Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Minh Thành Tổ”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 58: Dòng 58:
== Thiếu thời ==
== Thiếu thời ==
[[Tập tin:Anonymous-Ming Chengzu.jpg|nhỏ|trái|200px|Minh Thành Tổ Vĩnh Lạc hoàng đế Chu Đệ]]
[[Tập tin:Anonymous-Ming Chengzu.jpg|nhỏ|trái|200px|Minh Thành Tổ Vĩnh Lạc hoàng đế Chu Đệ]]
Minh Thành Tổ tên thật là '''Chu Lệ''' (朱棣), sinh vào ngày [[2 tháng 5]] năm [[1360]] tại [[Nam Kinh]], là đích tử thứ tư của [[Minh Thái Tổ]] Chu Nguyên Chương và [[Mã hoàng hậu (Minh Thái Tổ)|Hiếu Từ Cao hoàng hậu]] Mã thị (có thuyết cho rằng ông không phải là con ruột do Mã hoàng hậu sinh ra mà là con một phi tần người [[Triều Tiên]] của [[Minh Thái Tổ]]). Chu Đệ được sinh ra khi cha của ông là Chu Nguyên Chương đang dấy binh chống lại [[Nhà Nguyên]] đang trên đà sụp đổ. Chu Đệ trở thành [[hoàng tử]] Nhà Minh khi Chu Nguyên Chương xưng đế năm [[1368]].
Minh Thành Tổ tên thật là '''Chu Đệ''' (朱棣), sinh vào ngày [[2 tháng 5]] năm [[1360]] tại [[Nam Kinh]], là đích tử thứ tư của [[Minh Thái Tổ]] Chu Nguyên Chương và [[Mã hoàng hậu (Minh Thái Tổ)|Hiếu Từ Cao hoàng hậu]] Mã thị (có thuyết cho rằng ông không phải là con ruột do Mã hoàng hậu sinh ra mà là con một phi tần người [[Triều Tiên]] của [[Minh Thái Tổ]]). Chu Đệ được sinh ra khi cha của ông là Chu Nguyên Chương đang dấy binh chống lại [[Nhà Nguyên]] đang trên đà sụp đổ. Chu Đệ trở thành [[hoàng tử]] Nhà Minh khi Chu Nguyên Chương xưng đế năm [[1368]].


[[Minh Thái Tổ]] giám sát việc giáo dục các hoàng tử rất nghiêm ngặt, phong vương cho các hoàng tử, cho nắm giữ binh quyền các phiên tại đất phong và đều có quân đội riêng để tự vệ. Trong suốt niên hiệu Hồng Vũ (1368-1398), lực lượng phiên vương đã làm rất tốt vai trò thay mặt vua cha thống trị các phiên, vì [[Minh Thái Tổ]] không tin tưởng ngoại thần, và bảo vệ biên cương tốt khỏi sự xâm lược của các lực lượng Mông Cổ.
[[Minh Thái Tổ]] giám sát việc giáo dục các hoàng tử rất nghiêm ngặt, phong vương cho các hoàng tử, cho nắm giữ binh quyền các phiên tại đất phong và đều có quân đội riêng để tự vệ. Trong suốt niên hiệu Hồng Vũ (1368-1398), lực lượng phiên vương đã làm rất tốt vai trò thay mặt vua cha thống trị các phiên, vì [[Minh Thái Tổ]] không tin tưởng ngoại thần, và bảo vệ biên cương tốt khỏi sự xâm lược của các lực lượng Mông Cổ.

Phiên bản lúc 18:21, ngày 27 tháng 12 năm 2019

Minh Thành Tổ
明成祖
Hoàng đế Trung Hoa
Hoàng đế Đại Minh
Trị vì17 tháng 7 năm 140212 tháng 8 năm 1424
(22 năm, 26 ngày)[1]
Tiền nhiệmMinh Huệ Đế
Kế nhiệmMinh Nhân Tông
Thông tin chung
Sinh17 tháng 4 năm Chí Chính thứ 20 Nhà Nguyên
2 tháng 5 năm 1360
Ứng Thiên (nay là Nam Kinh)
Mất18 tháng 7 năm Vĩnh Lạc thứ 22 Nhà Minh
12 tháng 8 năm 1424(1424-08-12) (64 tuổi)
Yumuchuan (nay là Ujimqin, Nội Mông Cổ)
An tángTrường lăng (长陵), Thập Tam Lăng
Hoàng hậuNhân Hiếu Văn hoàng hậu
Hậu duệ
Tên thật
Chu Đệ (朱棣)
Niên hiệu
Vĩnh Lạc (永樂)
Thụy hiệu
Thể Thiên Hoằng Đạo Cao Minh Quảng Vận Thánh Vũ Thần Công Thuần Nhân Chí Hiếu Văn hoàng đế
(體天弘道高明廣運聖武神功純仁至孝文皇帝)
Khải Thiên Hoằng Đạo Cao Minh Triệu Vận Thánh Vũ Thần Công Thuần Nhân Chí Hiếu Văn hoàng đế
(啓天弘道高明肇運聖武神功純仁至孝文皇帝)[2]
Miếu hiệu
Thái Tông (太宗)
Thành Tổ (成祖)[2]
Triều đạiNhà Minh
Thân phụMinh Thái Tổ
Thân mẫuHiếu Từ Cao hoàng hậu
Có thuyết là Cống phi

Minh Thành Tổ (chữ Hán: 明成祖, 2 tháng 5, 136012 tháng 8, 1424), ban đầu gọi là Minh Thái Tông (明太宗), là vị hoàng đế thứ ba của Nhà Minh, tại vị từ năm 1402 đến năm 1424, tổng cộng 22 năm. Ông chỉ dùng một niên hiệu Vĩnh Lạc (永樂), nên sử gia còn gọi ông là Vĩnh Lạc Đế (永樂) hay Vĩnh Lạc đại đế (永樂大帝). Ông được coi là vị hoàng đế kiệt xuất nhất của Triều đại Nhà Minh, và là một trong các Hoàng đế kiệt xuất nhất trong lịch sử Trung Quốc. Thời kỳ của ông về sau được ca ngợi gọi là Vĩnh Lạc thịnh thế (永樂盛世), khiến Đại Minh phát triển đỉnh cao về quyền lực.

Khi còn là hoàng tử, ông được phong làm Yên vương (燕王), đóng đô ở Bắc Bình (nay là Bắc Kinh). Sau một loạt chiến dịch thành công chống quân Mông Cổ, ông bắt đầu củng cố quyền lực của mình ở phía bắc và tiêu trừ các đối thủ, tiêu biểu như đại tướng Lam Ngọc. Ban đầu, ông chấp nhận sự chỉ định của Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương về người kế vị là đích tôn Minh Huệ Đế Chu Doãn Văn. Tuy nhiên, việc Hoàng đế mới bắt đầu giáng chức và tiêu diệt những người chú quyền lực đã buộc Yên vương hành động. Ông lật đổ cháu trai Huệ Đế trong một cuộc nội chiến, vốn bất lợi cho ông vào thời gian đầu, đem quân từ Bắc Bình đánh xuống thủ đô Nam Kinh để giành ngai vàng vào năm 1402.

Chu Đệ đã bắt đầu triều đại của mình bằng việc hợp pháp hóa việc lên ngôi với việc xóa bỏ toàn bộ thời gian trị vì của người cháu và thiêu hủy hay sửa đổi các tài liệu có liên quan đến tuổi thơ và cuộc nổi loạn của mình. Điều này dẫn đến việc thanh trừng vô số quan viên ở Nam Kinh và ban thẩm quyền đặc biệt ngoài vòng pháp luật cho chính sách bí mật của hoạn quan. Ông nối tiếp chính sách tập trung của cha mình (Minh Thái Tổ), tăng cường thể chế của đế quốc và thành lập thủ đô mới tại Bắc Kinh. Để kiểm soát các quan viên, ông cho cải cách khoa cử thay vì chế độ đề cử và bổ nhiệm như dưới thời cha mình. Ông theo đuổi một chính sách đối ngoại bành trướng và đã tiến hành nhiều chiến dịch quy mô lớn chống lại quân Mông Cổ.

Nhằm tăng cường ảnh hưởng của mình trong khu vực Đông ÁĐông Nam Á, Minh Thành Tổ thành lập một hạm đội hùng hậu do Trịnh Hòa điều khiển. Trịnh Hòa (1371-1433) đã dẫn hạm đội xuống Bắc nước Úc, qua bán đảo Ả Rập và có tài liệu cho rằng Trịnh Hòa qua tận châu Mỹ. Hoàng đế còn cho sửa và mở lại Đại Vận Hà và vào khoảng năm 1407 đến năm 1420, trực tiếp chỉ đạo việc xây dựng Tử Cấm Thành. Dưới thời ông, các học giả đương thời đã hoàn thành công trình đồ sộ Vĩnh Lạc đại điển.

Thiếu thời

Minh Thành Tổ Vĩnh Lạc hoàng đế Chu Đệ

Minh Thành Tổ tên thật là Chu Đệ (朱棣), sinh vào ngày 2 tháng 5 năm 1360 tại Nam Kinh, là đích tử thứ tư của Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương và Hiếu Từ Cao hoàng hậu Mã thị (có thuyết cho rằng ông không phải là con ruột do Mã hoàng hậu sinh ra mà là con một phi tần người Triều Tiên của Minh Thái Tổ). Chu Đệ được sinh ra khi cha của ông là Chu Nguyên Chương đang dấy binh chống lại Nhà Nguyên đang trên đà sụp đổ. Chu Đệ trở thành hoàng tử Nhà Minh khi Chu Nguyên Chương xưng đế năm 1368.

Minh Thái Tổ giám sát việc giáo dục các hoàng tử rất nghiêm ngặt, phong vương cho các hoàng tử, cho nắm giữ binh quyền các phiên tại đất phong và đều có quân đội riêng để tự vệ. Trong suốt niên hiệu Hồng Vũ (1368-1398), lực lượng phiên vương đã làm rất tốt vai trò thay mặt vua cha thống trị các phiên, vì Minh Thái Tổ không tin tưởng ngoại thần, và bảo vệ biên cương tốt khỏi sự xâm lược của các lực lượng Mông Cổ.

Năm 1370, Chu Lệ được phong làm Yên vương (燕王), được Minh Thái Tổ giao quyền lực nắm giữ thành Bắc Bình, khu vực quan trọng tạo tiền đề cho việc giành ngôi hoàng đế của ông sau này.

Năm 1380, Chu Lệ và gia đình của ông chuyển từ thủ đô Nam Kinh đến Bắc Bình, nó từng là thủ đô của Triều đại người Mông CổTrung Hoa, có kích thước tương tự như Hoàng cung ở Nam Kinh, so với các Hoàng tử anh em của ông, ông được nhận vùng đất phong có điều kiện tốt nhất cho phát triển. Ông đã tạo ra xung quanh mình một hệ thống quan lại tương đương với 1 triều đình độc lập. Hơn nữa, bên cạnh có tướng Từ Đạt, cha vợ của ông, thành Bắc Bình có vị trí quan trọng và được mở rộng để làm các căn cứ quân sự chính ở phía bắc.Từ đó, ông đã thực hiện nhiều chiến dịch thành công chống lại quân Mông Cổ dọc theo biên giới. Từ Đạt bệnh nặng vào năm 1384 và được gọi trở lại Nam Kinh, ông giao lại cho con trai thứ quyền chỉ huy 30 vạn quân, kế tục lòng trung thành của ông với Yên vương Chu Đệ.

Bắc Bình được tổ chức tốt trong 19 năm Chu Đệ nắm quyền. Tuy nhiên các chiến thắng của quân Minh ở phía bắc dưới thời Hồng Vũ không phải do Chu Đệ, mà do người họ hàng bên vợ của thái tử là đại tướng Lam Ngọc chỉ huy.

Lam Ngọc trong quân đội Nhà Minh chỉ đứng sau các danh tướng khai quốc như Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân. Ông vốn được ví như Vệ Thanh nhà Hán, Lý Tĩnh nhà Đường do có công đánh dẹp người Mông Cổ, mở rộng bờ cõi nhưng do kiêu ngạo nên bị Thái Tổ ghét. Chu Đệ biết cha không thích Lam Ngọc bèn dùng kế, vu oan cho Lam Ngọc mưu phản. Thái Tổ vốn có ý giết Ngọc, sai Cẩm Y Vệ vào cuộc, bắt giữ cả nhà Lam Ngọc rồi tru di chín họ cùng 2 vạn người. Thái tử mất đi một người ủng hộ hùng mạnh, còn Chu Đệ thì không còn đối thủ trong quân đội Nhà Minh ở phía bắc. Đây cũng là tiền đề để Chu Đệ cướp ngôi sau này, khi triều đình không còn danh tướng nào so được với ông.

Năm 1392, Hoàng thái tử Chu Tiêu, đích trưởng tử của Minh Thái Tổ qua đời, là người mà Minh Thái Tổ có ý định truyền ngôi, và sau đó ý định lập người kế vị của Minh Thái Tổ trở nên thất thường, khó đoán. Ông không tin tưởng nhiều vào các con trai và với cả Chu Đệ. Mối quan hệ của Chu Đệ với cha ông vẫn được giữ vững, nên Chu Đệ chờ đợi để xem ai sẽ được chỉ định kế nhiệm. Trái với kỳ vọng, cha ông đã chọn đích tôn Chu Doãn Văn (Minh Huệ Đế).

Năm 1398, Minh Thái Tổ qua đời và đích tôn của ông là Thái tôn Chu Doãn Văn lên ngôi, tức Minh Huệ Đế. Triều đình mới có một khởi đầu tồi tệ khi Minh Huệ Đế cấm cả chú ruột Chu Đệ tham dự lễ tang của cha mình ở Nam Kinh. Khi Chu Đệ mang quan quân về kinh viếng cha, bị quân triều đình chặn lại ở Hoài An với lý do 3 vị vương tử con ông đã được tân hoàng giữ lại thủ hiếu giùm ông, bắt ông phải quay về Bắc Bình. Chu Đệ phải quay về trong nhục nhã. Ông lúc đó đã khóc nói: "Cùng là cốt nhục chí thân, sao lại làm nhục ta quá vậy?". Sau khi Chu Đệ về đến nhà thì cáo bệnh giả ốm, không lâu sau thì "phát điên" để tránh bị nghi ngờ bởi hoàng đế vì ông là phiên vương lớn mạnh nhất và để bảo đảm an toàn cho 3 người con trai.

Triều đình của Huệ Đế có những nghi ngại về sức mạnh của các người chú vì họ nắm giữ các vùng đất được phong như các vương quốc với sức mạnh quân sự lớn và nguồn lực tài chính dồi dào. Huệ Đế và các đại thần của ông đã tìm cách cải cách hệ thống đế quốc và tiêu diệt sức mạnh của hoàng tử. Nhưng điều này chắc chắn đã gặp sự kháng cự của các hoàng tử. Chu Đệ là thành viên hoàng tộc có sức ảnh hưởng lớn nhất trong các hoàng thân quốc thích, và ông cho rằng mình mới là người xứng đáng thừa kế ngôi vị hoàng đế.

Đoạt vị, giành ngôi

Bài chi tiết: Chiến dịch Tĩnh Nan

Cổng thành Nam Kinh

Mở màn Tĩnh Nan chi dịch

Sau khi Chu Đệ cố gắng kiến nghị với hoàng đế ở Nam Kinh, nhưng đã thất bại, Chu Đệ đã tìm cách giải cứu 3 người con trai đang làm con tin ở kinh thành. Khi biết tin các con đã an toàn thoát khỏi tay hoàng đế, ông đã quyết định hành động. Năm 1399, ông tuyên bố chiến tranh với lý do rằng đó là " Cứu vua cháu khỏi sự thao túng của bọn quan lại tiếm quyền". Cuộc nội chiến bắt đầu rất thuận lợi cho Huệ Đế. Ông có nhiều quân và tài chính mạnh hơn và một vị trí chiến lược tốt hơn. Quân đội triều đình đã tấn công đến Bắc Bình một cách khá nhanh chóng, nhưng Bắc Bình phòng thủ tốt trước những cuộc tấn công dữ dội.

Triều đình bắc phạt

Minh Thành Tổ quan sát các hoạn quan triều đình đang chơi cuju, một trò chơi cổ xưa của Trung Quốc tương tự như bóng đá.

Vì các tướng lĩnh biết cầm quân đã bị Minh Thái Tổ giết sạch, việc chọn chủ tướng là một mối lo với triều đình.[3] Không có chọn lựa khác, triều đình cử lão tướng Cảnh Tinh Văn lúc đó đã 65 tuổi làm chủ soái và dẫn theo 13 vạn đại quân lên phía bắc. Một tướng dưới quyền Cảnh Tinh Văn đầu hàng Chu Đệ và thông báo cho Chu Đệ vị trí của Cảnh Tinh Văn. Chu Đệ cho viên tướng đó quay lại và nói cho Cảnh Tinh Văn biết rằng quân Yên đang đến và nên chuẩn bị giao tranh. Ngày 25 tháng 8, Chu Đệ bất ngờ tập kích quân triều đình. Bản thân Chu Đệ đích thân chỉ huy tấn công vào bên cánh của quân Minh và đánh bại Cảnh Tinh Văn. Hơn 3,000 người hàng Chu Đệ, số còn lại chạy về Chân Định. Chu Đệ dẫn quân đánh Chân Định nhưng không hạ được. Ngày 29 tháng 8, quân Yên rút về Bắc Bình.

Khi biết tin thua trận, Minh Huệ Đế rất lo lắng. Hoàng Tử Trừng tiến cử Tào quốc công Lý Cảnh Long, vốn là cháu ngoại Thái Tổ, làm chủ tướng và được chấp nhận bất chấp sự phản đối của Tề Thái. Lý Cảnh Long dẫn theo 50 vạn đại quân tiến đến Hà Gian. Lúc này quân triều đình ở Liêu Đông tấn công Vĩnh Bình, Chu Đệ đem quân đi cứu và đánh lui quân triều đình. Nhân đà thắng lợi, Chu Đệ tấn công Đại Ninh, sáp nhập quân đội của Ninh vương. Lý Cảnh Long nghe tin Chu Đệ đi Liêu Đông liền hạ lệnh tấn công Bắc Bình. Có lần quân triều đình đã suýt phá được thành nhưng Lý Cảnh Long vì nghi ngờ nên đã hạ lệnh lui quân. Thời tiết tháng 10 ở Bắc Bình rất lạnh, Chu Cao Sí buổi tối sai người đổ nước lên tường thành, ngày hôm sau đã đóng băng làm quân triều đình không tấn công được. Quân triều đình là người phía nam nên không chịu được cái lạnh phía bắc. Chu Đệ đem quân về cứu Bắc Bình và đã đánh bại Lý Cảnh Long tại ngoại vị Bắc Bình vào tháng 11. Lý Cảnh Long thua chạy về Đức Châu, quân triều đình thương vong hơn 10 vạn người.

Tháng 4 năm 1400, Lý Cảnh Long tập hợp được 60 vạn quân và lần nữa tiến về phía bắc. Ngày 24 tháng 4, quân Yên và quân triều đình chạm trán nhau. Quân Yên ban đầu bị phục kích nên thua chạy. Quân triều đình đặt địa lôi trên đường khiến quân Yên tổn thất nặng. Ngày hôm sau, quân triều đình tấn công vào cánh của quân Yên, Chu Đệ tự thân chống trả bằng cách tấn công vào trung quân của Lý Cảnh Long và được sự hỗ trợ từ viện quân của Chu Cao Sí. Lúc này một cơn gió to làm gãy cờ chủ soái của Lý Cảnh Long khiến quân triều đình hoang mang gây ra hỗn loạn. Chu Đệ nhân cơ hội toàn lực phản kích, đánh bại quân triều đình. Hơn 10 vạn người theo hàng Chu Đệ và Lý Cảnh Long lại chạy về Đức Châu. Quân Yên sau đó đánh hạ Đức Châu. Lý Cảnh Long chạy về Tế Nam, quân Yên đuổi theo bao vây Tế Nam. Lý Cảnh Long phải chạy về Nam Kinh. Mặc dù thua trận, thiệt quân và bị triều thần đàn hặc, Lý Cảnh Long vẫn được tha chết.

Một quan viên của Minh Huệ Đế đã hiến kế ly gián, Huệ Đế nghe theo, sai sứ giả mang tiền tài đến Bắc Bình, vốn đang được trấn thủ bởi con trưởng của Chu Đệ là Chu Cao Sí, cùng với lời hứa nếu giao nộp Bắc Bình sẽ được giữ lại tước vị Yên Vương và được thế tập về sau. Biết tính cha đa nghi, Chu Cao Sí bắt ngay sứ giả và đem cả người lẫn vật đến giao cho Chu Đệ ngoài tiền tuyến. Chu Đệ cho chém sứ giả, lại đem tiền đó thưởng cho Chu Cao Sí để khen thưởng vỗ về, bảo đảm cho hậu phương vững chắc. Chu Đệ còn cho người tung tin rằng mình là con đẻ của Mã Hoàng hậu để hợp pháp việc thừa kế ngai vàng. Ông còn phao tin rằng chính mình mới là người được Thái Tổ chọn để truyền ngôi nhưng đã bị Chu Tiêu và những kẻ ủng hộ cản trở.

Công phá kinh thành

Chu Đệ sau đó đã thay đổi chiến lược quân sự. Đầu tiên, ông đặt trọng tâm quân đội vào kỵ binh Mông Cổ. Trong khoảng thời gian 20 năm nắm quyền tại miền Bắc Trung Quốc, có nhiều bộ lạc Mông Cổ đã đầu hàng và hết lòng trung thành với ông. Thời gian đầu cuộc chiến nhờ lực lượng này đã giúp ông sống sót các cuộc tấn công của triều đình. Nhưng lực lượng tinh nhuệ này không thể chịu được sự tấn công của kỵ binh hoàng gia. Điều thứ hai, trái với quân của Chu Đệ chỉ huy, quân của Huệ Đế giành được sự trung thành rất lớn từ quân đội và trong nhân dân. Điều thứ ba, thay vì tấn công Nam Kinh, nơi có phòng thủ tốt thì Chu Đệ lại dẫn quân về phía Tây. Trận chiến xảy ra nhưng quân của Huệ Đế đã không thể đánh bại Chu Đệ.

Nhờ vào tin tình báo từ các tướng lĩnh và hoạn quan bị Huệ Đế ngược đãi, Chu Đệ đã lập nên một chiến thuật đánh-và-chạy vào các kho lương dọc suốt Đại Vận Hà, trong khi tránh giao tranh trực tiếp với đại quân triều đình. Cho đến năm 1402, quân của Chu Đệ đã tấn công và cướp phá Từ Châu, Tô Châu và Dương Châu. Vào mùa xuân năm 1402, Chu Đệ chọc thủng phòng tuyến quân sự và dẫn quân xuống phía Nam sông Dương Tử khi bí mật mua chuộc người bên phe hoàng đế. Nhờ tướng Trần Tuyên phản bội, Chu Đệ đã nắm được trong tay hạm đội sông Dương Tử và dễ dàng vượt sông. Ngày 13-7-1402 cổng thành Nam Kinh mở do sự phản bội của Lý Cảnh Long và một người em cùng cha khác mẹ của Chu Đệ là Cốc Vương Chu Huệ. Trong lúc hỗn loạn, cung điện đã bị đốt cháy, Chu Đệ tìm thấy 3 xác chết cháy đen không còn nhận dạng được nên mọi người cho rằng Huệ Đế tự sát cùng hoàng hậu và con trai cả (nhưng cũng có truyền thuyết cho rằng xác chết cháy là giả, còn Huệ Đế thật thì đã bỏ trốn bằng đường hầm và mai danh ẩn tích từ đó).

Các quần thần đều cùng nhau tôn ông làm hoàng đế, ban đầu ông từ chối để tỏ lòng khiêm nhường, Chu Đệ đồng ý rằng năm sau sẽ lấy là Vĩnh Lạc nguyên niên. Chu Đệ làm lễ lên ngôi 4 ngày sau, 17-7-1402, ở tuổi 42 sau khi đi viếng thăm nơi chôn cất của cha mình là Minh Thái Tổ.

Thanh trừng

Giai đoạn cai trị của Huệ Đế đã bị xóa bỏ trong các hồ sơ lịch sử, thời gian bị thiếu chỉ đơn giản là thêm vào thời kỳ Minh Thái Tổ. Đầu tiên, hoàng đế mới Chu Đệ thực hiện thanh trừng trên quy mô lớn, tất cả các đại thần và gia đình họ. Phần lớn của các quan lại bị loại bỏ. Nhiều người tự tử, vì họ khinh miệt Minh Thành Tổ cướp ngôi. Một vấn đề lớn là hai người con trai còn lại của Huệ Đế và ba anh em của Chu Đệ. Để loại bỏ kẻ địch tiềm năng, họ đã bị hành hình. Hai vạn người đã trở thành nạn nhân của cuộc thanh trừng.[4] Người anh trai cả đã mất của Chu Đệ là Chu Tiêu, vốn được Huệ Đế truy tôn làm hoàng đế cũng bị ông giáng xuống làm Ý Văn Thái tử.

Án "giết 10 họ" của Phương Hiếu Nhụ

Thảm án "giết mười họ" của Phương Hiếu Nhụ dưới thời Chu Đệ vẫn thường được nhắc tới như bi kịch gia tộc đẫm máu nhất trong lịch sử Trung Quốc. Đây cũng là một trong những sự việc khiến vị Hoàng đế thứ ba của Nhà Minh là Minh Thành Tổ Chu Đệ bị hậu thế đánh giá là "tàn bạo", "hám sát".

Tương truyền rằng, một quan viên trung thành của Huệ Đế là Phương Hiếu Nhụ, vốn được coi là bậc đại nho đương thời. Khi Nam Kinh đã bị công phá, Chu Đệ sau khi sai người dập tắt lửa trong cung, bèn triệu văn học sĩ Phương Hiếu Nhụ đến khởi thảo chiếu thư để mình lên kế vị. Phương Hiếu Nhụ là trung thần của Kiến Văn Vương, ông mặc bộ đồ tang vừa đi vừa khóc bước vào điện, không thi lễ mà chỉ đứng khóc. Chu Đệ thấy vậy nói rằng: "Ta cũng là noi gương Chu Công phù trợ Thành vương mà thôi". Phương Hiếu Nhụ ngừng khóc hỏi Thành vương hiện ở đâu, thì Chu Đê nói đã bị lửa thiêu chết rồi. Phương Hiếu Nhụ lại hỏi: "Thế sao không lập con của Thành Vương?". Chu Đệ đáp: "Nhà nước đang cần một ông vua đứng tuổi". Phương Hiếu Nhụ giận dữ quát lên rằng: "Thế sao không lập em của Thành Vương?".

Chu Đệ không biết đối đáp ra sao, liền bước xuống điện đến trước mặt Phương Hiếu Nhụ nói rằng: "Đó là việc trong nhà ta, tiên sinh hà tất phải hao tâm tốn sức ". Bấy giờ, người hầu đem giấy bút ra, Chu Đệ nói rằng: "Việc viết chiếu thư, phi tiên sinh không có người nào khác". Phương Hiếu Nhụ giật lấy giấy bút, viết lên chữ "Yên tặc soán ngôi" rồi quăng bút xuống thềm điện, vừa khóc vừa nói rằng "Chết thì thôi, chứ đừng hòng mong tôi viết chiếu thư ". Chu Đệ nổi giận quát lên rằng: "Ta không để ngươi chết ngay được, chẳng lẽ ngươi không sợ ta Tru di cửu tộc (giết cả chín họ) ư?". Phương Hiếu Nhụ cũng gân cổ lên nói rằng: "Tru di thập tộc đã làm gì được ta nào".

Lúc này, Chu Đệ đã trở lại ngồi trên ngai vàng, cơn giận bốc lên liền ra lệnh cho vệ sĩ dùng dao to cắt môi của Phương Hiếu Nhụ, vết dao rạch đến tận mang tai. Sau đó, Chu Đệ lại sai người bắt gia quyến cửu tộc, cộng thêm cả học trò của Phương Hiếu Nhụ nữa là thành ra "thập tộc", cả thảy 873 người bị lôi đến chém chết ngay trước mặt Phương Hiếu Nhụ, Phương Hiếu Nhụ cố ghìm nước mắt, sau đó ông bị lôi ra xử lăng trì ở ngoài Tụ Bảo Môn, bấy giờ mới có 46 tuổi.

Các đại thần khác của Kiến Văn Đế

Thiết Huyền là Binh bộ thượng thư của Kiến Văn Đế bị bắt vào điện. Chu Đệ ngồi trên ngự tọa, Thiết Huyền đứng quay lưng ở dưới cho đến khi chết cũng không quay lại nhìn Chu Đệ. Chu Đệ sai người cắt mũi và tai Thiết Huyền, đem nấu chín rồi nhét vào miệng ông hỏi rằng: "Thịt có ngọt không?". Thiết Huyền lớn tiếng đáp: "Thịt của trung thần hiếu tử làm sao lại không ngọt". Tức thì, Chu Đệ ra lệnh cắt mạch cổ tay ông, Thiết Huyền miệng cứ chửi rủa mãi cho đến chết. Chu Đệ tức giận, lại bắt cả cha mẹ Thiết Huyền đã ngoài 80 tuổi phát vãng đi Hải Nam làm khổ dịch, giết chết hai đứa con mới hơn 10 tuổi của ông, đồng thời đưa vợ và hai con gái ông giao cho nhà chứa để đàn ông mặc sức chà đạp.

Còn Tề Thái, Hoàng Tử Trình cũng bị xử lăng trì và Tru di tam tộc.

Lưu Đoan là người chủ trì chùa Đại Lý đã bỏ trốn rồi sau bị bắt dẫn đến trước điện, Chu Đệ hỏi rằng: "Phương Hiếu Nhụ là người thế nào ?". Lưu Đoan cười đáp: "Là trung thần". Chu Đệ lại hỏi: "Còn ông bỏ chùa chạy trốn có coi là trung thần không?".Lưu Đoan cứng cỏi đáp: "Tôi cũng vì muốn sống để sau này báo thù mà thôi". Chu Đệ nổi giận liền sai người cắt mũi và tai Lưu Đoan, rồi cười hỏi Lưu Đoan máu me đầy mặt rằng: "Bây giờ ngươi mặt mũi thế này còn coi là người nữa không?". Lưu Đoan đáp: "Khuôn mặt ta là mặt trung thần hiếu tử, chết xuống âm phủ còn có mặt mũi gặp thái tổ hoàng đế". Chu Đệ càng thêm bực tức, liền vung gậy đập chết Lưu Đoan.

Chu Đệ cả thảy đã giết hơn 10 nghìn trung thần của Kiến Văn Đế cùng gia quyến, trong lịch sử chưa từng có vụ tàn sát quan lại đối phương quy mô như vậy. 22 năm sau, khi Chu Cao Sí con trai của Chu Đệ lên nối ngôi, mới hạ chiếu phế bỏ kiếp nô lệ cho gia quyến của các trung thần triều đại Kiến Văn Đế.

Thảm án ni cô

Theo "Minh sử" ghi lại, vào tháng 2 năm Vĩnh Lạc thứ 18, Đường Trại Nhi (quê ở Bồ Đài, Tân Châu, Sơn Đông) đã quy tập mấy ngàn giáo đồ Bạch Liên giáo, khởi nghĩa vũ trang chống lại triều đình. Vụ việc này đã dấy lên phong trào khởi nghĩa nông dân ở Sơn Đông, nhưng bởi quy mô nhỏ, thời gian tồn tại ngắn, nên không gây nhiều tác động đối với giai cấp cầm quyền, thậm chí còn không được ghi lại trong sách giáo khoa ngày nay.

Tuy nhiên, lúc bấy giờ, Hoàng đế Chu Đệ lại "vô cùng khiếp sợ", chẳng những phái ra 5000 quân tinh nhuệ từ kinh sư, mà còn đặc biệt huy động biệt đội kháng Oa (kháng Nhật) ở duyên hải Sơn Đông để trấn áp cuộc khởi nghĩa nhỏ bé này. Dưới sự đàn áp đẫm máu của triều đình, khởi nghĩa chỉ duy trì chưa đầy 3 tháng. Nhưng sự biến mất một cách bí ẩn của nữ hiệp Đường Trại Nhi lại tiếp tục trở thành nguyên nhân của "thảm án ni cô" sau đó.

Để tiêu trừ thù hận trong lòng, cũng nhằm mục đích "diệt cỏ tận gốc", Chu Đệ đã quyết định "giết một người để răn trăm người". Minh Thành Tổ hạ lệnh truy nã Đường Trại Nhi, tiến hành điều tra bách tính, dân thường trên phạm vi rộng lớn. Tuy nhiên, tung tích của nữ hiệp họ Đường vẫn "lặn tăm" một cách bí ẩn.

Lúc bấy giờ, có người liền tố giác với Chu Đệ: chỉ có kẻ đã trà trộn vào Phật môn mới có thể trốn tránh được quan quân triều đình! Hơn nữa, khi phất cờ khởi nghĩa, Đường Trại Nhi từng tự xưng là "Phật mẫu", khiến Chu Đệ càng tin vị nữ hiệp này có liên quan tới cửa Phật.

Năm Vĩnh Lạc thứ 18 (1420), Minh Thành Tổ Chu Đệ đột nhiên hạ lệnh bắt tất cả các ni cô và nữ đạo sĩ ở Sơn Đông, Bắc Kinh về kinh sư để thấm vấn, xác minh thân phận. Mặc dù mệnh lệnh được ban hành trên danh nghĩa "thẩm vấn", nhưng triều đình nhiều lần lạm dụng nhục hình, thậm chí còn bắt tay với tầng lớp hòa thượng để đẩy những phụ nữ xuất gia vào cảnh "sống không bằng chết".

Tháng 7 cùng năm, Minh Thành Tổ phong cho Đoàn Minh làm Tả tham chính Sơn Đông, tiếp tục truy tìm tung tích của Đường Trại Nhi. Để lập công với Thành Tổ, Đoàn Minh mở rộng phạm vi điều tra ra cả nước, làm liên lụy tới mấy vạn phụ nữ đã xuất gia, tu hành. Sự kiện này đã từng được ghi lại trong "Minh sử": "Tháng hai năm Vĩnh Lạc thứ 18, Đường Trại Nhi người Sơn Đông làm phản nhưng không bắt được, triều đình liền bắt giữ hàng vạn phụ nữ xuất gia."

Cho tới khi nhắm mắt xuôi tay, Chu Đệ vẫn chưa thể bắt giữ nữ hiệp Đường Trại Nhi. Minh triều thấy hành động tróc nã này quá mất lòng dân nên mới dừng lại. Tuy vậy, "thảm án ni cô" đã gây nên bi kịch không chốn dung thân cho hàng vạn ni cô, đạo sĩ, thậm chí tước đi sinh mạng của hơn một ngàn người. Đây được xem là "vụ án ni cô" chấn động nhất trong lịch sử Trung Quốc, phá vỡ sự thanh tịnh của Phật giáo đã được duy trì cả ngàn năm tại nước này.

Chính sách đối nội

Giống như cha mình Chu Nguyên Chương, Chu Đệ là một vị hoàng đế chăm chỉ và nghiêm khắc. Ông không đắm mình vào xa hoa chốn cung đình mà luôn thể hiện là người năng động và táo bạo.

Tượng đồng của Hoàng đế Vĩnh Lạc. Đây là bản sao của bức tượng đá gốc đã bị phá hủy trong Cách mạng Văn hóa.

Lại trị

Sau khi tàn sát các quan lại cũ của Minh Huệ Đế, chính quyền trung ương có những thiếu sót rất lớn về quan viên. Minh Thành Tổ vì vậy rất khao khát những người đọc sách có tài nguyện ý ra giúp mình. Ngay khi lên ngôi ông đã hạ lệnh mở ân khoa tuyển chọn sĩ tử vào triều làm quan để lấp các chỗ trống, tuy nhiên ông cũng rất khắt khe với việc gian lận. Thời Hồng Vũ, Minh Thái Tổ vì ít đọc sách nên không đặt nặng việc khoa cử, chỉ bổ nhiệm các thân tín, Thành Tổ cho cải cách khoa cử để hấp dẫn tầng lớp trí thức ra sức làm quan giúp mình. Ông đặt rất nhiều tâm huyết vào việc tuyển chọn nhân tài, thậm chí ông còn có những nguyên tắc riêng khi dùng người. Mặc dù là người độc đoán, Vĩnh Lạc cũng chứng tỏ mình là người sáng suốt và khôn ngoan khi biết tiếp thu có chọn lọc ý kiến của các cố vấn.

Để giúp đỡ cho công việc của hoàng đế, Minh Thành Tổ đã cho thành lập một cơ quan mới là Nội các tập hợp các đại thần thân tín với người đứng đầu được gọi là Thủ phụ. Nội các sẽ giúp hoàng đế quản lý Lục bộ và các sự kiện quan trọng của đế quốc, chia sẻ và giảm bớt gánh nặng cho hoàng đế. Đây là việc không bao giờ xảy dưới triều Minh Thái Tổ, một người độc tài và không bao giờ tin tưởng thần tử của mình. Tuy nhiên đây cũng là tác hại lớn, khi các hoàng đế đời sau từ Anh Tông bắt đầu sa vào hưởng lạc, không quan tâm triều chính nên không còn giữ được sự khống chế với Nội các. Quyền lực của Nội các càng lúc càng lớn, có quyền bổ nhiệm quan viên, kiểm soát ngân khố và thậm chí là điều động quân đội. Người đứng đầu Nội các, sau hoàng đế, mới là người thực sự điều khiển đất nước như Nghiêm Tung hay thậm chí lấn át cả hoàng đế như Trương Cư Chính. Đây là một trong những điều dẫn đến sự suy vong của Nhà Minh. Thành Tổ còn là một vị vua nghiêm khắc với quan lại tham nhũng, trừng phạt họ giống như cha mình là Thái Tổ. Quan viên tham ô 60 lượng bạc thì chém đầu, nhiều hơn thì lột da.

Kinh tế

Sau 4 năm chiến tranh tranh giành ngai vàng, đất nước đã phải hứng chịu nặng nề những hậu quả của chiến tranh, nhân khẩu giảm mạnh, làng mạc ruộng đồng bị phá hủy. Đất nước phải đối mặt với sự suy giảm cả về kinh tế và dân số. Tân hoàng đế Vĩnh Lạc có những kế hoạch lâu dài và phổ thông để tăng cường và ổn định nền kinh tế mới, nhưng trước hết ông phải loại bỏ những kẻ bất đồng. Hoàng đế tạo ra một hệ thống kiểm duyệt phức tạp, cách chức các tham quan tung tin đồn bất lợi với nền kinh tế. Để tăng cường nền kinh tế và chống sự suy giảm dân số, Vĩnh Lạc cho thu hồi đất đai để ban phát lại cho dân nghèo đã mất đất trong chiến tranh, giảm thuế ở các vùng bị tàn phá nặng nề nhất. Việc làm này đã giúp ông sử dụng nhiều nhất lực lượng lao động có thể, và tối đa hóa sản lượng dệt may và nông nghiệp. Ông tuy là người tàn bạo nhưng trong những năm ông trị vì, dân số đã khôi phục và phát triển, số lượng người chết vì đói rét rất ít.

Minh Thành Tổ bất đồng ý kiến với cha mình về thương nghiệp. Nếu như hoàng đế Hồng Vũ là người bài xích giai cấp thương nhân, ra lệnh bế quan tỏa cảng ức chế thương nghiệp thì Vĩnh Lạc lại cho mở cửa, xây cảng biển và cho thái giám thân tín của mình là Trịnh Hòa thực hiện các chuyến du hành ra đại dương để tìm các đối tác thông thương và khám phá ra các vùng đất mới. Điều này đã tăng thêm thu nhập cho đế quốc, phục vụ cho các công trình xây dựng tốn kém và các cuộc chinh phạt quy mô.

Các công trình xây dựng

Minh Thành Tổ cho thực hiện cuộc tái thiết lớn Đại Vận hà, trong những năm ông trị vì công trình Đại Vận hà gần như đã được hoàn thành và Đại Vận hà được dùng để di chuyển các hàng hóa nhập khẩu đến từ khắp nơi trên thế giới. Việc này cũng giúp cho giao thông phát triển, lương thực từ phía nam có thể dễ dàng vận chuyển ra phía bắc đảm bảo cho các cuộc chinh phạt Mông Cổ của hoàng đế.

Việc tiếp theo của Minh Thành Tổ là muốn dời đô về phía bắc mà kinh đô chính là Bắc Bình, thủ phủ cũ của ông khi còn là Yên vương, mặc dù vấp phải nhiều sự phản đối của các đại thần, phần nhiều là do tổ huấn của vua cha Thái Tổ phải định đô ở Kim Lăng để tránh sự xâm lược từ Nhung Địch phía bắc. Nhưng sau khi được một số tướng lĩnh khuyên can rằng Kim Lăng nằm ở vị trí dễ bị công phá bởi pháo binh và không tin tưởng vào hệ thống phòng thủ của thành phố do nhìn vào tấm gương của Minh Huệ Đế, cộng thêm tư tưởng: "Thiên tử thủ biên cương", Vĩnh Lạc vẫn quyết định dời đô về Bắc Bình và cho đổi tên là Bắc Kinh (hay Yên Kinh) còn Kim Lăng đổi thành Nam Kinh. Nam Kinh vẫn có Lục bộ riêng và được trấn thủ bởi em vợ của hoàng đế, con trai út của đại tướng khai quốc Từ Đạt. Ở Bắc Kinh, Minh Thành Tổ cho thực hiện một mạng lưới công trình đồ sộ, một nơi mà có thể đặt được các cơ quan chính phủ và là nơi cư trú cho các thành viên hoàng thất. Để thực hiện công trình này Minh Thành Tổ đã cho huy động hơn 10 vạn dân phu, và sau 13 năm (1407-1420), Tử Cấm thành đã được hoàn thành và trở thành thủ đô cho hai đế quốc Minh-Thanh trong 500 năm tiếp theo.

Trong khi Minh Thái Tổ muốn bản thân và con cháu được chôn ở Hiếu lăng, Nam Kinh thì việc dời đô của Thành Tổ đã làm xuất hiện một việc cấp thiết là phải kiến tạo một lăng mộ hoàng gia mới. Sau khi được cố vấn bởi các thầy địa lý phong thủy, Minh Thành Tổ chọn một vùng đất phía bắc thành Bắc Kinh làm nơi xây dựng mộ phần của mình và các hoàng đế tiếp theo. Trong hơn 200 năm tiếp theo, 13 vị hoàng đế Nhà Minh đã được chôn cất tại đây.

Văn hóa

Năm Vĩnh Lạc thứ 2 (1403), Thành Tổ cho người biên soan một bộ bách khoa toàn thư, lấy tên là Vĩnh Lạc đại điển, với chủ biên là Thủ phụ đầu tiên của Nhà Minh là Giải Tấn, một học giả tài danh đương thời cùng với 147 học giả khác. Bộ sách được biên soạn với mục đích gìn giữ bảo vệ văn hóa và văn học Trung Quốc bằng chữ. Đến năm 1408, bộ sách được hoàn thành, trở thành bách khoa toàn thư đầu tiên của thế giới và là bộ sách đồ sộ nhất của thể loại này, tuy nhiên vì quá to lớn, nên bộ sách không được in ra mà chỉ có một bản duy nhất, đến nay đã gần như mất dần với thời gian.

Minh Thành Tổ còn là người khoan dung với các tư tưởng triết học khác với mình (nhà vua là người theo đạo Khổng Mạnh), đối xử bình đẳng với các tôn giáo Phật-Đạo-Nho. Mặc dù các nho sinh đương thời xem ông là kẻ đạo đức giả, việc đối xử khoan dung và bình đẳng tôn giáo đã giúp ông có được sự yêu quý của nhân dân, củng cố sự thống nhất đế quốc. Việc xem trọng văn hóa truyền thống đã dấy lên làn sóng căm ghét văn hóa Mông Cổ còn sót lại ở Trung Quốc, hoàng đế xem việc ăn mặc, đặt tên, nói năng như người Mông Cổ là rác rưởi và ra lệnh cấm tiệt. Đạo Hồi dưới triều ông cũng rất phát triển, nhà vua đã ra lệnh xây thêm 2 nhà thờ Hồi giáo để truyền giáo. Ông được nhân dân đương thời gọi là "Vị Phật năng động".

Triệt phiên

Sau khi lên ngôi, nhận biết được tác hại của các phiên vương đối với hoàng quyền mà chính bản thân mình là ví dụ điển hình và thành công nhất, Thành Tổ quyết tâm triệt phiên. Nhưng rút được bài học từ Minh Huệ Đế triệt phiên quá vội vàng, thậm chí là mất hết nhân tính khi tru diệt nhiều phiên vương và không cân nhắc các biện pháp quân sự tương xứng, cũng như không muốn đế quốc mới thống nhất lại bị chia cắt và tàn phá bởi thêm một cuộc nội chiến nữa, Thành Tổ sử dụng các biện vỗ về an ủi các vương ngoài mặt nhưng ngấm ngầm thực hiện các mưu đồ suy yếu các phiên. Các phiên vương dần bị bãi bỏ binh quyền và thu giảm đất phong trong suốt thời kỳ trị vì của Thành Tổ. Cuối cùng các phiên vương trở thành những kẻ sống xa hoa lãng phí, ăn no nằm chờ chết và trở thành gánh nặng của đế quốc.

Ninh Vương Chu Quyền, người em thứ 17 của Thành Tổ, là một trong những đồng minh trung thành nhất và góp nhiều công lao trong việc giành lấy ngai vàng cho vua anh. Lực lượng của Ninh Vương là mạnh nhất sau Yên Vương thời đó, nên Thành Tổ lúc khởi sự đã hứa khi sự thành sẽ cùng hưởng chung thiên hạ với NInh Vương. Tuy nhiên khi lên ngôi, nhà vua đã ép Ninh Vương phải rời bỏ đất phong và chuyển về một vùng đất nghèo nàn hơn và bị bãi bỏ binh quyền. Ninh Vương chết trong uất ức, còn con cháu ông cũng mang lòng bất mãn với triều đình. Đỉnh điểm là hậu duệ Chu Thần Hào của Ninh Vương nổi binh làm phản dưới thời Chính Đức của Minh Vũ Tông, tuy nhiên đã bị đàn áp và thất bại, dòng dõi của Ninh Vương bị giết hết và biến mất.

Trị an

Khi thành Nam Kinh bị phá, Minh Huệ Đế đốt cung điện và Thành Tổ sai người tìm thấy một xác chết cháy đen không nhận biết được nên Thành Tổ nghi ngờ rằng Huệ Đế dùng kế kim thiền thoát xác và đang lẩn trốn trong dân gian. Thành Tổ lên ngôi lập tức hạ lệnh tái lập cơ quan mật vụ đầy tai tiếng dưới thời cha mình là Cẩm Y Vệ. Nhiệm vụ của Cẩm Y Vệ là bắt giữ và tra tấn các quan viên trung thành với Minh Huệ Đế, giám sát và có quyền bắt giữ các quan viên bị nghi ngờ là mang lòng phản nghịch, nhưng trọng yếu nhất là tìm và diệt "Kiến Văn dư đảng" bao gồm cả Huệ Đế dù sống hay chết. Cẩm Y Vệ được Thành Tổ giao cho một tướng lĩnh thân cận đã lập được nhiều công lao trong Tĩnh Nan chi dịch là Kỷ Cương làm Cẩm Y Vệ Chỉ huy sứ. Kỷ Cương ỷ được Thành Tổ yêu quý nên hoành hành ngang ngược, không việc ác nào không làm, thậm chí còn lén sai người chọn trong các tú nữ dâng lên cho hoàng đế để cướp những người đẹp nhất về cho mình.

Trái ngược với cha mình là Thái Tổ và người tiền nhiệm là Huệ Đế, những người mang ác cảm với hoạn quan, còn treo bảng hoạn quan can chính thì giết không tha, Thành Tổ lại cực kỳ tín nhiệm hoạn quan, vì nhờ các hoạn quan bị Huệ Đế ngược đãi đã bán tin mật của triều đình cho Thành Tổ, còn đem dâng Nam Kinh cho Thành Tổ. Khi Kỷ Cương dính vào án mưu phản, Kỷ Cương xin Thành Tổ niệm tình công lao bao năm nay, xin được chịu chết một mình và xin hoàng đế tha cho cả họ. Thành Tổ ban đầu cũng mủi lòng, nhưng khi nghe bọn tay chân của Kỷ Cương báo lại các việc làm của hắn trong đó có việc cướp tú nữ, Thành Tổ giận lắm, sai người tru di hết chín họ của Kỷ Cương, bản thân Kỷ Cương và đứa cháu bị lăng trì cắt từng miếng thịt. Qua sự việc này, Thành Tổ thấy Cẩm Y Vệ quyền hành lớn quá, che cả tai mắt nhà vua nên quyết định lập thêm một cơ quan mật vụ nữa để phân quyền với Cẩm Y Vệ. Năm Vĩnh Lạc thứ 18 (1420), Thành Tổ cho thành lập Đông Tập Sự xưởng, gọi tắt là Đông Xưởng, do một hoạn quan thân tín đứng đầu, gọi là Xưởng công. Đông Xưởng cũng có nhiệm giám sát bách quan, truy bắt và tiêu diệt các phần tử phản nghịch với thêm một nhiệm vụ trọng yếu nữa là cùng Cẩm Y Vệ giám sát lẫn nhau. Việc này đã mở màn cho hoạn quan bước lên vũ đài chính trị, khi các nha môn của triều đình dần rơi vào tay hoạn quan, còn các hoạn quan được phái đi trấn thủ khắp các nơi trên đất nước. Việc tranh chấp giữa Xưởng và Vệ, các quan lại sĩ lâm và lực lượng hoạn quan vô tình đã đẩy Nhà Minh vào bờ vực bất ổn rồi đến suy yếu và diệt vong, khi các quân chủ đời sau không còn đủ khả năng để kiểm soát hoàn toàn các lực lượng này. Các hoạn quan Nhà Minh đã vì lợi ích bản thân mà làm suy yếu đế quốc điển hình là Vương Chấn, Uông Trực, Lưu Cẩn và nổi tiếng nhất vì đã trực tiếp làm Nhà Minh đi đến bờ diệt vong là Ngụy Trung Hiền.

Chính sách đối ngoại

Một con hươu cao cổ châu Phi được quốc vương Bengal tặng cho Minh Thành Tổ. Theo một số thuyết thì kỳ lân được cách điệu theo con hươu cao cổ này

Mông Cổ

Mông Cổ tuy đã bị Minh Thái Tổ đuổi ra khỏi Trung Quốc từ năm 1368 nhưng vẫn là một kình địch đáng gờm của nhà Minh. Quân Mông Cổ du mục vẫn còn gây ra một số bất ổn cho Nhà Minh. Vĩnh Lạc đã chuẩn bị để loại trừ mối đe dọa này. Ông sửa chữa hệ thống phòng thủ phía Bắc và xây dựng đội quân liên minh ở vùng đệm với Mông Cổ. Chiến lược của ông là để buộc người Mông Cổ vào phụ thuộc kinh tế vào Trung Quốc và tiến hành tiến đánh định kì vào Mông Cổ để làm tê liệt sức mạnh của họ. Ông thậm chí còn thành công trong việc buộc Mông Cổ trở thành một chư hầu Nhà Minh, và tiến hành cô lập người Mông Cổ. Thông qua chiến đấu, Minh Thành Tổ đã đánh giá cao tầm quan trọng của kỵ binh trong chiến trận và đã dành nhiều nguồn lực để phát triển nó. Minh Thành Tổ dành cả đời để đánh Mông Cổ, có cả thắng thua, tuy nhiên qua các cuộc chinh phạt này biên giới Nhà Minh được mở rộng và trong lần chinh phạt thứ 2 đã giúp cho Đại Minh có được hòa bình ở phía bắc trong bảy năm. Ông thực hiện 5 cuộc viễn chinh vào sa mạc GobiSiberia và nghiền nát những tàn tích còn sót của Triều đại Nhà Nguyên, sau khi chúng đã bỏ chạy xa về phía bắc do bị đánh bại bởi Chu Nguyên Chương, diễn ra từ năm 1410 đến năm 1424.

Lần thứ nhất

Nhà Minh gửi sứ giả đến Đông Mông Cổ đòi nước này phải thần phục và cống nạp cho Nhà Minh. Năm 1409, Bunyashiri[5] thủ lĩnh Đông Mông Cổ cho chém sứ giả Nhà Minh. Ngược lại, Mahmud của Ngõa Lạt Mông Cổ (Tây Mông Cổ) lại cho sứ thần đến cống nạp cho Nhà Minh vào năm 1408. Nhà Minh đã lợi dụng mối quan hệ này một cách thành công trong việc chống lại Đông Mông Cổ.

Mùa đông năm 1409, Vĩnh Lạc triệu tập quân đội, trưng thu lương thảo chuẩn bị cho chiến tranh. Tháng ba năm 1410, nhà vua rời khỏi Bắc Kinh với 10 vạn đại quân, 3 vạn xe chở lương thảo. Khi đến bờ bắc sông Kerulen, hoàng đế cho khắc vào đá:"Năm Vĩnh Lạc thứ 8, Hoàng đế nhà Đại Minh đã qua đây với 6 đạo quân để chinh phạt bọn kẻ cướp Man Di".

Bunyashiri muốn bỏ chạy khỏi quân Minh, nhưng Arughtai không đồng ý nên hai thủ lĩnh Mông Cổ mang theo quân của mình đi theo 2 hướng khác nhau. Quân Minh đuổi theo Bunyashiri, đánh bại và tiêu diệt gần hết đội quân này, tuy nhiên Bunyashiri trốn thoát với một số cận vệ. Sau đó, quân Minh đuổi theo và đánh bại Arughtai, còn Arughtai cũng trốn thoát được quân Minh. Vĩnh Lạc hoàng đế trở về Bắc Kinh vào tháng 9.

Arughtai sau khi bị đánh bại, vì sợ sức mạnh quân sự của Nhà Minh và muốn có hàng hóa qua buôn bán nên đồng ý thần phục và cống nạp cho Nhà Minh. Còn Bunyashiri bị quân Ngõa Lạt bắt và giết vào năm 1412.

Lần thứ hai

Triều đình nhà Nhà Minh ngày càng coi thường và có thái độ tiêu cực với Ngõa Lạt. Minh Thành Tổ từ chối khen thưởng cho Mahmud và quân Ngõa Lạt, những người đã chiến đấu chống lại Bunyashiri và Arughtai. Mahmud ngày càng tức giận vì bị coi thường bởi vua Minh và đã bắt giữ sứ đoàn Nhà Minh, nên Vĩnh Lạc phải phái một hoạn quan đến đảm bảo an toàn và phóng thích cho sứ đoàn.

Cảm thấy bị đe dọa, Mahmud đã huy động 3 vạn quân Ngõa Lạt Mông Cổ tiến đến sông Kerulen chống lại Nhà Minh vào năm 1413. Cuối năm đó, Arughtai thông báo cho Nhà Minh là Mahmud đã vượt sông Kerulen chuẩn bị khai chiến với quân Minh. Tháng 4 năm 1414, Vĩnh Lạc xuất quân khỏi Bắc Kinh để đối đầu với Ngõa Lạt. Quân Minh tiến đến Kerulen, và gặp phải quân Ngõa Lạt ở thượng nguồn sông Tula. Quân Ngõa Lạt bị choáng với các cuộc pháo kích của pháo binh Nhà Minh nên bị tổn thất nghiêm trọng và buộc phải rút lui. Mahmud trốn thoát cùng với Delbek, một khả hãn bù nhìn. Vĩnh Lạc khải hoàn về Bắc Kinh vào tháng 8.

Arughtai viện cớ bị bệnh nên không tham gia cuộc chiến, còn Mahmud muốn nối lại hòa bình với Nhà Minh, mặc dù Vĩnh Lạc nghi ngờ sự trung thực của Mahmud. Dù sao, vào năm 1416, Mahmud và Delbek đã bị Arughtai tấn công và giết chết.

Lần thứ ba

Arughtai muốn nhận được phần thưởng của mình vì đã cung cấp tình báo cho quân Minh. Tuy nhiên, Vĩnh Lạc chỉ ban cho Arughtai và mẹ mình tước hiệu chứ không phải các đặc quyền kinh tế. Việc này khiến Arughtai ngày càng thù địch Nhà Minh và bắt đầu tấn công các thương đoàn phía bắc Trung Quốc. Năm 1421, Arughtai ngừng gửi cống nạp cho Nhà Minh. Năm 1422, Arughtai tấn công và phá hủy một vài pháo đài phía bắc Nhà Minh. Việc này đã buộc Nhà Minh phải chuẩn bị cho cuộc chinh phạt thứ 3.

Ở triều đình Nhà Minh, các đại thần của Minh Thành Tổ khuyên can ông không nên động binh vì quốc khố sẽ trở nên trống rỗng. Vĩnh Lạc bỏ ngoài tai những lời này, trong số các vị thượng thư khuyên can, 1 người tự sát còn 2 người thì bị bỏ ngục.

Tháng 4 năm 1422, Minh Thành Tổ khởi 23 vạn đại quân từ Bắc Kinh tiến đến Dolon, nơi Arughtai đang đóng trại. Quân Minh gây hoảng sợ cho Arughtai, kẻ bị buộc phải tránh giao chiến với quân Minh và rút vào thảo nguyên. Quân Minh đáp trả bằng các cuộc cướp bóc vào trại của Arughtai. Tình huống bực bội này đã làm cho Vĩnh Lạc chuyển hướng tấn công và cướp bóc đẫm máu sang bộ tộc Urianghai, trong khi bộ tộc này không hề dính dáng đến sự thù địch của Arughtai. Những kiểu tấn công này được lập lại trong các chiến dịch sau. Quân Minh trở về Bắc Kinh vào tháng 9.

Lần thứ tư

Năm 1423, Minh Thành Tổ phát động một đòn tấn công phủ đầu vào lực lượng của Arughtai vào tháng tám. Tuy nhiên Arughtai lại tránh giao chiến với quân Minh. Ésen Tugel, một tướng lĩnh của Đông Mông Cổ đã đầu hàng Nhà Minh. Quân Minh về Bắc Kinh vào tháng 12.

Lần thứ năm

Arughtai tiếp tục các cuộc tấn công cướp bóc vào Khai Bình và Đại Đồng. Năm 1424, Minh Thành Tổ đáp trả bằng cách phát động chiến dịch thứ 5 đánh Mông Cổ, ông tập hợp quân đội ở Bắc Kinh và Tuyên Phủ, vào tháng tư thì khởi binh đánh Arughtai. Cũng như các lần trước, Arughtai tránh giao chiến với quân Minh và lui về thảo nguyên. Các tướng lĩnh Nhà Minh đề nghị truy kích Arughtai bằng cách thọc sâu vào thảo nguyên Mông Cổ nhưng Minh Thành Tổ, lúc này đã già, cho rằng làm vậy là quá sức mình, đã hạ lệnh lui quân.

Đại Ngu - Đại Việt

Giao Chỉ (miền Bắc Việt Nam) dưới sự chiếm đóng của nhà Minh
Triều Minh Trung Quốc dưới Triều đại Vĩnh Lạc (1424)

Đại Việt, với tên gọi mới Đại Ngu từ năm 1400, là một vấn đề hóc búa trong suốt Triều đại của Minh Thành Tổ. Năm 1406, Minh Thành Tổ chính thức đáp lại các thỉnh cầu từ Trần Thiêm Bình - người xưng là dòng dõi Nhà Trần đã bị Nhà Hồ lật đổ năm 1400. Ông sai tướng Hoàng Trung đem 10 vạn quân hộ tống Trần Thiêm Bình về nước. Quân Đại Ngu chặn ở biên giới nhưng bị quân Minh đánh tan; không lâu sau, một cánh quân Đại Ngu khác đánh úp quân Minh. Hoàng Trung phải nhượng bộ xin giao nộp Trần Thiêm Bình cho nhà Hồ bắt giết để được mở đường rút quân về nước.

Để đáp lại sự sỉ nhục này, Minh Thành Tổ đã sai Trương Phụ, Mộc Thạnh đem 21 vạn quân (nói phao lên thành 80 vạn) xâm lược Đại Ngu. Quân Minh liên tiếp thắng trận, bắt được vua Hồ Hán Thương và thượng hoàng Hồ Quý Ly. Nhà Hồ hoàn toàn sụp đổ vào năm 1407 và nhà Minh chính thức giành quyền đô hộ nước Việt, mở ra thời kỳ Bắc thuộc lần 4. Trung Quốc đã bắt đầu âm mưu đồng hóa một cách lâu dài. Vĩnh Lạc cho người đốt hết những sách vở, phá hủy những bia đá có khắc văn tự của người Việt, bắt những thợ thủ công có tay nghề cao người Việt thiến đi rồi đưa về Trung Quốc để phục dịch, lại đàn áp, tăng sưu thuế bắt người Việt phải phục dịch quân Minh. Nhưng những nỗ lực đó vấp phải sự kháng cự mạnh mẽ của người Việt. Nhiều cuộc nổi dậy nổ ra chống lại các bộ máy cai trị của nhà Minh. Minh Thành Tổ đã điều các tướng Mộc Thạnh, Trương Phụ sang dẹp các cuộc cuộc khởi nghĩa mà lớn nhất ban đầu là phong trào của các quý tộc nhà Trần cũ là Trần NgỗiTrần Quý Khoáng. Sau khi họ Trần thất bại, vào đầu năm 1418 một cuộc nổi dậy lớn do Lê Lợi khởi xướng. Do thời gian Minh Thành Tổ qua đời đúng vào năm 1424, các lực lượng người Việt dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi đã chiếm gần như toàn bộ lại vương quốc. Năm 1427, Minh Tuyên Tông đã từ bỏ những nỗ lực bắt đầu bởi ông nội của ông và chính thức thừa nhận nền độc lập của Việt Nam với điều kiện nước Đại Việt phải chấp nhận tình trạng chư hầu và phải cống nạp người vàng tượng trưng cho tướng Liễu Thăng bị giết ở ải Chi Lăng mỗi lần đi sứ. Tuy nhiên, vai trò và thanh thế của nhà Minh trong khu vực cũng từ đó mà đi xuống, bởi sự lớn mạnh của nước Việt mới ở phương Nam đã cắt đứt ảnh hưởng của nhà Minh xuống vùng Đông Nam Á.

Timurid

Timur Lenk sau khi đã thành lập nên đế quốc Timurid của mình, bắt đầu lên kế hoạch chinh phục Trung Quốc. Vì việc này ông đã thành lập liên minh với nhà Bắc Nguyên và cho bắt giữ một phái đoàn của Nhà Minh. Tháng 12 năm 1404, Timur phát động một chiến dịch quân sự chống lại Nhà Minh, tuy nhiên quân đội của ông đã phải hứng chịu cái lạnh và dịch bệnh ở bờ sông Sihon, nơi ông đóng quân. Đó là một trong những mùa đông khắc nghiệt nhất trong lịch sử, tương truyền quân của Timur đã phải đào sâu mấy chục thước vào lòng đất để tìm nước. Bản thân Timur mất vì bệnh ở trong quân vào tháng 2 năm 1405, trước khi đến được biên giới Trung Quốc. Chiến dịch bị hủy bỏ và phái đoàn Nhà Minh được trả về.

Tây Tạng

Năm 1403, Minh Thành Tổ cho gửi sứ giả và lễ vật đến Tây Tạng để mời Deshin Shekpa, người đứng đầu phái Kagyu, đến thăm kinh đô của mình, có vẻ như nhà vua đã mơ thấy Quán Thế Âm. Sau một chuyến hành trình dài, Deshin Shekpa tới Nam Kinh vào năm 1407, cưỡi trên một con voi thẳng tới cung điện nơi có hàng vạn nhà sư chờ để đón ông.

Deshin Shekpa khuyên hoàng đế rằng có nhiều tôn giáo khác nhau cho những người khác nhau, có nghĩa là không tôn giáo nào tốt hơn tôn giáo nào. Nhiều người còn cho rằng đã thấy điềm lành trên trời khi Deshin Shekpa ở tại Nam Kinh. Deshin Shekpa còn thực hiện một số nghi lễ cho hoàng gia. Minh Thành Tổ đã tặng ông rất nhiều vàng lụa.

Ngoài vấn đề tôn giáo, Minh Thành Tổ còn muốn thành lập một liên minh với Tây Tạng, thậm chí còn muốn gửi quân đến giúp thống nhất Tây Tạng dưới trướng của phái Kagyu nhưng Deshin Shekpa từ chối vì lúc này một phần Tây Tạng vẫn còn nằm dưới quyền những người ủng hộ Nhà Nguyên. Năm 1408, Deshin Shekpa rời khỏi Nam Kinh về Tây Tạng.

Những cuộc thám hiểm của Trịnh Hòa

Vì mong muốn mở rộng ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa ra khắp thế giới, Minh Thành Tổ đã tài trợ cho các chuyến thám hiểm hoành tráng và dài hạn của Trịnh Hòa. Trong khi thuyền buôn Trung Hoa tiếp tục đến Nhật Bản, Lưu CầuĐông Nam Á trước và sau thời Vĩnh Lạc, các chuyến đi của Trịnh Hòa là những chuyến thám hiểm thế giới quan trọng duy nhất bằng đường biển của Trung Quốc. Chuyến thám hiểm đầu tiên do Trịnh Hòa chỉ huy khởi hành vào năm 1405, 18 năm trước khi Henry Nhà hàng hải bắt đầu các chuyến du hành khám phá của người Bồ Đào Nha. Bảy chuyến thám hiểm diễn ra từ năm 1405 đến 1433, đoàn thám hiểm đã đến các trung tâm thương mại của châu Á thời đó. Một số chiếc thuyền được coi là thuyền chèo bằng gỗ lớn nhất trong lịch sử nhân loại.

Năm 1406, Minh Thành Tổ cảm thấy kinh hãi khi người Lưu Cầu cho thiến nhiều bé trai để đưa đến phục vụ cho hoàng đế. Vĩnh Lạc trả lại những đứa bé này, nói chúng vô tội và không đáng bị như thế, lại hạ lệnh cho người Lưu Cầu sau này không được làm thế nữa. Sau cái chết của Timur, kẻ định xâm lược Trung Hoa, quan hệ ngoại giao giữa Nhà Minh và Shakhrukh, vua của Ba Tư và Transoxania đã được cải thiện đáng kể. Hai nước đã cho trao đổi các phái đoàn chính thức vào một số dịp.

Các chuyến thám hiểm của Trịnh Hòa là những thành tựu vượt bậc về kỹ thuật và công tác hậu cần của Trung Hoa. Những người thừa kế của Minh Thành Tổ, Hồng HiTuyên Đức, lại cho rằng các chuyến thám hiểm này là gánh nặng với ngân khố quốc gia. Hoàng đế Hồng Hi cho chấm dứt các chuyến đi, tuy nhiên một chuyến thám hiểm cuối cùng được diễn ra vào những năm Tuyên Đức. Các hậu duệ của hoàng đế Tuyên Đức cho đè nén và hủy bỏ nhiều tư liệu, thông tin về các chuyến hải hành của Trịnh Hòa.

Qua đời

Năm Vĩnh Lạc thứ 22 (1424), tháng 7, Minh Thành Tổ khải hoàn trở về sau cuộc Bắc chinh. Ngày 15 tháng 7 (âm lịch) năm đó, ông đột ngột bệnh nặng. Ngày thứ 16, đưa đến Du Mộc Xuyên (榆木川; nay là Đa Luân, Nội Mông Cổ), trong trạng thái hôn mê bất tỉnh. Đến ngày 18 tháng ấy, tức 12 tháng 8 dương lịch, Minh Thành Tổ qua đời ngay tại Du Mộc Xuyên, thọ 64 tuổi. Tại vị 22 năm.

Di chiếu truyền ngôi cho Hoàng thái tử Chu Cao Sí, tức Minh Nhân Tông. Khi Thành Tổ qua đời, Đại học sĩ Dương Vinh (楊榮), Thái giám Mã Khứ (馬去) bí mật không phát tang, lệnh cho Ngự Mã giám Thiếu giám Hải Thọ (海壽) bí mật hồi kinh, bẩm báo sự việc cho Hoàng thái tử, "Phụng di mệnh trì phò Hoàng thái tử"[6]. Biết tin, Thái tử phái con trai là Hoàng thái tôn Chu Chiêm Cơ (tức Minh Tuyên Tông) đi trước dẫn đường. Ngày 11 tháng 8 (âm lịch) cùng năm, Hoàng thái tôn mới đến quân doanh, tuyên bố tin tức Thành Tổ băng hà. Hoàng thái tử Chu Cao Sí kế vị, sang năm cải niên hiệu thành Hồng Hi (洪熙).

Minh Thành Tổ băng hà sau đó, Tân Hoàng đế Minh Nhân Tông đã lệnh hơn 30 cung nhân, trong đó là 16 vị phi tần của ông, phải tuẫn táng (殉葬), tức bức ép phải chết theo Hoàng đế để "hầu hạ" ở thế giới bên kia[7]. Các vị cung nhân được lựa chọn để tuẫn táng dùng cơm tại ngoài điện, sau đó được đưa vào trong điện, lúc này "tiếng khóc của các cung nữ rung cả cung điện". Trong điện đặt 30 chiếc "giường gỗ nhỏ", những phi tần bị buộc đi vào cõi chết đó được lệnh đứng lên giường gỗ, trên đỉnh đầu họ là những sợi dây thừng để tự treo cổ đã chuẩn bị sẵn, "chui đầu vào cái vòng, đạp đổ giường, rồi nghẹt thở mà chết". Sau khi ăn cơm xong, những người này bị đưa vào điện đường, tuẫn táng cùng Hoàng đế, tiếng khóc than vang trời.

Sau khi qua đời, ông được dâng miếu hiệuThái Tông (太宗), thụy hiệuThể Thiên Hoằng Đạo Cao Minh Quảng Vận Thánh Vũ Thần Công Thuần Nhân Chí Hiếu Văn hoàng đế (體天弘道高明廣運聖武神功純仁至孝文皇帝), đến ngày 19 tháng 12 (âm lịch) thì cùng hợp táng với Nhân Hiếu Văn Hoàng hậu Từ thị tại Trường lăng (长陵). Năm Gia Tĩnh thứ 17 (1538), Minh Thế Tông Chu Hậu Thông mới sửa miếu hiệu của ông thành Thành Tổ như hiện nay, cũng cho sửa thụy hiệu đi cho phù hợp.

Đời tư

Chọn ngôi Thái tử

Minh Thành Tổ có bốn con trai, 3 người đầu được sinh bởi Từ Hoàng hậu, người con út chết non. Trong đó người con thứ 3 Chu Cao Toại tuổi nhỏ, nên ngôi Thái tử là cuộc tranh giành giữa người con trưởng Chu Cao Sí và con thứ là Chu Cao Hú. Chu Cao Sí dáng người mập mạp, lại hay bệnh tật từ nhỏ, tính tình lại hiền lành, thích đọc sách, trái ngược với Thành Tổ là người tàn nhẫn và hiếu võ nên vua không thích người con này. Chu Cao Hú lại giống cha, diện mạo khôi ngô, tính nóng nảy lại thích giết người, võ nghệ giỏi giang, không thích đọc sách, khi có loạn Tĩnh Nan, cầm quân một phía chống lại quan quân triều đình, lúc Thành Tổ gặp nguy từng lấy thân ra chắn cho cha, nên được vua rất yêu thích.

Thành Tổ lên ngôi, muốn lập con thứ, nhưng bị Từ Hoàng hậu và các đại thần phản đối, lý do là theo tổ chế phải lập trưởng không lập ấu, vả lại Cao Sí lúc chiến tranh ở hậu phương gìn giữ căn cứ trước quân triều đình, chi viện cho đại quân, công lao không kém Cao Hú, lại không phạm lỗi lầm, phải lập làm Thái tử. Vua còn do dự, các đại thần tâu rằng: "Xin hãy xem cháu của bệ hạ". Chu Cao Hú dòng dõi không vượng, ít con. Còn dòng Chu Cao Sí thì thịnh vượng, con trưởng của Cao Sí là Chu Chiêm Cơ tuổi nhỏ lại gan dạ, tính thông minh, giỏi cả văn võ. Thành Tổ không thích con trưởng nhưng lại cực kỳ quý đứa cháu này. Tương truyền 100 ngày trước khi Minh Thái Tổ mất, lúc ấy vợ của Chu Cao Sí đang mang thai, Yên Vương Chu Đệ nằm mộng thấy cha mình trao cho ông ngọc tỷ ám chỉ rằng ngôi vua sẽ thuộc về ông. Chu Đệ tỉnh dậy, cùng ngày Chu Chiêm Cơ (Minh Tuyên Tông sau này) ra đời, Chu Đệ cho rằng đứa bé là điềm lành, khi lớn lên lại thông minh gan dạ, Chu Đệ cho rằng đứa cháu chính là Thái Tổ đầu thai nên quý lắm. Khi nghe các đại thần tâu, vua quyết định ngay, lập Chu Cao Sí làm thái Thái tử.

Chu Cao Hú thấy vậy tức lắm, bàn mưu với Kỷ Cương muốn học cha mình, đem quân tạo phản. Mưu mô bị phát giác, Kỷ Cương bị tru di, còn Chu Cao Hú bị bắt đến trước mặt Thành Tổ. Vua giận lắm, muốn giết Cao Hú. Thái tử lại niệm tình anh em, xin tha chết cho Cao Hú, vua liền mắng Thái tử là đồ lòng dạ đàn bà nhưng quả thật không nỡ giết con. Chu Cao Hú lại lập lời thề độc nếu mang lòng phản nghịch nữa thì bị ném vào vạc dầu. Vua bèn hỏi cháu là Chu Chiêm Cơ, lúc này mới hơn 10 tuổi: "Chú của cháu mang lòng phản, Trẫm ở đây nó không dám làm gì, Trẫm không còn nữa, nó lại mưu nghịch thì sao?", Chu Chiêm Cơ đáp rằng:"Cháu không sợ". Vua nghe thế vui lắm liền tha mạng cho Chu Cao Hú, nhưng bị biếm đi làm Hán Vương ở Vân Nam. Sau này vào thời Tuyên Đức, Chu Cao Hú lại muốn làm phản, Chu Chiêm Cơ đích thân dẫn quân đến bắt được, hành quyết mấy người con trai của Hán Vương cùng mấy trăm quan viên. Còn Chu Cao Hú thì bị trói vào cột mà thiêu tới chết cho ứng với lời thề.

Nghi án về mẹ đẻ

Sách Minh thực lục do Minh Thành Tổ Chu Đệ sau khi lên ngôi chủ trì biên soạn, cũng như các sử liệu chứng thích từ Minh sử đều nói rằng, Chu Đệ là do Mã Hoàng hậu sinh ra. Chu Đệ có ba người anh, tức Thái tử Chu Tiêu, Tần vương Chu Sảng, Tấn vương Chu Cương. Chu Đệ là con trai thứ 4 và bên dưới còn một người em cũng do Mã Hoàng hậu sinh ra là Chu Túc. Tuy nhiên, các văn nhân thời Minh và Thanh thì đều cho rằng, chính sử đã “bịa chuyện”, và mẹ ruột của Chu Đệ là Cống phi (碽妃)[8], vốn là một phụ nữ người Triều Tiên và từng là phi tần của Nguyên Thuận Đế.

Căn cứ Minh sử, 5 người con trai của Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương đều do Hiếu Từ Cao Hoàng hậu Mã thị sinh ra. Tuy nhiên dựa vào việc Chu Đệ sinh vào ngày 17 tháng 4 (âm lịch) năm Chí Chính thứ 20 (1360), và Hoàng ngũ tử Chu Định vương Chu Túc sinh vào ngày 9 tháng 7 (âm lịch) sang năm (1361), chỉ 1 năm mà tới 2 người con, đấy là cơ sở nghi vấn liệu Mã Hoàng hậu có thực sự là sinh mẫu của các hoàng tử của Chu Nguyên Chương, và có nghi ngờ toàn bộ cả 5 không do Mã Hoàng hậu sinh ra. Sách Tội duy lục (罪惟錄) của người Minh ghi chép lại đương thời, song đã từng nhắc đến "Có người nói Cao Hoàng hậu không con", chứng tỏ việc này đã sớm bị người Minh hoài nghi, chưa nói đến về sau. Bên cạnh đó, Phụng sứ lục (奉使录) của người Triều Tiên đương thời cũng ghi lại nhận định Chu Đệ không phải do Mã Hoàng hậu sinh ra. Theo đó, những ghi chép về Cống phi không còn nhiều, song nhiều người cho rằng, là một hậu phi trong hậu cung nhà Nguyên của Nguyên Thuận Đế, được Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương giữ lại làm chiến lợi phẩm sau khi đuổi được nhà Nguyên ra khỏi Trung Quốc.

Đối với quan niệm Cống phi là mẹ của Chu Đệ, có rất nhiều người nhận định và tin tưởng[9][10][11]. Một tài liệu khác gọi là Nam Kinh Thái thường chí (南京太常志) ghi lại cụ thể: ["Thần vị ở Hiếu lăng, bên Tả là một người Thục phi họ Lý, sinh Ý Văn Thái tử (Chu Tiêu), Tần Mẫn vương và Tấn Cung vương. Bên Hữu là vị Cống phi, sinh Thành Tổ Văn Hoàng đế, Tôn Quý phi, sinh Chu vương"; 孝陵神位,左一位淑妃李氏,生懿文太子、秦愍王、晉恭王。右一位碽妃,生成祖文皇帝,孫貴妃生周王。]. Nhưng thời điểm cả nhà Lý Thục phi đến cậy nhờ Chu Nguyên Chương, thì Chu Tiêu đã được ra trước đó 1 năm. Sách Tĩnh Chí cư thi thoại (靜志居詩話) của Chu Di Tôn (朱彝尊), cuốn 13, nhan đề Thẩm Nguyên hoa điều (沈元華條) có viết: ["Phụng Tiên Miếu chế (Nam Kinh Thái Miếu Phụng Tiên điện), cao về phía mặt Nam, chư Phi đều ở phía Đông, riêng phía Tây chỉ chừa 1 vị Cống phi, cứ theo Nam Kinh Thái thường chí. Cao hậu sinh thời thiện lương nhưng chưa từng có mang, dẫu cho Trường lăng (ý nói Chu Đệ), đến Ý Văn Thái tử cũng không phải Hậu sở sinh"; 奉先廟制(南京太廟奉先殿)高後南面,諸妃盡東列,西序惟碽妃一人,具載南京太常寺志。善高后從未懷妊,豈惟長陵,即懿文太子亦非后生也。]. Tuy nhiên Cống phi theo ghi chép là đến Trung Quốc vào năm 1365, mùa xuân, khi Chu Đệ đã 5 tuổi, thật sự khó có thể xem là mẹ đẻ. Bên cạnh đó, "Thái thường tự chí" được nhắc đến bên trên, phần nhiều đã được chứng minh là bóp méo sai sự thực, và người bóp méo là Trương Đình Ngọc, khi soạn sử Minh nhưng "hư hư thực thực" biên vào các ký lục truyền miệng[12].

Một học giả khác là Lưu Kế Trang (劉繼莊) nhận định mẹ đẻ của Chu Đệ là người Mông Cổ, dựa theo Quảng Dương tập ký (廣陽雜記) của ông ghi lại: ["Sinh mẫu của Minh Thành Tổ là Ung thị, người Hoằng Cát Lạt Mông Cổ, nguyên là Nguyên Thuận Đế phi, có sự chuyện lạ bên trong"; 明成祖母為甕氏,蒙古弘吉剌人,以其為元順帝妃,故隱其事。]. Tuy nhiên, việc nhà Minh đem quân áp đảo và đánh vào nhà Nguyên diễn ra năm 1368, Chu Đệ khi ấy đã 9 tuổi.

Nhận xét

Cuộc đời của Minh Thành Tổ là một sự truy cầu quyền lực, uy danh và vinh quang. Ông bị coi là phản nghịch, soán vị cháu của mình, nhưng đã chứng minh được bản thân xứng đáng là hoàng đế hơn, là một người có thể tiếp nối các di sản của Minh Thái Tổ. Ông trái lại với tổ huấn của vua cha, dời đô về bắc, mở cửa buôn bán, thực hiện các chiến dịch tấn công thẳng vào quân Mông Cổ nhưng triều Minh dưới thời ông hùng mạnh cả về kinh tế lẫn quân sự, bản đồ được mở rộng. Nhờ vào các cuộc hải trình của Trịnh Hòa, Trung Quốc biết được thêm nhiều vùng đất mới trên thế giới. Ông chăm chỉ làm việc để gìn giữ và phát huy văn hóa truyền thống Trung Quốc. Các cải cách của Thành Tổ về kinh tế, giáo dục và quân sự đem lại những lợi ích chưa từng có cho người dân và đất nước. Bản đồ Nhà Minh dưới thời Minh Thành Tổ là to lớn nhất, tuy nhiên sau khi ông mất thì nhân dân các nước bị đô hộ đó đều giành lại được lãnh thổ và độc lập. Quân đội Nhà Minh lúc cực thịnh dưới thời ông có hơn 1 triệu 2 trăm nghìn người, tuy nhiên đội quân này đã mất các khả năng thực hiện các chiến dịch phản công vì các quân chủ đời sau không biết gì về quân sự. Ông cũng đã đặt nền móng cho sự loạn chính của hoạn quan và chế độ gián điệp đã hàm oan bao nhiêu người, dẫn đến sự bất ổn và suy vong của Nhà Minh. Triều đại của ông được xem là một phước lành nhưng đầy máu tươi của nhân dân Trung Quốc.

Minh Thành Tổ giành được ngai vàng trên chiến trường nên vẫn thường được xem như là vị hoàng đế khai quốc thứ hai của Nhà Minh. Công lao của ông với đất nước, văn trị hay võ công, có thể so sánh với các vị đại đế như Tần Thủy Hoàng, Hán Vũ Đế, Đường Thái Tông, Tống Thái Tổ. Hoàng đế Khang Hy Nhà Thanh đã từng viết về Triều đại và sự cai trị của ông: "Trị long Đường Tống" (cai trị tốt hơn cả Đường Tống).

Cũng như cha mình là Thái Tổ, Thành Tổ được nhớ đến nhiều như một trong các bạo quân nổi tiếng trong lịch sử. Tuy nhiên khác với cha, ông không tru sát các công thần giúp mình giành thiên hạ mà vẫn trọng dụng họ. Khi biết ái phi của mình bị mưu sát, ông đã hạ lệnh lăng trì 3000 cung nhân phục vụ bị cho là có liên quan đến cái chết của ái phi và ngồi chứng kiến cuộc hành hình. Ông trọng dụng thái giám, một lệ không tốt khi các quân chủ đời sau không lo việc nước mà giao hết cho hoạn quan như Anh Tông, Hiến Tông, Vũ Tông và nổi bật là Hy Tông. Ông cho bắt bớ, tra tấn và tàn sát các quan viên trung thành với Huệ Đế và gia quyến của họ. Ông cũng tự biết mình tàn bạo quá, đã cho người đúc chuông Vĩnh Lạc để thể hiện sự ăn năn và hối hận, tuy nhiên khi chết ông cũng để lại chiếu bắt 30 cung nga xinh đẹp phải thắt cổ rồi bồi táng chung với ông. Bất chấp những điều này, Minh Thành Tổ Chu Đệ vẫn được xem như một kiến trúc sư và nhà gìn giữ văn hóa, lịch sử, chế độ và là một hoàng đế có ảnh hưởng lớn đối với Trung Quốc.

Gia quyến

  • Cha: Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương.
  • Mẹ: Hiếu Từ Cao hoàng hậu Mã thị, người ở Túc Châu, kết tóc thê tử của Minh Thái Tổ. Có thuyết Thành Tổ là con một phi tần vô danh, sau được Hoàng hậu nhận nuôi dưỡng.
  • Hậu phi:
  1. Nhân Hiếu Văn hoàng hậu Từ thị (仁孝文皇后徐氏, 1362 - 1407), con gái của đại danh tướng Từ Đạt. Sinh hạ Minh Nhân Tông Chu Cao Sí, phế Hán vương Chu Cao Hú và Triệu Giản vương Chu Cao Toại
  2. Chiêu Hiến Quý phi Vương thị (昭献贵妃王氏, ? - 1420), người Tô Châu, Giang Tô. Sơ phong Chiêu dung (昭容), sau phong Quý phi. Bà tư sắc diễm lệ, thông hiểu lễ nghĩa, rất được Từ Hoàng hậu và Thành Tổ tín nhiệm. Sau khi Từ Hoàng hậu qua đời, bà xử lý hết mọi việc trong cung, được các Hoàng tử, Vương hầu và Công chúa kính nể như đích mẫu. Sau khi qua đời, an táng trọng thể theo lễ của Hồng Vũ Đế Thành Mục Quý phi; Thái tử Chu Cao Sí đích thân để tang phục.
  3. Chiêu Ý Quý phi Trương thị (昭懿貴妃張氏), người Hà Nam, con gái của Hà Giang Trung Vũ vương Trương Ngọc (張玉).
  4. Cung Hiến Hiền phi Quyền thị (恭献贤妃权氏, 1391 - 1410), còn gọi Hiển Nhân phi (显仁妃), người Triều Tiên, thuộc dòng họ An Đông Quyền thị (安東權氏), cha là Quyền Vĩnh Quân (权永均). Tư sắc diễm mỹ đặc biệt, xưng là Đệ nhất quốc sắc, cực kỳ đắc sủng. Năm 1409, được gả nhập cung, khi đó 18 tuổi. Bà được Thành Tổ lập tức sủng ái, phong làm Hiền phi (贤妃). Tùy giá Thành Tổ bắc chinh thì qua đời ở Lâm Thành.
  5. Trung Kính Chiêu Thuận Hiền phi Dụ thị (忠敬昭順賢妃喻氏, ? - 1421)
  6. Khang Mục Ý Cung Huệ phi Ngô thị (康穆懿恭惠妃吳氏)
  7. Cung Thuận Vinh Mục Lệ phi Trần thị (恭順榮穆麗妃陳氏)
  8. Đoan Tĩnh Cung Huệ Thục phi Dương thị (端靜恭惠淑妃楊氏)
  9. Cung Hòa Vinh Thuận Hiền phi Vương thị (恭和榮順賢妃王氏)
  10. Chiêu Huệ Cung Ý Thuận phi Vương thị (昭惠恭懿順妃王氏)
  11. Huệ Mục Chiêu Kính Thuận phi Tiền thị (惠穆昭敬順妃錢氏)
  12. Khang Huệ Trang Thục Lệ phi Hàn thị (康惠莊淑麗妃韓氏; ? - 1424), người Triều Tiên, xuất thân Thanh Châu Hàn thị (清州韓氏). Cha là Hàn Vĩnh Thái (韩永矴), có cháu gái là Chiêu Huệ vương hậu Hàn thị; em gái là Hàn Quế Lan (韓桂蘭) là nữ quan dưới thời Minh Tuyên Tông[13]. Bị tuẫn táng cùng Minh Thành Tổ
  13. Khang Tĩnh Trang Hòa Huệ phi Thôi thị (康靖莊和惠妃崔氏; 1395 - 1424), người Triều Tiên, cha là Thôi Đắc Phi (崔得霏). Bị tuẫn táng cùng Minh Thành Tổ
  14. An Thuận Huệ phi Long thị (安順惠妃龍氏)
  15. Chiêu Thuận Đức phi Lưu thị (昭順德妃劉氏)
  16. Khang Ý Thuận phi Lý thị (康懿順妃李氏)
  17. Huệ Mục Thuận phi Quách thị (惠穆順妃郭氏)
  18. Trinh Tĩnh Thuận phi Trương thị (貞靜順妃張氏)
  19. Thuận phi Nhậm thị (順妃任氏, 1392 - 1421), người Triều Tiên, tuẫn táng
  20. Chiêu nghi Lý thị (昭儀李氏, 1392 - 1421), người Triều Tiên, tuẫn táng, con gái của Cung An phủ Phán quan Lý Văn Mệnh (李文命)
  21. Tiệp dư Lữ thị (婕妤呂氏, 1393 - 1413), người Triều Tiên, con gái của Hộ quân Lữ Quý Chân (吕贵真)
  22. Vương phi Hoàng thị (王妃黄氏), người Triều Tiên, tuẫn táng
  23. Mỹ nhân Thôi thị (美人崔氏), người Triều Tiên
  24. Cung Vinh mỹ nhân Vương thị (恭榮美人王氏)
  25. Cảnh Huệ mỹ nhân Lô thị (景惠美人盧氏)
  26. Trang Huệ mỹ nhân (莊惠美人)

Hoàng tử

TT Họ tên Tước vị Sinh Mất Mẹ Ghi chú
1 Chu Cao Sí
朱高炽
Nhân Tông Chiêu hoàng đế
仁宗昭皇帝
16 tháng 8, 1378 29 tháng 5, 1425 Nhân Hiếu Văn hoàng hậu Đăng cơ vào năm 1424
2 Chu Cao Hú
朱高煦
Hán vương (sau bị phế)
汉王
30 tháng 12, 1380 6 tháng 10, 1426 Nhân Hiếu Văn hoàng hậu Sinh thời cường tráng anh tuấn, giỏi cung kị, rất được Thành Tổ quý, từng có ý được lập Thái tử
Phát động Cao Hú chi loạn (高煦之亂) nhưng bị thất bại, bị cháu ruột là Minh Tuyên Tông ban giết
3 Chu Cao Toại
朱瞻墉
Triệu Giản vương
趙簡王
19 tháng 1, 1383 5 tháng 10, 1431 Nhân Hiếu Văn hoàng hậu Sinh thời không có gì nổi bật
Tham gia Cao Hú chi loạn nhưng được Tuyên Tông tha bổng
4 Chu Cao Tuấn
朱瞻垠
không có 1392 1392 Khang Mục Ý Cung Huệ phi Chết non

Hoàng nữ

TT Tước vị Sinh Mất Mẹ Phu quân Ghi chú
1 Vĩnh An Công chúa
永安公主
1377 1417 Nhân Hiếu Văn hoàng hậu Quảng Bình hầu Viên Dung (袁容) Tên là Chu Ngọc Anh (朱玉英)
Sinh được 1 trai 3 gái
2 Vĩnh Bình Công chúa
永平公主
1379 22 tháng 4, 1444 Nhân Hiếu Văn hoàng hậu Phú Dương hầu Lý Phượng (李让)
3 An Thành Công chúa
安成公主
1384 16 tháng 9, 1443 Nhân Hiếu Văn hoàng hậu Tống Hổ (宋琥), con trai của Tây Ninh hầu Tống Thịnh (宋晟)
4 Hàm Ninh Công chúa
咸宁公主
1385 27 tháng 7, 1440 Nhân Hiếu Văn hoàng hậu Tống Anh (宋瑛), con trai của Tây Ninh hầu
5 Thường Ninh Công chúa
常宁公主
1387 5 tháng 4, 1408 không rõ Mộc Hân (沐昕), con trai của Tây Bình hầu Mộc Anh (沐英)

Chú thích

  1. ^ Ghi chú chung: Ngày tháng tại đây tính theo lịch Julius. Nó không phải là lịch Gregory đón trước.
  2. ^ a b Được đổi vào đổi tháng 9 năm Gia Tĩnh thứ 17 (1538), thời Minh Thế Tông Chu Hậu Thông.
  3. ^ Theo Minh sử, vào thời Hồng Vũ có hơn 60 người được Minh Thái Tổ phong tước. Trong đó 35 người chết già, 26 người bị Thái Tổ giết. Những người còn sót lại là Cảnh Tinh Văn, Quách Anh và Vu Nguyên.
  4. ^ Chu Đệ, từ ngai vàng đẫm máu đến sở thích giết người, Báo điện tử người đưa tin
  5. ^ Bunyashiri (1379 - 1412) là vua Bắc Nguyên. Ông lên ngôi sau khi cha là Gulichi băng hà, hiệu Bắc Nguyên Thành Tông (1403 - 1412). Thời ông, đạo Hồi phát triển và ông liên minh với các bộ tộc Mông Cổ khác làm thế đối trọng với nhà Mình (Trung Quốc). Ông tiến hành chiến tranh với Nhà Minh, về sau bị Mahmud của Oirat đánh bại và giết chết năm 1412.
  6. ^ 《明太宗实录》卷一三0,永乐二十二年七月壬辰。
  7. ^ 蔡石山著,江政宽译,《永乐大帝:一个中国帝王的精神肖像》,中华书局,2009年11月,ISBN 978-7-101-06977-8,第八章、永乐和蒙古人,第166页
  8. ^ Chữ [碽] có âm đọc là gong, gần với Công, Cống hay Cung.
  9. ^ 朱彝尊说:“中述孝慈高皇后无子,不独长陵为高丽碽妃所出,而懿文太子及秦晋二王,皆李淑妃产也。闻者争以为骇。史局初设,彝尊尝以是质诸总裁前辈,总裁谓宜仍实录之旧。今观天启三年《南京太常寺志》,大书‘孝陵殿宇中,设高皇帝后主,左配生子妃五人,右只碽妃一人’。事足征信。然则实录出于史臣之曲笔,不足从也。”(朱彝尊:《曝书亭集》卷44)
  10. ^ 傅斯年以为,“实为碽妃子,不为高后”,“庚辛帝子一说乃妄人之谈,敌国之语,不足道者也”
  11. ^ 朱希祖在其《明成祖生母记疑辩》反對傅斯年的說法:“若高丽果有过碽氏为太祖妃或成祖母,则高丽史亦必大书特书,载其家世,如元顺帝皇后奇氏矣。且明太祖妃韩氏、明成祖权妃、任顺妃、李昭仪、吕婕妤、崔美人皆能详其家世,独碽妃则高丽及朝鲜史皆无记载。”
  12. ^ 吴晗:《明成祖生母考》
  13. ^ Tức là Cung Thận phu nhân (恭慎夫人)