dưới hội của Thiền Ngụy Phủ Đại Giác (một đệ tử đắc pháp khác của Lâm tế), rồi được triệt ngộ. Công án ghi lại như sau:<blockquote>Một hôm Thiền Sư Đại Giác hỏi:Viện chủ! Ta nghe ông nói: Nhắm phương Nam đi hành cước, một phen gặp được đầu gậy, mà chẳng từng tìm ra một người hội Phật pháp, ông y cứ vào đạo gì mà nói như thế? Sư liền hét, Ðại Giác liền đánh, Sư lại hét, Ðại Giác lại đánh.


Hôm sau, Sư đi ngang qua pháp đường, Ðại Giác gọi: Viện chủ, ta vẫn còn nghi hai tiếng hét của ông hôm qua. Sư lại hét, Ðại Giác lại đánh. Sư lại hét, Ðại Giác lại đánh. Sư bèn nói: Tôi ở chỗ sư huynh Tam Thánh học được câu khách chủ, nay bị sư huynh bẻ gẫy rồi, xin cho tôi pháp môn an lạc. Ðại Giác bảo: Cái gã mù, đến trong ấy đã chịu thua, cổi áo nạp ra đánh đòn một trận.Ngay đây, Sư ngộ được chổ Lâm Tế ngày trước bị Hoàng Bá cho ăn 3 lần gậy.</blockquote>Sư đến trụ trì tại Hưng Hóa Tự (興化寺) ở Ngụy Phủ (魏府) và tuyên xướng tông phong của mình. Và từng hiệu đính bản Lâm Tế Lục (臨濟錄).
Hôm sau, Sư đi ngang qua pháp đường, Ðại Giác gọi: Viện chủ, ta vẫn còn nghi hai tiếng hét của ông hôm qua. Sư lại hét, Ðại Giác lại đánh. Sư lại hét, Ðại Giác lại đánh. Sư bèn nói: Tôi ở chỗ sư huynh Tam Thánh học được câu khách chủ, nay bị sư huynh bẻ gẫy rồi, xin cho tôi pháp môn an lạc. Ðại Giác bảo: Cái gã mù, đến trong ấy đã chịu thua, cổi áo nạp ra đánh đòn một trận.Ngay đây, Sư ngộ được chổ Lâm Tế ngày trước bị Hoàng Bá cho ăn 3 lần gậy.</blockquote>Sư đến trụ trì tại Hưng Hóa Tự (興化寺) ở Ngụy Phủ (魏府) và tuyên xướng tông phong của mình. Và từng hiệu đính bản Lâm Tế Lục (臨濟錄).
Dòng 24: Dòng 24:
Sư có để lại cuốn Hưng Hoá Tồn Tưởng Thiền sư ngữ lục(興化存獎禪師語錄) Cũng gọi Hưng hóa ngữ lục, Quảng tế đại sư ngữ lục(1 quyển), được ấn hành vào năm Vĩnh Lạc nhà Minh. được thu vào Cổ tôn túc ngữ lục quyển 5 trong Vạn tục tạng tập 118. Nội dung gồm có: Cơ duyên vấn đáp giữa sư và Thiền Sư Nghĩa huyền, lời đối đáp giữ sư và vua Trang tông đời Hậu Đường, Pháp ngữ khai đường thị chúng ở chùa Hưng hóa. Ngoài ra, ở cuối quyển có chép thêm bài kí nói về tháp của thiền sư Lâm tế Nghĩa Huyền do sư hiệu đính.
Sư có để lại cuốn Hưng Hoá Tồn Tưởng Thiền sư ngữ lục(興化存獎禪師語錄) Cũng gọi Hưng hóa ngữ lục, Quảng tế đại sư ngữ lục(1 quyển), được ấn hành vào năm Vĩnh Lạc nhà Minh. được thu vào Cổ tôn túc ngữ lục quyển 5 trong Vạn tục tạng tập 118. Nội dung gồm có: Cơ duyên vấn đáp giữa sư và Thiền Sư Nghĩa huyền, lời đối đáp giữ sư và vua Trang tông đời Hậu Đường, Pháp ngữ khai đường thị chúng ở chùa Hưng hóa. Ngoài ra, ở cuối quyển có chép thêm bài kí nói về tháp của thiền sư Lâm tế Nghĩa Huyền do sư hiệu đính.


== Pháp Ngữ ==
== Pháp ngữ ==
<nowiki>''</nowiki>Sư thượng đường, niêm hương: Một cây hương này vốn vì huynh Tam Thánh, Tam Thánh đối với ta rất ít ỏi; vốn vì huynh Đại Giác, Đại Giác đối với ta rất dư dật; chẳng bằng cúng dường Tiên sư Lâm Tế.<nowiki>''</nowiki>
<nowiki>''</nowiki>Sư thượng đường, niêm hương: Một cây hương này vốn vì huynh Tam Thánh, Tam Thánh đối với ta rất ít ỏi; vốn vì huynh Đại Giác, Đại Giác đối với ta rất dư dật; chẳng bằng cúng dường tiên sư Lâm Tế.<nowiki>''</nowiki>


<nowiki>''</nowiki>Sư dạy chúng: Ta chỉ nghe ngoài hành lang hét, ở giá sau cũng hét. Các ông chớ có hét mù, hét loạn, dù cho hét được Hưng Hóa bay đến trụ trong giữa trời, lại phải rơi xuống tắt thở, đợi Hưng Hóa tỉnh lại sẽ bảo ông "chưa hiện tại". Vì cớ sao? Ta chưa từng nhằm trong màn lụa đỏ để chân châu, với những người các ông hét loạn trong hư không để làm gì?<nowiki>''</nowiki>
<nowiki>''</nowiki>Sư dạy chúng: Ta chỉ nghe ngoài hành lang hét, ở giá sau cũng hét. Các ông chớ có hét mù, hét loạn, dù cho hét được Hưng Hóa bay đến trụ trong giữa trời, lại phải rơi xuống tắt thở, đợi Hưng Hóa tỉnh lại sẽ bảo ông "chưa hiện tại". Vì cớ sao? Ta chưa từng nhằm trong màn lụa đỏ để chân châu, với những người các ông hét loạn trong hư không để làm gì?<nowiki>''</nowiki>

Phiên bản lúc 10:12, ngày 12 tháng 11 năm 2019

Thiền sư Hưng Hóa Tồn Tưởng (tiếng Trung: 興化存奬, tiếng Nhật:Kōke Zonshō, 830-888) là thiền sư Trung Quốc sống vào thời Hậu Đường, đệ tử đắc pháp của Thiền sư Lâm

Hưng Hóa Tồn Tưởng
興化存奬
Tập tin:Thiền Sư Hưng Hóa Tồn Tưởng.jpg
Tông pháiLâm Tế Tông
Cá nhân
Sinh830
Mất888
Chức vụ
Chức danhThiền sư
Tiền nhiệmLâm Tế Nghĩa Huyền
Kế nhiệmNam Viện Huệ Ngung
Hoạt động tôn giáo
Sư phụLâm Tế Nghĩa Huyền
Đồ đệNam Viện Huệ Ngung

Tế Nghĩa Huyền. Sư nổi tiếng với việc biên soạn tập Lâm Tế Ngữ Lục, dòng truyền thừa Lâm Tế Tông của sư là dòng chính nên sư còn được tôn làm Nhị Tổ của Tông Lâm Tế. Sư có môn đệ đắc pháp là Thiền sư Nam Viện Huệ Ngung(南院慧顒).

Cơ duyên

Sư họ Khổng (孔), quê ở vùng Khuyết Lí (闕里), Trung Quốc.

Sư xuất gia, rồi đến tham vấn, làm thị giả dưới hội của Thiền Sư Lâm Tế Nghĩa Huyền(臨濟義玄), đến khi Lâm Tế tịch, sư vẫn chưa triệt ngộ.

Ở hội của Thiền sư Tam Thánh Huệ Nhiên (三聖慧然), Sư làm thủ toạ, thường nói: Ta nhắm phương Nam đi hành cước, một phen gặp được đầu gậy, mà chẳng từng tìm ra một người hội Phật pháp. Tam Thánh nghe được nói: Ngươi đủ con mắt gì mà nói thế ấy? Sư liền hét. Tam Thánh nói: Phải là ngươi mới được. Thiền Sư Ðại Giác nghe chuyện này mong có ngày gặp sư để thử tài.

Sau sư đến làm viện chủ dưới hội của Thiền sư Ngụy Phủ Đại Giác (một đệ tử đắc pháp khác của Lâm tế), rồi được triệt ngộ. Công án ghi lại như sau:

Một hôm Thiền Sư Đại Giác hỏi:Viện chủ! Ta nghe ông nói: Nhắm phương Nam đi hành cước, một phen gặp được đầu gậy, mà chẳng từng tìm ra một người hội Phật pháp, ông y cứ vào đạo gì mà nói như thế? Sư liền hét, Ðại Giác liền đánh, Sư lại hét, Ðại Giác lại đánh. Hôm sau, Sư đi ngang qua pháp đường, Ðại Giác gọi: Viện chủ, ta vẫn còn nghi hai tiếng hét của ông hôm qua. Sư lại hét, Ðại Giác lại đánh. Sư lại hét, Ðại Giác lại đánh. Sư bèn nói: Tôi ở chỗ sư huynh Tam Thánh học được câu khách chủ, nay bị sư huynh bẻ gẫy rồi, xin cho tôi pháp môn an lạc. Ðại Giác bảo: Cái gã mù, đến trong ấy đã chịu thua, cổi áo nạp ra đánh đòn một trận.Ngay đây, Sư ngộ được chổ Lâm Tế ngày trước bị Hoàng Bá cho ăn 3 lần gậy.

Sư đến trụ trì tại Hưng Hóa Tự (興化寺) ở Ngụy Phủ (魏府) và tuyên xướng tông phong của mình. Và từng hiệu đính bản Lâm Tế Lục (臨濟錄). Vua Đường Trang Tông Từng có lần đi Hà Bắc, rồi về đến Ngụy Phủ, ở tại Hành Cung. Nghe danh tiếng sư, bèn sai sứ giả mời gặp. Vua rất mến mộ phong cách đối đáp của sư. Được vua ban ca sa Tử Y và Kiệu, nhưng sư từ chối. Vua đổi ban sư con ngựa, sư nhận:

Vua hỏi: Trẫm thâu Trung Nguyên nhận được hòn ngọc quí, chưa từng có người trả giá.

Sư nói:- Xin Bệ hạ cho xem.

Vua lấy hai tay vuốt từ đầu đến chân.

Sư nói:- Ngọc quí của quân vương ai dám trả giá.

Cuối đời, sư thị tịch rất kỳ lạ:

Sư cỡi ngựa vua ban, bị ngựa quăng té gẫy chân. Sư gọi: Viện chủ! chuốt cho ta một cái chân cây. Viện chủ chuốt xong đem đến, Sư cặp vào khấp khểnh đi quanh viện, hỏi tăng chúng: Các ngươi biết Lão tăng chăng? Chúng đáp: Làm sao mà không biết Hoà thượng. Sư bảo: Pháp sư què nói được đi chẳng được. Sư đến pháp đường sai Tri sự đánh chuông gọi chúng. Chúng tụ họp, Sư bảo: Lại biết Lão tăng chăng? Chúng không đáp. Sư ném chân cây, ngồi thẳng thị tịch.

Sư thị tịch vào năm đầu niên hiệu Văn Đức (文德), hưởng thọ 59 tuổi. Vua ban hiệu là Quảng Tế Đại Sư(廣濟大師).

Sư có để lại cuốn Hưng Hoá Tồn Tưởng Thiền sư ngữ lục(興化存獎禪師語錄) Cũng gọi Hưng hóa ngữ lục, Quảng tế đại sư ngữ lục(1 quyển), được ấn hành vào năm Vĩnh Lạc nhà Minh. được thu vào Cổ tôn túc ngữ lục quyển 5 trong Vạn tục tạng tập 118. Nội dung gồm có: Cơ duyên vấn đáp giữa sư và Thiền Sư Nghĩa huyền, lời đối đáp giữ sư và vua Trang tông đời Hậu Đường, Pháp ngữ khai đường thị chúng ở chùa Hưng hóa. Ngoài ra, ở cuối quyển có chép thêm bài kí nói về tháp của thiền sư Lâm tế Nghĩa Huyền do sư hiệu đính.

Pháp ngữ

''Sư thượng đường, niêm hương: Một cây hương này vốn vì sư huynh Tam Thánh, Tam Thánh đối với ta rất ít ỏi; vốn vì sư huynh Đại Giác, Đại Giác đối với ta rất dư dật; chẳng bằng cúng dường tiên sư Lâm Tế.''

''Sư dạy chúng: Ta chỉ nghe ngoài hành lang hét, ở giá sau cũng hét. Các ông chớ có hét mù, hét loạn, dù cho hét được Hưng Hóa bay đến trụ trong giữa trời, lại phải rơi xuống tắt thở, đợi Hưng Hóa tỉnh lại sẽ bảo ông "chưa hiện tại". Vì cớ sao? Ta chưa từng nhằm trong màn lụa đỏ để chân châu, với những người các ông hét loạn trong hư không để làm gì?''

Tham khảo

  • Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-kuang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
  • Das Lexikon der Östlichen Weisheitslehren, Bern 1986.
  • Dumoulin, Heinrich:
Geschichte des Zen-Buddhismus I. Indien und China, Bern & München 1985.
Geschichte des Zen-Buddhismus II. Japan, Bern & München 1986.