Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Ba Tri”
Đã lùi lại sửa đổi 57549225 của 153.18.172.62 (thảo luận) Thẻ: Lùi sửa |
Không có tóm lược sửa đổi |
||
Dòng 42: | Dòng 42: | ||
Huyện có diện tích 355 [[kilômét vuông|km²]] và dân số 246.450 người (đông nhất của tỉnh). Mật độ dân số 694 người/[[kilômét vuông|km²]]. Huyện lỵ là [[Ba Tri (thị trấn)|thị trấn Ba Tri]] nằm cách [[bến Tre (thành phố)|thành phố Bến Tre]] khoảng 36[[kilômét|km]] về hướng đông nam. |
Huyện có diện tích 355 [[kilômét vuông|km²]] và dân số 246.450 người (đông nhất của tỉnh). Mật độ dân số 694 người/[[kilômét vuông|km²]]. Huyện lỵ là [[Ba Tri (thị trấn)|thị trấn Ba Tri]] nằm cách [[bến Tre (thành phố)|thành phố Bến Tre]] khoảng 36[[kilômét|km]] về hướng đông nam. |
||
== |
==Hành chính== |
||
⚫ | Huyện Ba Tri có 24 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm thị trấn [[Ba Tri (thị trấn)|Ba Tri]] và 23 xã: [[An Bình Tây]], [[An Đức, Ba Tri|An Đức]], [[An Hiệp, Ba Tri|An Hiệp]], [[An Hòa Tây]], [[An Ngãi Tây]], [[An Ngãi Trung]], [[An Phú Trung]], [[An Thủy, Ba Tri|An Thủy]] (đô thị loại V), [[Bảo Thạnh]], [[Bảo Thuận, Ba Tri|Bảo Thuận]], [[Mỹ Chánh, Ba Tri|Mỹ Chánh]], [[Mỹ Hòa, Ba Tri|Mỹ Hòa]], [[Mỹ Nhơn]], [[Mỹ Thạnh, Ba Tri|Mỹ Thạnh]], [[Phú Lễ]], [[Phú Ngãi]], [[Phước Tuy, Ba Tri|Phước Tuy]], [[Tân Hưng, Ba Tri|Tân Hưng]], [[Tân Mỹ, Ba Tri|Tân Mỹ]], [[Tân Thủy, Ba Tri|Tân Thủy]], [[Tân Xuân, Ba Tri|Tân Xuân]], [[Vĩnh An, Ba Tri|Vĩnh An]], [[Vĩnh Hòa, Ba Tri|Vĩnh Hòa]]. |
||
* 1 thị trấn: [[Ba Tri (thị trấn)|Ba Tri]] (đô thị loại IV) |
|||
⚫ | |||
== Lịch sử == |
== Lịch sử == |
Phiên bản lúc 02:15, ngày 7 tháng 1 năm 2020
Ba Tri
|
|
---|---|
Huyện | |
Huyện Ba Tri | |
Khu lăng mộ Nguyễn Đình Chiểu ở huyện Ba Tri | |
Hành chính | |
Quốc gia | Việt Nam |
Tỉnh | Bến Tre |
Trụ sở UBND | Thị trấn Ba Tri |
Thành lập | 1912 |
Địa lý | |
Diện tích | 354,8 km² |
Dân số (4/2019) | |
Tổng cộng | 184.730 người |
Mật độ | 520 người/km² |
Dân tộc | kinh |
Khác | |
Biển số xe | 71-C2 xxx.xx |
Ba Tri là một huyện của tỉnh Bến Tre, Việt Nam.
Vị trí địa lý
Huyện nằm ở phía cuối cù lao Bảo, có diện tích 354,8 km²
- Phía đông bắc giáp huyện Bình Đại, có ranh giới tự nhiên là sông Ba Lai
- Phía tây bắc giáp huyện Giồng Trôm
- Phía tây nam giáp huyện Thạnh Phú, có ranh giới tự nhiên là sông Hàm Luông
- Phía đông nam giáp với Biển Đông (chiều dài bờ biển gần 10 km)
Do vị trí nằm giữa hai cửa sông lớn, huyện Ba Tri là điểm định cư sớm nhất của những lưu dân người Việt trên đất Bến Tre. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, huyện Ba Tri gồm có 22 xã và 1 thị trấn.[1]
Diện tích, dân cư, giao thông
Huyện có diện tích 355 km² và dân số 246.450 người (đông nhất của tỉnh). Mật độ dân số 694 người/km². Huyện lỵ là thị trấn Ba Tri nằm cách thành phố Bến Tre khoảng 36km về hướng đông nam.
Hành chính
Huyện Ba Tri có 24 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm thị trấn Ba Tri và 23 xã: An Bình Tây, An Đức, An Hiệp, An Hòa Tây, An Ngãi Tây, An Ngãi Trung, An Phú Trung, An Thủy (đô thị loại V), Bảo Thạnh, Bảo Thuận, Mỹ Chánh, Mỹ Hòa, Mỹ Nhơn, Mỹ Thạnh, Phú Lễ, Phú Ngãi, Phước Tuy, Tân Hưng, Tân Mỹ, Tân Thủy, Tân Xuân, Vĩnh An, Vĩnh Hòa.
Lịch sử
Vào cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII, vùng đất Ba Tri vẫn còn hoang vắng. Đầu thế kỷ XVIII, một số cư dân người Việt gốc miền Trung đã đến đây định cư, làm nghề biển và khai phá đất đai.
Ban đầu, cù lao Bảo thuộc tổng Tân An, châu Định Viễn, dinh Phiên Trấn. Thời Gia Long, cù lao Bảo được đặt là tổng An Bảo. Năm 1808, tổng An Bảo gồm 63 làng. Đến triều Minh Mạng (1832), tổng An Bảo được thăng lên huyện với tên mới là Bảo An. Đến năm 1837, huyện Bảo An được chia thành hai huyện: Bảo An và Bảo Hựu. Huyện Bảo An (mới) nằm ở phía Đông cù lao Bảo, có diện tích gần tương đương với huyện Ba Tri ngày nay.
Đầu thời Pháp thuộc, Ba Tri là đại lý hành chính ở tỉnh Bến Tre. Sau là xã ở tổng Ba Tri, huyện Kiến Hòa, tỉnh Gia Định. Năm 1912, Ba Tri là quận của tỉnh Bến Tre, gồm có 5 tổng là: Bảo An với 4 làng, Bảo Lộc với 6 làng, Bảo Thuận với 6 làng, Bảo Trị với 5 làng.
Sau năm 1956, quận Ba Tri thuộc tỉnh Kiến Hòa, gồm 3 tổng và 15 xã. Ngày 2 tháng 7 năm 1967, quận Ba Tri nhận thêm xã An Ngãi Tây tách ra từ quận Giồng Trôm.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, Ba Tri là huyện của tỉnh Bến Tre, gồm thị trấn Ba Tri và 17 xã: An Bình Tây, An Đức, An Hiệp, An Hòa Tây, An Ngãi Tây, An Ngãi Trung, Bảo Thạnh, Mỹ Chánh Hòa, Mỹ Nhơn, Mỹ Thạnh, Phú Lễ, Phú Ngãi, Phước Tuy, Tân Hưng, Tân Thủy, Tân Xuân, Vĩnh Hòa.
Ngày 14 tháng 3 năm 1984, chia xã Tân Thủy thành hai xã lấy tên là xã Tân Thủy và xã An Thủy.
Ngày 16 tháng 4 năm 1985, địa giới hành chính huyện Ba Tri có một số điều chỉnh như sau:
- Chia xã Bảo Thạnh thành hai xã lấy tên là xã Bảo Thuận và xã Bảo Thạnh.
- Chia xã Mỹ Chánh Hòa thành hai xã lấy tên là xã Mỹ Chánh và xã Mỹ Hòa.
- Chia xã An Ngãi Trung thành hai xã lấy tên là xã An Ngãi Trung và An Phú Trung.
- Thành lập xã Vĩnh An trên cơ sở tách ấp Vĩnh Đức Trung của xã Vĩnh Hòa và các ấp An Nhơn, An Quới của xã An Hòa Tây.
Ngày 18 tháng 10 năm 2000, xã Tân Mỹ được thành lập trên cơ sở 1.064,58 ha diện tích tự nhiên và 2.675 nhân khẩu của xã Mỹ Hòa, 171,09 ha diện tích tự nhiên và 1.693 nhân khẩu của xã Tân Xuân.
Cuối năm 2004, huyện Ba Tri có 1 thị trấn Ba Tri và 23 xã: Tân Mỹ, Mỹ Hòa, Mỹ Chánh, Mỹ Thạnh, An Phú Trung, An Ngãi Trung, Tân Hưng, An Ngãi Tây, An Hiệp, An Bình Tây, Mỹ Nhơn, Tân Xuân, Phước Tuy, Bảo Thạnh, Phú Ngãi, Phú Lễ, An Đức, Vĩnh An, An Hòa Tây, Vĩnh Hòa, Bảo Thuận, Tân Thủy, An Thủy. Năm 2020, thị trấn Ba Tri phát triển thành thị xã Đồ Chiểu. Dự kiến sau năm 2030, xã Phú Ngãi sẽ được sáp nhập vào xã Phước Tuy.
Nhân vật
Thị Trấn Ba Tri là nơi an nghỉ cuối cùng của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu. Xã Bảo Thạnh là quê hương của Phan Thanh Giản (vị Tiến sĩ đầu tiên của Nam Kỳ), đồng thời còn là nơi an nghỉ của xử sĩ Võ Trường Toản.
Cũng tại nơi đây, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã sáng tác và đã đọc bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc trước đông đảo quần chúng nhân dân.[1]. Ngoài ra không thể không nhắc tới Thái Hữu Kiểm, người mang theo câu chuyện ông già Ba Tri trong dân gian.
Chú thích
Liên kết ngoài
Tra ba tri trong từ điển mở tiếng Việt Wiktionary |