Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Taylor Swift”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 54: Dòng 54:
}}
}}


'''Taylor Alison Swift''' (sinh ngày [[13 tháng 12]] năm [[1989]]) là nữ [[ca sĩ kiêm sáng tác nhạc]] [[người Mỹ]]. Sinh ra và lớn lên tại [[Wyomissing, Pennsylvania]], cô dời đến [[Nashville, Tennessee|Nashville]] năm 14 tuổi để theo đuổi sự nghiệp [[nhạc đồng quê|âm nhạc đồng quê]]. Cô ký kết một hợp đồng cùng hãng thu âm độc lập [[Big Machine Records]] và trở thành nhạc sĩ trẻ tuổi nhất từng hợp tác với [[Sony/ATV Music Publishing]]. Vào năm 2006, Swift phát hành [[Taylor Swift (album)|album đầu tay cùng tên]] với đĩa đơn "[[Our Song (bài hát)|Our Song]]" giúp cô là nghệ sĩ tự sáng tác trẻ tuổi nhất có bài hát đạt quán quân bảng xếp hạng Hot Country Songs. Album thứ hai của Swift là [[Fearless (album của Taylor Swift)|Fearless]] đã được ra mắt năm 2008.
'''Taylor Alison Swift''' (sinh ngày [[13 tháng 12]] năm [[1989]]) là nữ [[ca sĩ kiêm sáng tác nhạc]] [[người Mỹ]]. Sinh ra và lớn lên tại [[Wyomissing, Pennsylvania]], cô dời đến [[Nashville, Tennessee|Nashville]] năm 14 tuổi để theo đuổi sự nghiệp [[nhạc đồng quê|âm nhạc đồng quê]]. Cô ký kết một hợp đồng cùng hãng thu âm độc lập [[Big Machine Records]] và trở thành nhạc sĩ trẻ tuổi nhất từng hợp tác với [[Sony/ATV Music Publishing]]. Vào năm 2006, Taylor phát hành [[Taylor Swift (album)|album đầu tay cùng tên]] với đĩa đơn "[[Our Song (bài hát)|Our Song]]" giúp cô là nghệ sĩ tự sáng tác trẻ tuổi nhất có bài hát đạt quán quân bảng xếp hạng Hot Country Songs. Album thứ hai của Taylor là [[Fearless (album của Taylor Swift)|Fearless]] đã được ra mắt năm 2008.


Album phòng thu thứ hai của Swift, ''[[Fearless (album của Taylor Swift)|Fearless]]'' ([[2008]]), mang về thành công cùng các đĩa đơn "[[Love Story (bài hát của Taylor Swift)|Love Story]]" và "[[You Belong with Me]]", trở thành album bán chạy nhất năm 2009 tại Hoa Kỳ. ''[[Fearless (album của Taylor Swift)|Fearless]]'' giành 4 [[giải Grammy]] và giúp Swift là nghệ sĩ trẻ nhất đoạt giải "[[Giải Grammy cho Album của năm|Album của năm]]". Cô tự sáng tác toàn bộ các bài hát trong album ''[[Speak Now]]'' (2010) và phát hành ''[[Red (album của Taylor Swift)|Red]]'' (2012) cùng hai đĩa đơn đạt thành công trên toàn cầu, "[[We Are Never Ever Getting Back Together]]" và "[[I Knew You Were Trouble]]". Album phòng thu thứ 5, ''[[1989 (album của Taylor Swift)|1989]]'' (2014) mang thể loại [[pop]] chủ đạo, giúp Swift trở thành nghệ sĩ đầu tiên có 3 album bán hơn 1 triệu bản trong tuần đầu và lần thứ 2 đoạt giải Grammy cho "Album của năm". Các đĩa đơn "[[Shake It Off (bài hát của Taylor Swift)|Shake It Off]]", "[[Blank Space]]" và "[[Bad Blood (bài hát của Taylor Swift)|Bad Blood]]" đều dẫn đầu [[Billboard Hot 100|''Billboard'' Hot 100]]. [[The 1989 World Tour|Chuyến lưu diễn cùng tên]] năm 2015 lọt vào danh sách doanh thu cao nhất thập niên. Ngày [[27 tháng 8]] năm [[2017]], [[Video âm nhạc|MV]] "[[Look What You Made Me Do]]" đã trở thành video ca nhạc có lượt xem trong ngày đầu phát hành cao nhất thế giới vào thời điểm bấy giờ với 43.2 triệu lượt xem. Vào ngày 26 tháng 4 năm 2019, MV "ME!" trở thành MV có lượt xem cao nhất thế giới trong ngày đầu phát hành đối với một nữ nghệ sĩ và một nghệ sĩ solo với 65,2 triệu lượt xem.
Album phòng thu thứ hai của Taylor, ''[[Fearless (album của Taylor Swift)|Fearless]]'' ([[2008]]), mang về thành công cùng các đĩa đơn "[[Love Story (bài hát của Taylor Swift)|Love Story]]" và "[[You Belong with Me]]", trở thành album bán chạy nhất năm 2009 tại Hoa Kỳ. ''[[Fearless (album của Taylor Swift)|Fearless]]'' giành 4 [[giải Grammy]] và giúp Taylor là nghệ sĩ trẻ nhất đoạt giải "[[Giải Grammy cho Album của năm|Album của năm]]" (Sau này là [[Billie Eilish|Billie Ellish]] với [[When We All Fall Asleep, Where Do We Go?|when we all fall asleep, where do we go?]]). Cô tự sáng tác toàn bộ các bài hát trong album ''[[Speak Now]]'' (2010) và phát hành ''[[Red (album của Taylor Swift)|Red]]'' (2012) cùng hai đĩa đơn đạt thành công trên toàn cầu, "[[We Are Never Ever Getting Back Together]]" và "[[I Knew You Were Trouble]]". Album phòng thu thứ 5, ''[[1989 (album của Taylor Swift)|1989]]'' (2014) mang thể loại [[pop]] chủ đạo, giúp Taylor trở thành nghệ sĩ đầu tiên có 3 album bán hơn 1 triệu bản trong tuần đầu và lần thứ 2 đoạt giải Grammy cho "Album của năm". Các đĩa đơn "[[Shake It Off (bài hát của Taylor Swift)|Shake It Off]]", "[[Blank Space]]" và "[[Bad Blood (bài hát của Taylor Swift)|Bad Blood]]" đều dẫn đầu [[Billboard Hot 100|''Billboard'' Hot 100]]. [[The 1989 World Tour|Chuyến lưu diễn cùng tên]] năm 2015 lọt vào danh sách doanh thu cao nhất thập niên. Ngày [[27 tháng 8]] năm [[2017]], [[Video âm nhạc|MV]] "[[Look What You Made Me Do]]" đã trở thành video ca nhạc có lượt xem trong ngày đầu phát hành cao nhất thế giới vào thời điểm bấy giờ với 43.2 triệu lượt xem. Vào ngày 26 tháng 4 năm 2019, MV "ME!" trở thành MV có lượt xem cao nhất thế giới trong ngày đầu phát hành đối với một nữ nghệ sĩ và một nghệ sĩ solo với 65,2 triệu lượt xem.


Swift nổi tiếng vì những bài hát tường thuật lại trải nghiệm cá nhân, thu hút nhiều sự quan tâm của công chúng. Ở vai trò [[nhạc sĩ]], cô từng được [[Danh sách giải thưởng và đề cử của Taylor Swift|vinh danh]] bởi [[Nashville Songwriters Association International|Hiệp hội tác giả Nashville]] và [[Đại sảnh Danh vọng Sáng tác]]. Các thành tựu khác của Swift bao gồm 10 giải [[Giải Grammy|Grammy]], 6 [[Sách Kỷ lục Guinness|kỷ lục Guinness thế giới]], 1 [[giải Emmy]], 23 [[giải thưởng Âm nhạc Billboard|giải thưởng Âm nhạc ''Billboard'']], 11 giải thưởng [[Country Music Association Awards|Hiệp hội nhạc đồng quê]], 8 giải [[Academy of Country Music Awards|Viện hàn lâm nhạc Đồng quê]] và 1 [[giải Brit]]. Cô là một trong những [[Danh sách nghệ sĩ âm nhạc bán đĩa nhạc chạy nhất|nghệ sĩ bán đĩa chạy nhất mọi thời đại]], với hơn 40 triệu album—bao gồm 32,7 triệu bản tại [[Hoa Kỳ]]—và 130 triệu đĩa đơn kỹ thuật số đã được tiêu thụ. Cô xuất hiện trong [[Time 100|danh sách 100 người gây ảnh hưởng nhất thế giới]] của tạp chí ''[[Time (tạp chí)|Time]]'' (2010 và 2015); những người [[phụ nữ]] bội thu trong [[âm nhạc]] (2011–15), 100 người phụ nữ quyền lực nhất (2015) và [[Forbes Celebrity 100|Celebrity 100]] (2016) của tạp chí ''[[Forbes]]''. Cô còn tham gia trong loạt phim truyền hình ''[[CSI: Crime Scene Investigation]]'' và chương trình đêm khuya ''[[Saturday Night Live]]'' trong năm 2009, cùng bộ phim ''[[Valentine's Day (phim 2010)|Valentine's Day]]'' (2010). Cô có quan hệ mật thiết với [[Mariska Hargitay]] (người đóng vai [[thám tử]] Olivia Benson trong series yêu thích của Taylor "Law & Order").
Taylor nổi tiếng vì những bài hát tường thuật lại trải nghiệm cá nhân, thu hút nhiều sự quan tâm của công chúng. Ở vai trò [[nhạc sĩ]], cô từng được [[Danh sách giải thưởng và đề cử của Taylor Swift|vinh danh]] bởi [[Nashville Songwriters Association International|Hiệp hội tác giả Nashville]] và [[Đại sảnh Danh vọng Sáng tác]]. Các thành tựu khác của Taylor bao gồm 10 giải [[Giải Grammy|Grammy]], 6 [[Sách Kỷ lục Guinness|kỷ lục Guinness thế giới]], 1 [[giải Emmy]], 23 [[giải thưởng Âm nhạc Billboard|giải thưởng Âm nhạc ''Billboard'']], 11 giải thưởng [[Country Music Association Awards|Hiệp hội nhạc đồng quê]], 8 giải [[Academy of Country Music Awards|Viện hàn lâm nhạc Đồng quê]] và 1 [[giải Brit]]. Cô là một trong những [[Danh sách nghệ sĩ âm nhạc bán đĩa nhạc chạy nhất|nghệ sĩ bán đĩa chạy nhất mọi thời đại]], với hơn 40 triệu album—bao gồm 32,7 triệu bản tại [[Hoa Kỳ]]—và 130 triệu đĩa đơn kỹ thuật số đã được tiêu thụ. Cô xuất hiện trong [[Time 100|danh sách 100 người gây ảnh hưởng nhất thế giới]] của tạp chí ''[[Time (tạp chí)|Time]]'' (2010 và 2015); những người [[phụ nữ]] bội thu trong [[âm nhạc]] (2011–15), 100 người phụ nữ quyền lực nhất (2015) và [[Forbes Celebrity 100|Celebrity 100]] (2016) của tạp chí ''[[Forbes]]''. Cô còn tham gia trong loạt phim truyền hình ''[[CSI: Crime Scene Investigation]]'' và chương trình đêm khuya ''[[Saturday Night Live]]'' trong năm 2009, cùng bộ phim ''[[Valentine's Day (phim 2010)|Valentine's Day]]'' (2010). Cô có quan hệ mật thiết với [[Mariska Hargitay]] (người đóng vai [[thám tử]] Olivia Benson trong series yêu thích của Taylor "Law & Order").


== Cuộc đời và sự nghiệp ==
== Cuộc đời và sự nghiệp ==
===1989–2003: Thời thơ ấu===
===1989–2003: Thời thơ ấu===
Taylor Swift sinh ngày 13 tháng 12 năm 1989 tại [[Reading, Pennsylvania]].<ref name=biographydotcom>{{Chú thích web|url = http://www.biography.com/people/taylor-swift-369608|tiêu đề= Taylor Swift Biography: Singer (1989–)| nhà xuất bản=[[FYI (TV channel)|FYI]]|ngày truy cập= April 9, 2015 | url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20160830131709/http://www.biography.com/people/taylor-swift-369608 | ngày lưu trữ=August 30, 2016 |url hỏng=no}}</ref> Cha cô là [[Scott Kingsley Swift]], làm nghề môi giới chứng khoán và mẹ cô là Andrea Gardner (Finlay) Swift, làm nội trợ, từng là giám đốc tài chính cho [[Quỹ đầu tư mở|quỹ hỗ trợ]].<ref name=":5">{{cite book|url=https://books.google.com/books?id=WdEXCwAAQBAJ&pg=PA1|title=Taylor Swift|last=Jepson|first=Louisa|publisher=Simon and Schuster|year=2013|isbn=978-1-4711-3087-8|page=1|accessdate=August 16, 2016}}</ref> Swift còn có một người em trai tên là Austin.<ref>{{cite news|url=http://www.mtv.com/news/2164771/austin-swift-epic-graduation-weekend/|title=Taylor Swift's Brother Had The Most Epic Graduation Weekend Ever|publisher=[[MTV News]]|accessdate=July 25, 2016|date=May 19, 2015|first=Madeline|last=Roth}}</ref> Swift có một thời gian sống tại đồn điền cây thông Giáng sinh ở [[Cumru Township, Berks County, Pennsylvania|Cumru Township, Pennsylvania]].<ref>{{Chú thích web|họ 1=Raab |tên 1=Scott |url=http://www.esquire.com/entertainment/music/a30491/taylor-swift-1114/ |tiêu đề=Taylor Swift Interview |work=[[Esquire (magazine)|Esquire]]|ngày tháng=October 20, 2014 |ngày truy cập=April 11, 2015}}</ref> Cô bắt đầu đi nhà trẻ tại Trường Alvernia [[Montessori]] do những nữ tu sĩ [[Franciscan|dòng Fran-xít]] điều hành,<ref>{{cite news |url=http://readingeagle.com/articlephotos.aspx?id=195866 |title=Photos Students at Alvernia Montessori School sending Taylor Swift a valentine |work=[[Reading Eagle]] |date=February 13, 2010 |accessdate=February 25, 2013}}</ref> sau đó vào học [[The Wyndcroft School|Trường tư Wyndcroft]].<ref name="readingeagle1">{{cite news |last=Hatza |first=George |url=http://readingeagle.com/article.aspx?id=116460 |title=Taylor Swift: Growing into superstardom |work=Reading Eagle |date=December 8, 2008 |accessdate=April 17, 2012}}</ref> Cả gia đình cô sau đó chuyển đến khu ngoại ô [[Wyomissing, Pennsylvania]],<ref>{{Chú thích web|họ 1=Mennen|tên 1=Lauren|url=http://www.philly.com/philly/business/real_estate/Taylor_Swifts_Wyomissing_childhood_home_on_the_market_for_799500.html |tiêu đề=Taylor Swift's Wyomissing childhood home on the market for $799,500 |work=Philadelphia Daily News |ngày truy cập=October 13, 2016|ngày tháng=November 12, 2014}}</ref> nơi cô theo học [[Trường Trung học Cơ sở/ Phổ thông Vùng Wyomissing]].<ref>{{cite news | url=http://www.nbcphiladelphia.com/news/local/Taylor-Swift-Wedding-Berks-County-Reading-Pennsylvania-369611241.html | title=Taylor Swift Returns to Reading Pennsylvania as Maid of Honor in Friend's Wedding | date=February 22, 2016 | accessdate=August 26, 2016 | publisher=[[WCAU]]}}</ref>
Taylor Swift sinh ngày 13 tháng 12 năm 1989 tại [[Reading, Pennsylvania]].<ref name=biographydotcom>{{Chú thích web|url = http://www.biography.com/people/taylor-swift-369608|tiêu đề= Taylor Swift Biography: Singer (1989–)| nhà xuất bản=[[FYI (TV channel)|FYI]]|ngày truy cập= April 9, 2015 | url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20160830131709/http://www.biography.com/people/taylor-swift-369608 | ngày lưu trữ=August 30, 2016 |url hỏng=no}}</ref> Cha cô là [[Scott Kingsley Swift|Scott Kingsley Taylor]], làm nghề môi giới chứng khoán và mẹ cô là Andrea Gardner (Finlay) Taylor, làm nội trợ, từng là giám đốc tài chính cho [[Quỹ đầu tư mở|quỹ hỗ trợ]].<ref name=":5">{{cite book|url=https://books.google.com/books?id=WdEXCwAAQBAJ&pg=PA1|title=Taylor Swift|last=Jepson|first=Louisa|publisher=Simon and Schuster|year=2013|isbn=978-1-4711-3087-8|page=1|accessdate=August 16, 2016}}</ref> Taylor còn có một người em trai tên là Austin.<ref>{{cite news|url=http://www.mtv.com/news/2164771/austin-swift-epic-graduation-weekend/|title=Taylor Swift's Brother Had The Most Epic Graduation Weekend Ever|publisher=[[MTV News]]|accessdate=July 25, 2016|date=May 19, 2015|first=Madeline|last=Roth}}</ref> Taylor có một thời gian sống tại đồn điền cây thông Giáng sinh ở [[Cumru Township, Berks County, Pennsylvania|Cumru Township, Pennsylvania]].<ref>{{Chú thích web|họ 1=Raab |tên 1=Scott |url=http://www.esquire.com/entertainment/music/a30491/taylor-swift-1114/ |tiêu đề=Taylor Swift Interview |work=[[Esquire (magazine)|Esquire]]|ngày tháng=October 20, 2014 |ngày truy cập=April 11, 2015}}</ref> Cô bắt đầu đi nhà trẻ tại Trường Alvernia [[Montessori]] do những nữ tu sĩ [[Franciscan|dòng Fran-xít]] điều hành,<ref>{{cite news |url=http://readingeagle.com/articlephotos.aspx?id=195866 |title=Photos Students at Alvernia Montessori School sending Taylor Swift a valentine |work=[[Reading Eagle]] |date=February 13, 2010 |accessdate=February 25, 2013}}</ref> sau đó vào học [[The Wyndcroft School|Trường tư Wyndcroft]].<ref name="readingeagle1">{{cite news |last=Hatza |first=George |url=http://readingeagle.com/article.aspx?id=116460 |title=Taylor Swift: Growing into superstardom |work=Reading Eagle |date=December 8, 2008 |accessdate=April 17, 2012}}</ref> Cả gia đình cô sau đó chuyển đến khu ngoại ô [[Wyomissing, Pennsylvania]],<ref>{{Chú thích web|họ 1=Mennen|tên 1=Lauren|url=http://www.philly.com/philly/business/real_estate/Taylor_Swifts_Wyomissing_childhood_home_on_the_market_for_799500.html |tiêu đề=Taylor Swift's Wyomissing childhood home on the market for $799,500 |work=Philadelphia Daily News |ngày truy cập=October 13, 2016|ngày tháng=November 12, 2014}}</ref> nơi cô theo học [[Trường Trung học Cơ sở/ Phổ thông Vùng Wyomissing]].<ref>{{cite news | url=http://www.nbcphiladelphia.com/news/local/Taylor-Swift-Wedding-Berks-County-Reading-Pennsylvania-369611241.html | title=Taylor Swift Returns to Reading Pennsylvania as Maid of Honor in Friend's Wedding | date=February 22, 2016 | accessdate=August 26, 2016 | publisher=[[WCAU]]}}</ref>


Năm lên 9, Swift trở nên thích thú trước sân khấu kịch nghệ và trình bày trong 4 chương trình của Học viện sân khấu Berks Youth.<ref>{{cite news|title=Taylor Swift, Age 12|url=http://www.nydailynews.com/entertainment/photographer-reveals-rare-photos-taylor-swift-international-star-gallery-1.2072369?pmSlide=1.2072339|accessdate=August 26, 2016|work=[[New York Daily News]]}}</ref> Cô cũng thường xuyên đến thành phố New York để tham gia lớp luyện giọng và diễn xuất.<ref>{{Chú thích web|họ 1=Cooper|tên 1=Brittany Joy|url=http://tasteofcountry.com/taylor-swift-acting-emma-stone/ |tiêu đề=Taylor Swift Opens Up About a Future in Acting and Admiration for Emma Stone |nhà xuất bản=Taste of Country |ngày tháng=April 15, 2012 |ngày truy cập=April 17, 2012}}</ref> Swift sau đó bộc lộ đam mê đến dòng nhạc đồng quê bởi những bài hát của [[Shania Twain]] cứ khiến cô "muốn chạy nhảy quanh khu phố và mơ mộng về mọi thứ".<ref name="pretty lies">{{cite news |url=https://www.theguardian.com/music/2012/oct/18/taylor-swift-want-believe-pretty-lies|work=[[The Guardian]] |first=Alex |last=MacPherson |title=Taylor Swift: 'I want to believe in pretty lies' |date=October 18, 2012|accessdate=August 3, 2016}}</ref> Cô dành thời gian cuối tuần để trình diễn tại hội chợ địa phương và các sự kiện khác.<ref name="Rolling Stone 2008-12-08">{{chú thích báo|work=[[Rolling Stone]]|title=Interview: The Unabridged Taylor Swift|date=December 2, 2008}}</ref><ref name="albuminfo">{{Chú thích web |url=http://www.cmt.com/news/1546980/when-she-thinks-tim-mcgraw-taylor-swift-savors-payoff/ |tiêu đề=When She Thinks 'Tim McGraw', Taylor Swift Savors Payoff: Hardworking Teen to Open for George Strait Next Year |ngày tháng=December 1, 2006 |tên 1=Edward |họ 1=Morris |nhà xuất bản=[[CMT (U.S. TV channel)|CMT]] |ngày truy cập=March 11, 2010}}</ref> Sau khi xem một đoạn phim tư liệu về [[Faith Hill]], Swift quyết định đến [[Nashville, Tennessee]] để theo đuổi sự nghiệp âm nhạc.<ref name="telegraph1">{{cite news |last=Diu|first=Nisha Lilia|url=http://www.telegraph.co.uk/culture/music/8421110/Taylor-Swift-interview-I-wont-do-sexy-shoots.html |title=Taylor Swift: 'I won't do sexy shoots' |work=[[The Daily Telegraph]] |date=April 3, 2011 |accessdate=April 17, 2012 |location=London}}</ref> Năm 11 tuổi, cô cùng mẹ đến Nashville để gửi băng thu thử đến các hãng thu âm, bao gồm các bản trình diễn karaoke bài hát của [[Dolly Parton]] và [[Dixie Chicks]].<ref name="CMT 2008-11-26">{{Chú thích web |url=http://www.cmt.com/news/1600309/cmt-insider-interview-taylor-swift-part-1-of-2/|tiêu đề=News: CMT Insider Interview: Taylor Swift (Part 1 of 2) |nhà xuất bản=CMT |ngày tháng=November 26, 2008 |ngày truy cập=July 1, 2012}}</ref> Sau khi bị nhiều nơi từ chối, cô nhận ra "mọi người ở đó đều có mục tiêu giống như tôi. Thế nên, tôi tự hỏi chính mình, tôi cần phải nghĩ ra một hướng đi khác biệt".<ref name="americansongwriter2">{{cite news|url=http://www.americansongwriter.com/2011/05/taylor-swift-the-garden-in-the-machine/ |title=Taylor Swift: The Garden In The Machine |work=[[American Songwriter]] |date=May 2, 2011 |accessdate=May 21, 2012}}</ref>
Năm lên 9, Taylor trở nên thích thú trước sân khấu kịch nghệ và trình bày trong 4 chương trình của Học viện sân khấu Berks Youth.<ref>{{cite news|title=Taylor Swift, Age 12|url=http://www.nydailynews.com/entertainment/photographer-reveals-rare-photos-taylor-swift-international-star-gallery-1.2072369?pmSlide=1.2072339|accessdate=August 26, 2016|work=[[New York Daily News]]}}</ref> Cô cũng thường xuyên đến thành phố New York để tham gia lớp luyện giọng và diễn xuất.<ref>{{Chú thích web|họ 1=Cooper|tên 1=Brittany Joy|url=http://tasteofcountry.com/taylor-swift-acting-emma-stone/ |tiêu đề=Taylor Swift Opens Up About a Future in Acting and Admiration for Emma Stone |nhà xuất bản=Taste of Country |ngày tháng=April 15, 2012 |ngày truy cập=April 17, 2012}}</ref> Taylor sau đó bộc lộ đam mê đến dòng nhạc đồng quê bởi những bài hát của [[Shania Twain]] cứ khiến cô "muốn chạy nhảy quanh khu phố và mơ mộng về mọi thứ".<ref name="pretty lies">{{cite news |url=https://www.theguardian.com/music/2012/oct/18/taylor-swift-want-believe-pretty-lies|work=[[The Guardian]] |first=Alex |last=MacPherson |title=Taylor Swift: 'I want to believe in pretty lies' |date=October 18, 2012|accessdate=August 3, 2016}}</ref> Cô dành thời gian cuối tuần để trình diễn tại hội chợ địa phương và các sự kiện khác.<ref name="Rolling Stone 2008-12-08">{{chú thích báo|work=[[Rolling Stone]]|title=Interview: The Unabridged Taylor Swift|date=December 2, 2008}}</ref><ref name="albuminfo">{{Chú thích web |url=http://www.cmt.com/news/1546980/when-she-thinks-tim-mcgraw-taylor-swift-savors-payoff/ |tiêu đề=When She Thinks 'Tim McGraw', Taylor Swift Savors Payoff: Hardworking Teen to Open for George Strait Next Year |ngày tháng=December 1, 2006 |tên 1=Edward |họ 1=Morris |nhà xuất bản=[[CMT (U.S. TV channel)|CMT]] |ngày truy cập=March 11, 2010}}</ref> Sau khi xem một đoạn phim tư liệu về [[Faith Hill]], Taylor quyết định đến [[Nashville, Tennessee]] để theo đuổi sự nghiệp âm nhạc.<ref name="telegraph1">{{cite news |last=Diu|first=Nisha Lilia|url=http://www.telegraph.co.uk/culture/music/8421110/Taylor-Swift-interview-I-wont-do-sexy-shoots.html |title=Taylor Swift: 'I won't do sexy shoots' |work=[[The Daily Telegraph]] |date=April 3, 2011 |accessdate=April 17, 2012 |location=London}}</ref> Năm 11 tuổi, cô cùng mẹ đến Nashville để gửi băng thu thử đến các hãng thu âm, bao gồm các bản trình diễn karaoke bài hát của [[Dolly Parton]] và [[Dixie Chicks]].<ref name="CMT 2008-11-26">{{Chú thích web |url=http://www.cmt.com/news/1600309/cmt-insider-interview-taylor-swift-part-1-of-2/|tiêu đề=News: CMT Insider Interview: Taylor Swift (Part 1 of 2) |nhà xuất bản=CMT |ngày tháng=November 26, 2008 |ngày truy cập=July 1, 2012}}</ref> Sau khi bị nhiều nơi từ chối, cô nhận ra "mọi người ở đó đều có mục tiêu giống như tôi. Thế nên, tôi tự hỏi chính mình, tôi cần phải nghĩ ra một hướng đi khác biệt".<ref name="americansongwriter2">{{cite news|url=http://www.americansongwriter.com/2011/05/taylor-swift-the-garden-in-the-machine/ |title=Taylor Swift: The Garden In The Machine |work=[[American Songwriter]] |date=May 2, 2011 |accessdate=May 21, 2012}}</ref>


Khi Swift 12 tuổi, một người thợ máy tính đã dạy cô chơi 3 hợp âm đàn guitar, giúp cô sáng tác nên bài hát đầu tiên "Lucky You".<ref>{{cite news|last1=Martino|first1=Andy|url=http://www.nydailynews.com/entertainment/music/computer-tech-taught-taylor-swift-guitar-exclusive-article-1.2072638 |title=Exclusive: The real story of Taylor Swift's guitar 'legend' |work=[[Daily News (New York)|Daily News]]|location=New York |date=January 10, 2015 |accessdate=November 10, 2015}}</ref> Vào năm 2003, Swift và cha mẹ cô bắt đầu hợp tác cùng nhà quản lý âm nhạc Dan Dymtrow. Với sự hỗ trợ của Dymtrow, Swift làm người mẫu cho hãng [[Abercrombie & Fitch]] trong chiến dịch "Rising Stars", có một bài hát gốc xuất hiện trong CD tổng hợp của nhãn hàng [[Maybelline]] và tham gia nhiều cuộc họp cùng các hãng thu âm lớn.<ref name="americanbar">{{Chú thích web |tiêu đề=americanbar.org PDF |url=http://www.americanbar.org/content/dam/aba/migrated/Forums/entsports/PublicDocuments/oppositionbrief.authcheckdam.PDF |ngày truy cập=April 18, 2012|nhà xuất bản=Americanbar.org}}</ref> Sau khi trình bày nhiều bài hát tự sáng tác cho [[RCA Records]], hãng quyết định giữ cô trong một thỏa thuận phát triển nghệ sĩ và Swift bắt đầu thực hiện nhiều chuyến đi đến Nashville cùng mẹ.<ref>{{Chú thích web |url=http://www.nbcnews.com/id/31032270/ns/dateline_nbc-newsmakers/t/tour-taylor-swift/ |tiêu đề=On tour with Taylor Swift – Dateline NBC |nhà xuất bản=[[MSNBC]] |ngày tháng=May 31, 2009 |ngày truy cập=July 1, 2012}}</ref><ref name="Monsueto Ventures">{{cite magazine|last1=Castro |first1=Vicky |title=How to Succeed as an Entrepreneur, Taylor Swift Style |url=http://www.inc.com/vicky-castro/how-to-succeed-as-an-entrepreneur-taylor-swift-style.html |magazine=[[Inc. (magazine)|Inc.]] |publisher=Monsueto Ventures |archiveurl=http://www.webcitation.org/6klgx4ZPE|archivedate=September 24, 2016|accessdate=February 9, 2015 |date=February 6, 2015}}</ref>
Khi Taylor 12 tuổi, một người thợ máy tính đã dạy cô chơi 3 hợp âm đàn guitar, giúp cô sáng tác nên bài hát đầu tiên "Lucky You".<ref>{{cite news|last1=Martino|first1=Andy|url=http://www.nydailynews.com/entertainment/music/computer-tech-taught-taylor-swift-guitar-exclusive-article-1.2072638 |title=Exclusive: The real story of Taylor Swift's guitar 'legend' |work=[[Daily News (New York)|Daily News]]|location=New York |date=January 10, 2015 |accessdate=November 10, 2015}}</ref> Vào năm 2003, Taylor và cha mẹ cô bắt đầu hợp tác cùng nhà quản lý âm nhạc Dan Dymtrow. Với sự hỗ trợ của Dymtrow, Taylor làm người mẫu cho hãng [[Abercrombie & Fitch]] trong chiến dịch "Rising Stars", có một bài hát gốc xuất hiện trong CD tổng hợp của nhãn hàng [[Maybelline]] và tham gia nhiều cuộc họp cùng các hãng thu âm lớn.<ref name="americanbar">{{Chú thích web |tiêu đề=americanbar.org PDF |url=http://www.americanbar.org/content/dam/aba/migrated/Forums/entsports/PublicDocuments/oppositionbrief.authcheckdam.PDF |ngày truy cập=April 18, 2012|nhà xuất bản=Americanbar.org}}</ref> Sau khi trình bày nhiều bài hát tự sáng tác cho [[RCA Records]], hãng quyết định giữ cô trong một thỏa thuận phát triển nghệ sĩ và Taylor bắt đầu thực hiện nhiều chuyến đi đến Nashville cùng mẹ.<ref>{{Chú thích web |url=http://www.nbcnews.com/id/31032270/ns/dateline_nbc-newsmakers/t/tour-taylor-swift/ |tiêu đề=On tour with Taylor Swift – Dateline NBC |nhà xuất bản=[[MSNBC]] |ngày tháng=May 31, 2009 |ngày truy cập=July 1, 2012}}</ref><ref name="Monsueto Ventures">{{cite magazine|last1=Castro |first1=Vicky |title=How to Succeed as an Entrepreneur, Taylor Swift Style |url=http://www.inc.com/vicky-castro/how-to-succeed-as-an-entrepreneur-taylor-swift-style.html |magazine=[[Inc. (magazine)|Inc.]] |publisher=Monsueto Ventures |archiveurl=http://www.webcitation.org/6klgx4ZPE|archivedate=September 24, 2016|accessdate=February 9, 2015 |date=February 6, 2015}}</ref>


Nhằm giúp Swift thâm nhập vào ngành âm nhạc đồng quê, cha cô chuyển về văn phòng tại Nashville khi cô 14 tuổi và gia đình cô định cư tại một căn nhà bên hồ ở [[Hendersonville, Tennessee]].<ref name="widdicombe1">{{cite news |last=Widdicombe |first=Lizzie |title=You Belong With Me |url=http://www.newyorker.com/magazine/2011/10/10/you-belong-with-me |accessdate=October 11, 2011 |newspaper=[[The New Yorker]] |date=October 10, 2011}}</ref><ref name="Ray">{{Chú thích web|họ 1=Jo |tên 1=Nancy |url=http://www.vanityfair.com/hollywood/2013/04/taylor-swift-cover-story |tiêu đề=Taylor Swift and the Growing of a Superstar: Her Men, Her Moods, Her Music |work=[[Vanity Fair (magazine)|Vanity Fair]] |ngày tháng=January 2, 2014 |ngày truy cập=November 11, 2015}}</ref> Tại Tennessee, Swift nhập học tại [[Hendersonville High School (Tennessee)|Trường trung học Hendersonville]] trong hai năm đầu.<ref>{{Chú thích web |url=http://www.cmt.com/news/1648575/taylor-swifts-high-school-names-auditorium-in-her-honor/ |tiêu đề=News: Taylor Swift's High School Names Auditorium in Her Honor |nhà xuất bản=CMT |ngày tháng=September 23, 2010 |ngày truy cập=April 18, 2012}}</ref> Sau đó, cô chuyển về Aaron Academy, một ngôi trường Công giáo cho phép học tại nhà, để cùng lúc dàn xếp lịch lưu diễn. Cô đạt điểm trung bình 4.0 và hoàn tất 2 năm học cuối cấp trong vòng 12 tháng.<ref name="The Very Pink, Very Perfect Life of Taylor Swift">{{cite news |last=Grigoriadis|first=Vanessa|url=http://www.rollingstone.com/music/news/the-very-pink-very-perfect-life-of-taylor-swift-20090305 |title=The Very Pink, Very Perfect Life of Taylor Swift |work=Rolling Stone |date=March 5, 2009 |accessdate=October 31, 2012}}</ref>
Nhằm giúp Taylor thâm nhập vào ngành âm nhạc đồng quê, cha cô chuyển về văn phòng tại Nashville khi cô 14 tuổi và gia đình cô định cư tại một căn nhà bên hồ ở [[Hendersonville, Tennessee]].<ref name="widdicombe1">{{cite news |last=Widdicombe |first=Lizzie |title=You Belong With Me |url=http://www.newyorker.com/magazine/2011/10/10/you-belong-with-me |accessdate=October 11, 2011 |newspaper=[[The New Yorker]] |date=October 10, 2011}}</ref><ref name="Ray">{{Chú thích web|họ 1=Jo |tên 1=Nancy |url=http://www.vanityfair.com/hollywood/2013/04/taylor-swift-cover-story |tiêu đề=Taylor Swift and the Growing of a Superstar: Her Men, Her Moods, Her Music |work=[[Vanity Fair (magazine)|Vanity Fair]] |ngày tháng=January 2, 2014 |ngày truy cập=November 11, 2015}}</ref> Tại Tennessee, Taylor nhập học tại [[Hendersonville High School (Tennessee)|Trường trung học Hendersonville]] trong hai năm đầu.<ref>{{Chú thích web |url=http://www.cmt.com/news/1648575/taylor-swifts-high-school-names-auditorium-in-her-honor/ |tiêu đề=News: Taylor Swift's High School Names Auditorium in Her Honor |nhà xuất bản=CMT |ngày tháng=September 23, 2010 |ngày truy cập=April 18, 2012}}</ref> Sau đó, cô chuyển về Aaron Academy, một ngôi trường Công giáo cho phép học tại nhà, để cùng lúc dàn xếp lịch lưu diễn. Cô đạt điểm trung bình 4.0 và hoàn tất 2 năm học cuối cấp trong vòng 12 tháng.<ref name="The Very Pink, Very Perfect Life of Taylor Swift">{{cite news |last=Grigoriadis|first=Vanessa|url=http://www.rollingstone.com/music/news/the-very-pink-very-perfect-life-of-taylor-swift-20090305 |title=The Very Pink, Very Perfect Life of Taylor Swift |work=Rolling Stone |date=March 5, 2009 |accessdate=October 31, 2012}}</ref>


=== 2004–08: Khởi nghiệp và ''Taylor Swift''===
=== 2004–08: Khởi nghiệp và ''Taylor Swift''===
Tại Nashville, Swift làm việc cùng những tác giả nhiều kinh nghiệm từ Music Row như [[Troy Verges]], [[Brett Beavers]], [[Brett James]], [[Mac McAnally]] và [[The Warren Brothers]].<ref>{{cite news |url=http://www.americansongwriter.com/2011/05/taylor-swift-the-garden-in-the-machine/3/ |title=Taylor Swift: The Garden In The Machine |work=American Songwriter |date=May 2, 2011 |accessdate=May 21, 2012}}</ref><ref name="sonydeal">{{Chú thích web |url=http://www.bmi.com/news/entry/234444 |tiêu đề=Songwriter Taylor Swift Signs Publishing Deal With Sony/ATV |nhà xuất bản=[[Broadcast Music, Inc.]] |ngày tháng=May 12, 2005 |ngày truy cập=April 20, 2012}}</ref> Sau cùng, cô bắt tay với cộng tác viên lâu dài [[Liz Rose]].<ref name="americansongwriter1">{{Chú thích web |họ 1=Kosser |tên 1=Michael |url=http://www.americansongwriter.com/2010/06/liz-rose-co-writer-to-the-stars/ |tiêu đề=Liz Rose: Co-Writer to the Stars |work=American Songwriter |ngày tháng=June 3, 2010 |ngày truy cập=April 19, 2012}}</ref> Cả hai gặp gỡ trong một buổi luyện sáng tác kéo dài 2 tiếng vào mỗi buổi chiều thứ Ba sau giờ học.<ref name="majorlyindie1">{{cite news |url=http://www.rollingstone.com/music/features/liz-rose-songs-taylor-swift-little-big-town-20141024 |title=Songwriter Spotlight: Liz Rose |work=Rolling Stone |date=October 24, 2014 |accessdate=September 24, 2016|last=Leahey|first=Andrew}}</ref> Rose chia sẻ một vài buổi tập luyện "là điều dễ dàng nhất tôi từng thực hiện. Tôi chỉ là người biên tập lại cho cô ấy. Cô bé viết về những gì diễn ra ở trường mỗi ngày. Cô có một tầm nhìn sáng sủa về những gì mình cố truyền đạt. Và cô ấy nghĩ ra những đoạn hook tuyệt vời." Swift ký kết với [[Sony/ATV Music Publishing|nhà xuất bản Sony/ATV Tree]]<ref>{{Chú thích web |họ 1=DeLuca |tên 1=Dan |tiêu đề=Focused on 'great songs' Taylor Swift isn't thinking about "the next level" or Joe Jon as gossip |url=http://articles.philly.com/2008-11-11/news/25256467_1_big-machine-records-joe-jonas-country-music-association-awards |trang=1 |work=Philadelphia Daily News |ngày truy cập=April 17, 2012 |ngày tháng=November 11, 2008}}</ref> nhưng rời khỏi RCA Records năm 14 tuổi.<ref name="albuminfo" /> Swift nhớ lại: "Tôi cảm thấy như mình sắp hết thời gian. Tôi muốn ghi dấu 3 năm cuộc đời bằng một album trong lúc chúng vẫn còn thể hiện những gì tôi đã trải qua."<ref name=":0">{{cite news |last=Preston|first=John |url=http://www.telegraph.co.uk/culture/music/rockandpopmusic/5202294/Taylor-Swift-the-19-year-old-country-music-star-conquering-America-and-now-Britain.html |title=Taylor Swift: the 19-year-old country music star conquering America – and now Britain |work=The Daily Telegraph |accessdate=August 30, 2012 |date=April 26, 2009}}</ref>
Tại Nashville, Taylor làm việc cùng những tác giả nhiều kinh nghiệm từ Music Row như [[Troy Verges]], [[Brett Beavers]], [[Brett James]], [[Mac McAnally]] và [[The Warren Brothers]].<ref>{{cite news |url=http://www.americansongwriter.com/2011/05/taylor-swift-the-garden-in-the-machine/3/ |title=Taylor Swift: The Garden In The Machine |work=American Songwriter |date=May 2, 2011 |accessdate=May 21, 2012}}</ref><ref name="sonydeal">{{Chú thích web |url=http://www.bmi.com/news/entry/234444 |tiêu đề=Songwriter Taylor Swift Signs Publishing Deal With Sony/ATV |nhà xuất bản=[[Broadcast Music, Inc.]] |ngày tháng=May 12, 2005 |ngày truy cập=April 20, 2012}}</ref> Sau cùng, cô bắt tay với cộng tác viên lâu dài [[Liz Rose]].<ref name="americansongwriter1">{{Chú thích web |họ 1=Kosser |tên 1=Michael |url=http://www.americansongwriter.com/2010/06/liz-rose-co-writer-to-the-stars/ |tiêu đề=Liz Rose: Co-Writer to the Stars |work=American Songwriter |ngày tháng=June 3, 2010 |ngày truy cập=April 19, 2012}}</ref> Cả hai gặp gỡ trong một buổi luyện sáng tác kéo dài 2 tiếng vào mỗi buổi chiều thứ Ba sau giờ học.<ref name="majorlyindie1">{{cite news |url=http://www.rollingstone.com/music/features/liz-rose-songs-taylor-swift-little-big-town-20141024 |title=Songwriter Spotlight: Liz Rose |work=Rolling Stone |date=October 24, 2014 |accessdate=September 24, 2016|last=Leahey|first=Andrew}}</ref> Rose chia sẻ một vài buổi tập luyện "là điều dễ dàng nhất tôi từng thực hiện. Tôi chỉ là người biên tập lại cho cô ấy. Cô bé viết về những gì diễn ra ở trường mỗi ngày. Cô có một tầm nhìn sáng sủa về những gì mình cố truyền đạt. Và cô ấy nghĩ ra những đoạn hook tuyệt vời." Taylor ký kết với [[Sony/ATV Music Publishing|nhà xuất bản Sony/ATV Tree]]<ref>{{Chú thích web |họ 1=DeLuca |tên 1=Dan |tiêu đề=Focused on 'great songs' Taylor Swift isn't thinking about "the next level" or Joe Jon as gossip |url=http://articles.philly.com/2008-11-11/news/25256467_1_big-machine-records-joe-jonas-country-music-association-awards |trang=1 |work=Philadelphia Daily News |ngày truy cập=April 17, 2012 |ngày tháng=November 11, 2008}}</ref> nhưng rời khỏi RCA Records năm 14 tuổi.<ref name="albuminfo" /> Taylor nhớ lại: "Tôi cảm thấy như mình sắp hết thời gian. Tôi muốn ghi dấu 3 năm cuộc đời bằng một album trong lúc chúng vẫn còn thể hiện những gì tôi đã trải qua."<ref name=":0">{{cite news |last=Preston|first=John |url=http://www.telegraph.co.uk/culture/music/rockandpopmusic/5202294/Taylor-Swift-the-19-year-old-country-music-star-conquering-America-and-now-Britain.html |title=Taylor Swift: the 19-year-old country music star conquering America – and now Britain |work=The Daily Telegraph |accessdate=August 30, 2012 |date=April 26, 2009}}</ref>


[[File:Taylor Swift at Yahoo crop.jpg|left|thumb|Swift trình diễn tại trụ sở [[Yahoo!]] ở [[Sunnyvale, California]] vào năm 2007|alt=Taylor Swift, mặc một chiếc đầm trắng và đeo kính râm, chơi guitar cạnh bục microphone.]]
[[File:Taylor Swift at Yahoo crop.jpg|left|thumb|Taylor trình diễn tại trụ sở [[Yahoo!]] ở [[Sunnyvale, California]] vào năm 2007|alt=Taylor Swift, mặc một chiếc đầm trắng và đeo kính râm, chơi guitar cạnh bục microphone.]]
Trong một đêm diễn tại [[Bluebird Cafe]], Nashville năm 2005, Swift thu hút sự chú ý của [[Scott Borchetta]], giám đốc hãng [[DreamWorks Records]], lúc ông chuẩn bị thành lập hãng thu âm độc lập [[Big Machine Records]]. Cô trở thành một trong những người đầu tiên ký kết cùng hãng, trong khi cha cô mua lại 3% cổ phần trong công ty còn non trẻ này với giá tiền ước tính 120.000 đô-la Mỹ.<ref name="Taylor in Wonderland">{{cite news|last1=Hiatt|first1=Brian|url=http://www.rollingstone.com/music/news/taylor-swift-in-wonderland-20121025|title=Taylor Swift in Wonderland|work=Rolling Stone|date=October 25, 2012|accessdate=August 1, 2016}}</ref><ref>{{cite news|last1=Greenburg|first1=Zack O'Malley |url=http://www.forbes.com/sites/zackomalleygreenburg/2013/06/26/toby-keith-cowboy-capitalist-countrys-500-million-man/2/ |work=[[Forbes]] |title=Toby Keith, Cowboy Capitalist: Country's $500 Million Man|date=June 26, 2013|accessdate=August 1, 2016}}</ref> Swift bắt đầu thực hiện [[Taylor Swift (album)|album cùng tên đầu tay]] không lâu sau khi ký hợp đồng. Cô thuyết phục hãng Big Machine thuê lại nhà sản xuất các bản thu thử của cô, [[Nathan Chapman]] vì cảm thấy cả hai làm việc một cách "ăn ý".<ref name="albuminfo" /> Swift tự sáng tác 3 bài hát trong album, trong đó có 2 đĩa đơn và đồng sáng tác 8 bài hát còn lại cùng Rose, [[Robert Ellis Orrall]], Brian Maher và [[Angelo Petraglia]].<ref name="liner">{{cite AV media notes |title=Taylor Swift |others=Taylor Swift |year=2006 |type=CD |publisher=Big Machine Records |id=BMR120702}}</ref> ''Taylor Swift'' ra mắt ngày 24 tháng 10 năm 2006.<ref name="ibtimes">{{cite news | url=http://www.ibtimes.com/taylor-swift-new-album-release-date-postponed-she-laying-low-after-kim-kardashian-2399940 | title=Taylor Swift New Album Release Date Postponed; Is She Laying Low After Kim Kardashian, Kanye West Drama? | work=[[International Business Times]] | date=August 10, 2016 | accessdate=August 15, 2016 |last=Solin|first=Jennifer}}</ref> Jon Caramanica từ ''[[The New York Times]]'' mô tả album là "một kiệt tác nhỏ bé của dòng nhạc đồng quê mang hơi hướng pop" cùng chất giọng "rắn chắc và truyền cảm" của Swift.<ref name="nytimes2">{{cite news|url=http://www.nytimes.com/2008/09/07/arts/music/07cara.html|title=A Young Outsider's Life Turned Inside Out|first1=Jon|last1=Caramanica|work=[[The New York Times]]|date=September 5, 2008|accessdate=August 1, 2016}}</ref> Tính đến tháng 8 năm 2016, album đã bán hơn 7,75 triệu bản trên toàn cầu.<ref name="SBRI">{{Chú thích web | url=http://www.statisticbrain.com/taylor-swift-total-album-sales/ | tiêu đề=Taylor Swift Total Album Sales | nhà xuất bản=Statistic Brain Research Institute | ngày truy cập=30 August 2016 | url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20160830143046/http://www.statisticbrain.com/taylor-swift-total-album-sales/ | ngày lưu trữ=August 30, 2016}}</ref>
Trong một đêm diễn tại [[Bluebird Cafe]], Nashville năm 2005, Taylor thu hút sự chú ý của [[Scott Borchetta]], giám đốc hãng [[DreamWorks Records]], lúc ông chuẩn bị thành lập hãng thu âm độc lập [[Big Machine Records]]. Cô trở thành một trong những người đầu tiên ký kết cùng hãng, trong khi cha cô mua lại 3% cổ phần trong công ty còn non trẻ này với giá tiền ước tính 120.000 đô-la Mỹ.<ref name="Taylor in Wonderland">{{cite news|last1=Hiatt|first1=Brian|url=http://www.rollingstone.com/music/news/taylor-swift-in-wonderland-20121025|title=Taylor Swift in Wonderland|work=Rolling Stone|date=October 25, 2012|accessdate=August 1, 2016}}</ref><ref>{{cite news|last1=Greenburg|first1=Zack O'Malley |url=http://www.forbes.com/sites/zackomalleygreenburg/2013/06/26/toby-keith-cowboy-capitalist-countrys-500-million-man/2/ |work=[[Forbes]] |title=Toby Keith, Cowboy Capitalist: Country's $500 Million Man|date=June 26, 2013|accessdate=August 1, 2016}}</ref> Taylor bắt đầu thực hiện [[Taylor Swift (album)|album cùng tên đầu tay]] không lâu sau khi ký hợp đồng. Cô thuyết phục hãng Big Machine thuê lại nhà sản xuất các bản thu thử của cô, [[Nathan Chapman]] vì cảm thấy cả hai làm việc một cách "ăn ý".<ref name="albuminfo" /> Taylor tự sáng tác 3 bài hát trong album, trong đó có 2 đĩa đơn và đồng sáng tác 8 bài hát còn lại cùng Rose, [[Robert Ellis Orrall]], Brian Maher và [[Angelo Petraglia]].<ref name="liner">{{cite AV media notes |title=Taylor Swift |others=Taylor Swift |year=2006 |type=CD |publisher=Big Machine Records |id=BMR120702}}</ref> ''Taylor Swift'' ra mắt ngày 24 tháng 10 năm 2006.<ref name="ibtimes">{{cite news | url=http://www.ibtimes.com/taylor-swift-new-album-release-date-postponed-she-laying-low-after-kim-kardashian-2399940 | title=Taylor Swift New Album Release Date Postponed; Is She Laying Low After Kim Kardashian, Kanye West Drama? | work=[[International Business Times]] | date=August 10, 2016 | accessdate=August 15, 2016 |last=Solin|first=Jennifer}}</ref> Jon Caramanica từ ''[[The New York Times]]'' mô tả album là "một kiệt tác nhỏ bé của dòng nhạc đồng quê mang hơi hướng pop" cùng chất giọng "rắn chắc và truyền cảm" của Taylor.<ref name="nytimes2">{{cite news|url=http://www.nytimes.com/2008/09/07/arts/music/07cara.html|title=A Young Outsider's Life Turned Inside Out|first1=Jon|last1=Caramanica|work=[[The New York Times]]|date=September 5, 2008|accessdate=August 1, 2016}}</ref> Tính đến tháng 8 năm 2016, album đã bán hơn 7,75 triệu bản trên toàn cầu.<ref name="SBRI">{{Chú thích web | url=http://www.statisticbrain.com/taylor-swift-total-album-sales/ | tiêu đề=Taylor Swift Total Album Sales | nhà xuất bản=Statistic Brain Research Institute | ngày truy cập=30 August 2016 | url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20160830143046/http://www.statisticbrain.com/taylor-swift-total-album-sales/ | ngày lưu trữ=August 30, 2016}}</ref>


Hãng Big Machine Records vẫn còn trong giai đoạn hình thành trong lúc phát hành đĩa đơn đầu tay của Swift, "[[Tim McGraw (bài hát)|Tim McGraw]]" vào tháng 6 năm 2006, lúc cô và mẹ phải giúp "gói CD đĩa đơn vào phong bì để gửi đến trạm phát thanh".<ref name="EW1">{{cite news |last=Willman |first=Chris |title=Taylor Swift's Road to Fame |url=http://www.ew.com/article/2008/02/05/taylor-swifts-road-fame |work=Entertainment Weekly |accessdate=April 22, 2012 |page=3 |date=February 5, 2008}}</ref> Cô dành hầu hết năm 2006 để quảng bá ''Taylor Swift'' tại các trạm phát thanh và nhiều chương trình truyền hình.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.onecountry.com/5-of-taylor-swifts-most-country-performances-1647918372.html|ngày tháng=November 12, 2014|tiêu đề=5 of Taylor Swift's Most Country Performances|họ 1=Cowling|tên 1=Lauren|work=Country Outfitter Life|ngày truy cập=August 2, 2016}}</ref><ref name="taylorjoinstour">{{Chú thích web |url=http://www.cmt.com/news/1543489/taylor-swift-joins-rascal-flatts-tour/ |tiêu đề=Taylor Swift Joins Rascal Flatts Tour |ngày tháng=October 18, 2006 |nhà xuất bản=CMT |ngày truy cập=March 11, 2010}}</ref> Borchetta cho rằng quyết định hợp tác cùng một ca sĩ tự sáng tác mới 16 tuổi ban đầu gây nhiều sự tò mò từ giới thu âm nhưng Swift lại bước chân vào một thị trường chưa từng được khai thác trước đây: những cô gái thiếu niên thích nghe nhạc đồng quê.<ref name="widdicombe1" /> Theo sau "Tim McGraw", 4 đĩa đơn khác cũng được phát hành trong năm 2007 và 2008 gồm "[[Teardrops on My Guitar]]", "[[Our Song (bài hát)|Our Song]]", "[[Picture to Burn]]" và "[[Should've Said No]]". Tất cả đều đạt thành công trên bảng xếp hạng ''Billboard'' [[Hot Country Songs]], riêng "Our Song" và "Should've Said No" giành được ngôi quán quân. "Our Song" giúp Swift trở thành người trẻ tuổi nhất có bài hát tự sáng tác vươn đến vị trí số 1 tại bảng xếp hạng này.<ref>{{Chú thích web |url=http://www.gactv.com/gac/cda/article_print/0,3008,GAC_26063_5769818_DS-ARTICLE-RIGHT-RAIL,00.html|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20150316163238/http://www.gactv.com/gac/cda/article_print/0,3008,GAC_26063_5769818_DS-ARTICLE-RIGHT-RAIL,00.html|ngày lưu trữ=March 16, 2015|tiêu đề=Taylor Swift No. 1 on iTunes |ngày tháng=December 19, 2007 |nhà xuất bản=[[Great American Country]] |ngày truy cập=July 5, 2010}}</ref> "Teardrops on My Guitar" trở thành bài hát pop ăn khách; vươn đến vị trí thứ 13 trên [[Billboard Hot 100|''Billboard'' Hot 100]].<ref name="billboard">{{Chú thích web |url={{BillboardURLbyName |nguời khác=taylor swift |chart=all}}|tiêu đề=Teardrops on My Guitar|work=[[Billboard (magazine)|Billboard]]|ngày truy cập=December 15, 2010}}</ref> Swift cũng phát hành một album Giáng sinh, ''[[Sounds of the Season: The Taylor Swift Holiday Collection]]'' vào tháng 10 năm 2007 và EP ''[[Beautiful Eyes]]'' vào tháng 7 năm 2008.<ref name="cst">{{Chú thích web |url=http://www.countrystandardtime.com/news/newsitem.asp?xid=1947 |tiêu đề=Taylor Swift owns top of country chart |ngày truy cập=December 26, 2008|ngày tháng=July 23, 2008 |work=Country Standard Time}}</ref><ref name="gac">{{Chú thích web |url=http://www.gactv.com/gac/nw_headlines/article/0,3034,GAC_26063_5903580_,00.html |url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20150316173034/http://www.gactv.com/gac/nw_headlines/article/0,3034,GAC_26063_5903580_,00.html|tiêu đề=Wal-Mart "Eyes" New Taylor Swift Project |ngày lưu trữ=March 16, 2015|ngày truy cập=July 24, 2008 |nhà xuất bản=Great American Country}}</ref> Cô còn quảng bá cho album này tại nhiều buổi hòa nhạc của nghệ sĩ khác.<ref>{{Chú thích web|họ 1=Rosa|tên 1=Christopher |url=http://www.vh1.com/news/5861/opening-acts-bigger-than-headliner/ |tiêu đề=Opening Acts Who Became Bigger Than The Headliner |nhà xuất bản=[[VH1]] |ngày tháng=March 24, 2015 |ngày truy cập=November 11, 2015}}</ref>
Hãng Big Machine Records vẫn còn trong giai đoạn hình thành trong lúc phát hành đĩa đơn đầu tay của Taylor, "[[Tim McGraw (bài hát)|Tim McGraw]]" vào tháng 6 năm 2006, lúc cô và mẹ phải giúp "gói CD đĩa đơn vào phong bì để gửi đến trạm phát thanh".<ref name="EW1">{{cite news |last=Willman |first=Chris |title=Taylor Swift's Road to Fame |url=http://www.ew.com/article/2008/02/05/taylor-swifts-road-fame |work=Entertainment Weekly |accessdate=April 22, 2012 |page=3 |date=February 5, 2008}}</ref> Cô dành hầu hết năm 2006 để quảng bá ''Taylor Swift'' tại các trạm phát thanh và nhiều chương trình truyền hình.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.onecountry.com/5-of-taylor-swifts-most-country-performances-1647918372.html|ngày tháng=November 12, 2014|tiêu đề=5 of Taylor Swift's Most Country Performances|họ 1=Cowling|tên 1=Lauren|work=Country Outfitter Life|ngày truy cập=August 2, 2016}}</ref><ref name="taylorjoinstour">{{Chú thích web |url=http://www.cmt.com/news/1543489/taylor-swift-joins-rascal-flatts-tour/ |tiêu đề=Taylor Swift Joins Rascal Flatts Tour |ngày tháng=October 18, 2006 |nhà xuất bản=CMT |ngày truy cập=March 11, 2010}}</ref> Borchetta cho rằng quyết định hợp tác cùng một ca sĩ tự sáng tác mới 16 tuổi ban đầu gây nhiều sự tò mò từ giới thu âm nhưng Taylor lại bước chân vào một thị trường chưa từng được khai thác trước đây: những cô gái thiếu niên thích nghe nhạc đồng quê.<ref name="widdicombe1" /> Theo sau "Tim McGraw", 4 đĩa đơn khác cũng được phát hành trong năm 2007 và 2008 gồm "[[Teardrops on My Guitar]]", "[[Our Song (bài hát)|Our Song]]", "[[Picture to Burn]]" và "[[Should've Said No]]". Tất cả đều đạt thành công trên bảng xếp hạng ''Billboard'' [[Hot Country Songs]], riêng "Our Song" và "Should've Said No" giành được ngôi quán quân. "Our Song" giúp Taylor trở thành người trẻ tuổi nhất có bài hát tự sáng tác vươn đến vị trí số 1 tại bảng xếp hạng này.<ref>{{Chú thích web |url=http://www.gactv.com/gac/cda/article_print/0,3008,GAC_26063_5769818_DS-ARTICLE-RIGHT-RAIL,00.html|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20150316163238/http://www.gactv.com/gac/cda/article_print/0,3008,GAC_26063_5769818_DS-ARTICLE-RIGHT-RAIL,00.html|ngày lưu trữ=March 16, 2015|tiêu đề=Taylor Swift No. 1 on iTunes |ngày tháng=December 19, 2007 |nhà xuất bản=[[Great American Country]] |ngày truy cập=July 5, 2010}}</ref> "Teardrops on My Guitar" trở thành bài hát pop ăn khách; vươn đến vị trí thứ 13 trên [[Billboard Hot 100|''Billboard'' Hot 100]].<ref name="billboard">{{Chú thích web |url={{BillboardURLbyName |nguời khác=taylor swift |chart=all}}|tiêu đề=Teardrops on My Guitar|work=[[Billboard (magazine)|Billboard]]|ngày truy cập=December 15, 2010}}</ref> Taylor cũng phát hành một album Giáng sinh, ''[[Sounds of the Season: The Taylor Swift Holiday Collection]]'' vào tháng 10 năm 2007 và EP ''[[Beautiful Eyes]]'' vào tháng 7 năm 2008.<ref name="cst">{{Chú thích web |url=http://www.countrystandardtime.com/news/newsitem.asp?xid=1947 |tiêu đề=Taylor Swift owns top of country chart |ngày truy cập=December 26, 2008|ngày tháng=July 23, 2008 |work=Country Standard Time}}</ref><ref name="gac">{{Chú thích web |url=http://www.gactv.com/gac/nw_headlines/article/0,3034,GAC_26063_5903580_,00.html |url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20150316173034/http://www.gactv.com/gac/nw_headlines/article/0,3034,GAC_26063_5903580_,00.html|tiêu đề=Wal-Mart "Eyes" New Taylor Swift Project |ngày lưu trữ=March 16, 2015|ngày truy cập=July 24, 2008 |nhà xuất bản=Great American Country}}</ref> Cô còn quảng bá cho album này tại nhiều buổi hòa nhạc của nghệ sĩ khác.<ref>{{Chú thích web|họ 1=Rosa|tên 1=Christopher |url=http://www.vh1.com/news/5861/opening-acts-bigger-than-headliner/ |tiêu đề=Opening Acts Who Became Bigger Than The Headliner |nhà xuất bản=[[VH1]] |ngày tháng=March 24, 2015 |ngày truy cập=November 11, 2015}}</ref>


''Taylor Swift'' mang về cho Swift nhiều giải thưởng. Cô là một trong hai người nhận giải "Tác giả/Nghệ sĩ của năm" do Hiệp hội nhạc sĩ Nashville trao tặng vào năm 2007, trở thành người trẻ tuổi nhất giành được danh hiệu này.<ref name=":2" /> Cô cũng giành giải Kinh nghiệm cho "Nghệ sĩ mới xuất sắc nhất" bởi Hiệp hội Âm nhạc đồng quê,<ref>{{Chú thích web|url=http://www.cmt.com/pictures/taylor-swift/photo-gallery/2389485/2657043/artist_photo.jhtml|tiêu đề=Photos: All Taylor Swift Pictures: Horizon Award Winner Poses in the Pressroom|nhà xuất bản=Country Music Television|ngày tháng=September 7, 2007|ngày truy cập=May 21, 2012|url lưu trữ=http://web.archive.org/web/20071123143631/http://www.cmt.com/pictures/taylor-swift/photo-gallery/2389485/2657043/artist_photo.jhtml|ngày lưu trữ=23 Nov 2007}}</ref> giải "Ca sĩ nữ mới hàng đầu" của Viện Hàn lâm Nhạc đồng quê<ref>{{Chú thích web |url=http://www.cmt.com/pictures/43rd-annual-acm-awards-onstage-winners/1587677/2970629/photo.jhtml |tiêu đề=Photos: 43rd Annual ACM Awards – Onstage: Winners: Acceptance Speech |nhà xuất bản=CMT |ngày tháng=May 18, 2008 |ngày truy cập=May 21, 2012}}</ref> và "Nữ nghệ sĩ đồng quê được yêu thích" tại [[giải thưởng Âm nhạc Mỹ]].<ref>{{Chú thích web |url=http://www.roughstock.com/blog/taylor-swift-rascal-flatts-carrie-underwood-score-@-2008-ama-awards |url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20140710055906/http://www.roughstock.com/blog/taylor-swift-rascal-flatts-carrie-underwood-score-@-2008-ama-awards|ngày lưu trữ=July 10, 2014|tiêu đề=Taylor Swift, Rascal Flatts, Carrie Underwood Score at 2008 AMA Awards |nhà xuất bản=Roughstock.com|kiểu=Blog|ngày tháng=November 24, 2008 |ngày truy cập=May 21, 2012}}</ref> Năm 2008, cô được đề cử [[giải Grammy]] cho "[[giải Grammy cho Nghệ sĩ mới xuất sắc nhất|Nghệ sĩ mới xuất sắc nhất]]".<ref>{{Chú thích web |url=http://www.people.com/people/package/article/0,,20173658_20177270,00.html |tiêu đề=Amy Winehouse Wins Best New Artist, Kanye West Pays Tribute to Mom – Grammy Awards 2008, Grammy Awards |work=[[People (tạp chí)|People]] |ngày tháng=October 2, 2008 |ngày truy cập=May 21, 2012}}</ref> Swift có mối quan hệ ngắn ngủi cùng [[Joe Jonas]] từ tháng 7 đến tháng 10 năm 2008.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.people.com/people/article/0,,20230694,00.html|tiêu đề=Scoop|họ 1=Caplan|tên 1=David|ngày tháng=September 8, 2008|work=People|ngày truy cập=March 6, 2012|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20160202044308/http://www.people.com/people/article/0,,20230694,00.html|ngày lưu trữ=February 2, 2016}}</ref><ref>{{Chú thích web|url=http://www.people.com/people/article/0,,20245498,00.html|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20160303204136/http://www.people.com/people/article/0,,20245498,00.html|ngày lưu trữ=March 3, 2016|tiêu đề=Scoop – Couples, Camilla Belle, Joe Jonas|họ 1=Rizzo|tên 1=Monica|ngày tháng=November 24, 2008|work=People|ngày truy cập=March 6, 2012}}</ref>
''Taylor Swift'' mang về cho Taylor nhiều giải thưởng. Cô là một trong hai người nhận giải "Tác giả/Nghệ sĩ của năm" do Hiệp hội nhạc sĩ Nashville trao tặng vào năm 2007, trở thành người trẻ tuổi nhất giành được danh hiệu này.<ref name=":2" /> Cô cũng giành giải Kinh nghiệm cho "Nghệ sĩ mới xuất sắc nhất" bởi Hiệp hội Âm nhạc đồng quê,<ref>{{Chú thích web|url=http://www.cmt.com/pictures/taylor-swift/photo-gallery/2389485/2657043/artist_photo.jhtml|tiêu đề=Photos: All Taylor Swift Pictures: Horizon Award Winner Poses in the Pressroom|nhà xuất bản=Country Music Television|ngày tháng=September 7, 2007|ngày truy cập=May 21, 2012|url lưu trữ=http://web.archive.org/web/20071123143631/http://www.cmt.com/pictures/taylor-swift/photo-gallery/2389485/2657043/artist_photo.jhtml|ngày lưu trữ=23 Nov 2007}}</ref> giải "Ca sĩ nữ mới hàng đầu" của Viện Hàn lâm Nhạc đồng quê<ref>{{Chú thích web |url=http://www.cmt.com/pictures/43rd-annual-acm-awards-onstage-winners/1587677/2970629/photo.jhtml |tiêu đề=Photos: 43rd Annual ACM Awards – Onstage: Winners: Acceptance Speech |nhà xuất bản=CMT |ngày tháng=May 18, 2008 |ngày truy cập=May 21, 2012}}</ref> và "Nữ nghệ sĩ đồng quê được yêu thích" tại [[giải thưởng Âm nhạc Mỹ]].<ref>{{Chú thích web |url=http://www.roughstock.com/blog/taylor-swift-rascal-flatts-carrie-underwood-score-@-2008-ama-awards |url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20140710055906/http://www.roughstock.com/blog/taylor-swift-rascal-flatts-carrie-underwood-score-@-2008-ama-awards|ngày lưu trữ=July 10, 2014|tiêu đề=Taylor Swift, Rascal Flatts, Carrie Underwood Score at 2008 AMA Awards |nhà xuất bản=Roughstock.com|kiểu=Blog|ngày tháng=November 24, 2008 |ngày truy cập=May 21, 2012}}</ref> Năm 2008, cô được đề cử [[giải Grammy]] cho "[[giải Grammy cho Nghệ sĩ mới xuất sắc nhất|Nghệ sĩ mới xuất sắc nhất]]".<ref>{{Chú thích web |url=http://www.people.com/people/package/article/0,,20173658_20177270,00.html |tiêu đề=Amy Winehouse Wins Best New Artist, Kanye West Pays Tribute to Mom – Grammy Awards 2008, Grammy Awards |work=[[People (tạp chí)|People]] |ngày tháng=October 2, 2008 |ngày truy cập=May 21, 2012}}</ref> Taylor có mối quan hệ ngắn ngủi cùng [[Joe Jonas]] từ tháng 7 đến tháng 10 năm 2008.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.people.com/people/article/0,,20230694,00.html|tiêu đề=Scoop|họ 1=Caplan|tên 1=David|ngày tháng=September 8, 2008|work=People|ngày truy cập=March 6, 2012|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20160202044308/http://www.people.com/people/article/0,,20230694,00.html|ngày lưu trữ=February 2, 2016}}</ref><ref>{{Chú thích web|url=http://www.people.com/people/article/0,,20245498,00.html|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20160303204136/http://www.people.com/people/article/0,,20245498,00.html|ngày lưu trữ=March 3, 2016|tiêu đề=Scoop – Couples, Camilla Belle, Joe Jonas|họ 1=Rizzo|tên 1=Monica|ngày tháng=November 24, 2008|work=People|ngày truy cập=March 6, 2012}}</ref>


=== 2008–10: ''Fearless'' và diễn xuất ===
=== 2008–10: ''Fearless'' và diễn xuất ===
Album phòng thu thứ hai của Swift, ''[[Fearless (album của Taylor Swift)|Fearless]]'' phát hành ngày 11 tháng 11 năm 2008.<ref name="ibtimes"/> Đĩa đơn đầu tiên, "[[Love Story (bài hát của Taylor Swift)|Love Story]]" phát hành vào tháng 9 năm 2008, vươn đến vị trí thứ 4 trên ''Billboard'' Hot 100<ref>{{Chú thích web |url={{BillboardURLbyName |nguời khác=taylor swift |chart=all}}|tiêu đề=Love Story – Taylor Swift|work=Billboard|ngày truy cập=March 5, 2011}}</ref> và hạng nhất tại Úc.<ref name=AUSchart>{{Chú thích web | url=http://australian-charts.com/showinterpret.asp?interpret=Taylor+Swift | tiêu đề=Discography Taylor Swift | nhà xuất bản=[[ARIA Charts]] | ngày truy cập=January 2, 2010}}</ref> Có 4 đĩa đơn khác được ra mắt trong năm 2008 và 2009 gồm "[[White Horse (bài hát)|White Horse]]", "[[You Belong with Me]]", "[[Fifteen (bài hát)|Fifteen]]" và "[[Fearless (bài hát của Taylor Swift)|Fearless]]". "You Belong with Me" là đĩa đơn xếp hạng cao nhất của album này, chạm đến vị trí thứ 2 trên ''Billboard'' Hot 100.<ref>{{Chú thích web |url=http://www.billboard.com/articles/news/267724/black-eyed-peas-jason-mraz-tie-records-on-billboard-hot-100 |tiêu đề=Black Eyed Peas, Jason Mraz Tie Records on Billboard Hot 100 |họ 1=Ben-Yehuda |tên 1=Ayala |ngày tháng=August 13, 2009 |work=Billboard |ngày truy cập=March 13, 2010}}</ref> ''Fearless'' đạt vị trí số 1 trên ''Billboard'' 200, trở thành album bán chạy nhất năm 2009 tại Mỹ.<ref>{{Chú thích web |url=https://www.yahoo.com/music/bp/chart-watch-extra-top-albums-last-10-years-181452729.html |tiêu đề=Chart Watch Extra: Top Albums Of Last 10 Years |tên 1=Paul |họ 1=Grein |ngày tháng=March 16, 2012 |nhà xuất bản=Yahoo! Music |kiểu=Blog|ngày truy cập=June 10, 2011}}</ref> Để quảng bá cho album, Swift thực hiện chuyến lưu diễn đầu tiên mang tên [[Fearless Tour]],<ref>{{cite news |last=Herrera |first=Monica |title=Taylor Swift's "Fearless" Tour Returns March 2010 |url=http://www.rollingstone.com/music/news/taylor-swifts-fearless-tour-returns-march-2010-20091008 |work=Rolling Stone|accessdate=August 3, 2016 |date=October 8, 2009}}</ref> thu về 63 triệu đô-la Mỹ.<ref>{{Chú thích web |họ 1=Mapes |tên 1=Jillian |tiêu đề=Taylor Swift Announces 'Speak Now' World Tour |url=http://www.billboard.com/articles/photos/live/950374/taylor-swift-announces-speak-now-world-tour |work=Billboard |ngày truy cập=May 15, 2012 |ngày tháng=November 23, 2010}}</ref> Bộ phim tài liệu lưu diễn ''[[Taylor Swift: Journey to Fearless]]'' lên sóng truyền hình và được ra mắt trên định dạng DVD và Blu-ray.<ref>{{cite news|last1=Weiss|first1=Dan|title=Taylor Swift: Journey To Fearless DVD|url=http://americansongwriter.com/2011/12/taylor-swift-journey-to-fearless-dvd/|accessdate=August 2, 2016|work=American Songwriter|date=December 12, 2011}}</ref> Ngoài ra, cô cũng trình diễn tại Escape Together World Tour của [[Keith Urban]].<ref>{{Chú thích web|họ 1 = Ryan|tên 1 = Sarah|url = http://blog.gactv.com/blog/2009/08/10/taylor-swift-pranks-keith-urban/|tiêu đề = Taylor Swift Pranks Keith Urban |nhà xuất bản = Great American Country|kiểu=Blog|ngày tháng = August 10, 2009|ngày truy cập = November 11, 2015|url lưu trữ = https://web.archive.org/web/20150906062906/http://blog.gactv.com/blog/2009/08/10/taylor-swift-pranks-keith-urban/|ngày lưu trữ = September 6, 2015}}</ref>
Album phòng thu thứ hai của Taylor, ''[[Fearless (album của Taylor Swift)|Fearless]]'' phát hành ngày 11 tháng 11 năm 2008.<ref name="ibtimes"/> Đĩa đơn đầu tiên, "[[Love Story (bài hát của Taylor Swift)|Love Story]]" phát hành vào tháng 9 năm 2008, vươn đến vị trí thứ 4 trên ''Billboard'' Hot 100<ref>{{Chú thích web |url={{BillboardURLbyName |nguời khác=taylor swift |chart=all}}|tiêu đề=Love Story – Taylor Swift|work=Billboard|ngày truy cập=March 5, 2011}}</ref> và hạng nhất tại Úc.<ref name=AUSchart>{{Chú thích web | url=http://australian-charts.com/showinterpret.asp?interpret=Taylor+Swift | tiêu đề=Discography Taylor Swift | nhà xuất bản=[[ARIA Charts]] | ngày truy cập=January 2, 2010}}</ref> Có 4 đĩa đơn khác được ra mắt trong năm 2008 và 2009 gồm "[[White Horse (bài hát)|White Horse]]", "[[You Belong with Me]]", "[[Fifteen (bài hát)|Fifteen]]" và "[[Fearless (bài hát của Taylor Swift)|Fearless]]". "You Belong with Me" là đĩa đơn xếp hạng cao nhất của album này, chạm đến vị trí thứ 2 trên ''Billboard'' Hot 100.<ref>{{Chú thích web |url=http://www.billboard.com/articles/news/267724/black-eyed-peas-jason-mraz-tie-records-on-billboard-hot-100 |tiêu đề=Black Eyed Peas, Jason Mraz Tie Records on Billboard Hot 100 |họ 1=Ben-Yehuda |tên 1=Ayala |ngày tháng=August 13, 2009 |work=Billboard |ngày truy cập=March 13, 2010}}</ref> ''Fearless'' đạt vị trí số 1 trên ''Billboard'' 200, trở thành album bán chạy nhất năm 2009 tại Mỹ.<ref>{{Chú thích web |url=https://www.yahoo.com/music/bp/chart-watch-extra-top-albums-last-10-years-181452729.html |tiêu đề=Chart Watch Extra: Top Albums Of Last 10 Years |tên 1=Paul |họ 1=Grein |ngày tháng=March 16, 2012 |nhà xuất bản=Yahoo! Music |kiểu=Blog|ngày truy cập=June 10, 2011}}</ref> Để quảng bá cho album, Taylor thực hiện chuyến lưu diễn đầu tiên mang tên [[Fearless Tour]],<ref>{{cite news |last=Herrera |first=Monica |title=Taylor Swift's "Fearless" Tour Returns March 2010 |url=http://www.rollingstone.com/music/news/taylor-swifts-fearless-tour-returns-march-2010-20091008 |work=Rolling Stone|accessdate=August 3, 2016 |date=October 8, 2009}}</ref> thu về 63 triệu đô-la Mỹ.<ref>{{Chú thích web |họ 1=Mapes |tên 1=Jillian |tiêu đề=Taylor Swift Announces 'Speak Now' World Tour |url=http://www.billboard.com/articles/photos/live/950374/taylor-swift-announces-speak-now-world-tour |work=Billboard |ngày truy cập=May 15, 2012 |ngày tháng=November 23, 2010}}</ref> Bộ phim tài liệu lưu diễn ''[[Taylor Swift: Journey to Fearless]]'' lên sóng truyền hình và được ra mắt trên định dạng DVD và Blu-ray.<ref>{{cite news|last1=Weiss|first1=Dan|title=Taylor Swift: Journey To Fearless DVD|url=http://americansongwriter.com/2011/12/taylor-swift-journey-to-fearless-dvd/|accessdate=August 2, 2016|work=American Songwriter|date=December 12, 2011}}</ref> Ngoài ra, cô cũng trình diễn tại Escape Together World Tour của [[Keith Urban]].<ref>{{Chú thích web|họ 1 = Ryan|tên 1 = Sarah|url = http://blog.gactv.com/blog/2009/08/10/taylor-swift-pranks-keith-urban/|tiêu đề = Taylor Swift Pranks Keith Urban |nhà xuất bản = Great American Country|kiểu=Blog|ngày tháng = August 10, 2009|ngày truy cập = November 11, 2015|url lưu trữ = https://web.archive.org/web/20150906062906/http://blog.gactv.com/blog/2009/08/10/taylor-swift-pranks-keith-urban/|ngày lưu trữ = September 6, 2015}}</ref>


[[Tập tin:TaylorSwiftApr09.jpg|thumb|Swift tại buổi công chiếu ''[[Hannah Montana: The Movie]]'' vào năm 2009]]
[[Tập tin:TaylorSwiftApr09.jpg|thumb|Taylor tại buổi công chiếu ''[[Hannah Montana: The Movie]]'' vào năm 2009]]
Tại [[giải Video âm nhạc của MTV năm 2009|mùa giải Video âm nhạc của MTV năm 2009]], "You Belong with Me" giành giải "[[Giải Video âm nhạc của MTV cho Video xuất sắc nhất của nữ ca sĩ|Video xuất sắc nhất của nữ ca sĩ]]".<ref name="msnbc.msn.com">{{cite news |title=Kanye calls Taylor Swift after 'View' appearance |publisher=MSNBC |date=September 15, 2009 |accessdate=September 16, 2009 |url=http://www.today.com/id/32861800}}</ref> Bài phát biểu nhận giải của cô bị rapper [[Kanye West]] cắt ngang.<ref name="Beyonce1">{{Chú thích web |tiêu đề=Taylor Swift Thanks "Gracious" Beyonce for Inviting Her Onstage After Kanye Stunt at VMAs |url=http://www.rollingstone.com/music/news/taylor-swift-thanks-gracious-beyonce-for-inviting-her-onstage-after-kanye-stunt-at-vmas-20090914 |work=Rolling Stone |ngày truy cập=May 15, 2012 |ngày tháng=September 14, 2009}}</ref> Vụ việc nhận được sự chú ý của giới truyền thông và là hiện tượng lan truyền trên mạng xã hội.<ref>{{Chú thích web |ngày truy cập=October 3, 2009 |url=http://www.mtv.com/news/2576681/kanye-wests-vma-interruption-photos/ |tiêu đề=Kanye West's VMA Interruption Gives Birth To Internet Photo Meme |nhà xuất bản=MTV |ngày tháng=September 16, 2009 |họ 1=Anderson|tên 1=Kyle}}</ref> James Montgomery của MTV cho rằng chính sự cố này và phản ứng của giới truyền thông biến Swift trở thành "một người nổi tiếng đầy thiện ý".<ref name="montgomery1">{{Chú thích web |họ 1 = Montgomery|tên 1 = James|tiêu đề = Why You Shouldn't Hate on Taylor Swift|url = http://www.mtv.com/news/articles/1631093/why-shouldnt-hate-on-taylor-swift.jhtml|nhà xuất bản = MTV|ngày truy cập = May 15, 2012|ngày tháng = February 2, 2010}}</ref>
Tại [[giải Video âm nhạc của MTV năm 2009|mùa giải Video âm nhạc của MTV năm 2009]], "You Belong with Me" giành giải "[[Giải Video âm nhạc của MTV cho Video xuất sắc nhất của nữ ca sĩ|Video xuất sắc nhất của nữ ca sĩ]]".<ref name="msnbc.msn.com">{{cite news |title=Kanye calls Taylor Swift after 'View' appearance |publisher=MSNBC |date=September 15, 2009 |accessdate=September 16, 2009 |url=http://www.today.com/id/32861800}}</ref> Bài phát biểu nhận giải của cô bị rapper [[Kanye West]] cắt ngang.<ref name="Beyonce1">{{Chú thích web |tiêu đề=Taylor Swift Thanks "Gracious" Beyonce for Inviting Her Onstage After Kanye Stunt at VMAs |url=http://www.rollingstone.com/music/news/taylor-swift-thanks-gracious-beyonce-for-inviting-her-onstage-after-kanye-stunt-at-vmas-20090914 |work=Rolling Stone |ngày truy cập=May 15, 2012 |ngày tháng=September 14, 2009}}</ref> Vụ việc nhận được sự chú ý của giới truyền thông và là hiện tượng lan truyền trên mạng xã hội.<ref>{{Chú thích web |ngày truy cập=October 3, 2009 |url=http://www.mtv.com/news/2576681/kanye-wests-vma-interruption-photos/ |tiêu đề=Kanye West's VMA Interruption Gives Birth To Internet Photo Meme |nhà xuất bản=MTV |ngày tháng=September 16, 2009 |họ 1=Anderson|tên 1=Kyle}}</ref> James Montgomery của MTV cho rằng chính sự cố này và phản ứng của giới truyền thông biến Taylor trở thành "một người nổi tiếng đầy thiện ý".<ref name="montgomery1">{{Chú thích web |họ 1 = Montgomery|tên 1 = James|tiêu đề = Why You Shouldn't Hate on Taylor Swift|url = http://www.mtv.com/news/articles/1631093/why-shouldnt-hate-on-taylor-swift.jhtml|nhà xuất bản = MTV|ngày truy cập = May 15, 2012|ngày tháng = February 2, 2010}}</ref>


Tại [[giải Grammy lần thứ 52]], ''Fearless'' thắng giải "Album nhạc đồng quê của năm" và giúp Swift trở thành nghệ sĩ trẻ tuổi nhất giành giải "[[Giải Grammy cho Album của năm|Album của năm]]", trong khi "White Horse" giành thêm 2 giải cho "Bài hát nhạc đồng quê xuất sắc nhất" và "Trình diễn nhạc đồng quê giọng nữ xuất sắc nhất".<ref>{{Chú thích web|url=http://www.rollingstone.com/music/news/beyonce-taylor-swift-dominate-2010-grammy-awards-20100201|tiêu đề=Beyonce, Taylor Swift Dominate 2010 Grammy Awards|họ 1=Kreps|tên 1=Daniel|ngày tháng=February 1, 2010|work=Rolling Stone|ngày truy cập=February 13, 2012}}</ref> Trong buổi trao giải, cô trình bày "You Belong with Me" và "[[Rhiannon (bài hát)|Rhiannon]]" cùng [[Stevie Nicks]]. Giọng hát của cô nhận nhiều phản hồi tiêu cực và bị giới truyền thông chỉ trích.<ref name="montgomery1" /><ref>{{Chú thích web |họ 1=Kreps |tên 1=Daniel |tiêu đề=Taylor Swift's Label Lashes Out at Critics of Grammy Performance |url=http://www.rollingstone.com/music/news/taylor-swifts-label-lashes-out-at-critics-of-grammy-performance-20100204 |work=[[Rolling Stone]] |ngày truy cập=May 15, 2012 |ngày tháng=February 4, 2010}}</ref><ref name="NYTgrammy">{{cite news|url=http://www.nytimes.com/2010/02/02/arts/music/02taylor.html|title=For Young Superstar Taylor Swift, Big Wins Mean Innocence Lost|last=Caramanica|first=Jon|date=February 1, 2010|work=The New York Times|accessdate=May 15, 2012}}</ref> Swift là nghệ sĩ trẻ nhất đoạt giải Hiệp hội âm nhạc đồng quê cho "Nhà giải trí của năm",<ref>{{Chú thích web|họ 1=Kaufman|tên 1=Gil|tiêu đề=Taylor Swift Dominates CMA Awards|url=http://www.mtv.com/news/1626132/taylor-swift-dominates-cma-awards/|nhà xuất bản=MTV News|ngày truy cập=September 13, 2016|ngày tháng=November 12, 2009}}</ref> trong khi ''Fearless'' giành giải "Album của năm".<ref>{{Chú thích web|url=http://sev.prnewswire.com/music/20090406/CL9518106042009-1.html|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20090416165833/http://sev.prnewswire.com/music/20090406/CL9518106042009-1.html|ngày lưu trữ=April 16, 2009|tiêu đề=Taylor Swift Wins Album of the Year at Academy of Country Music Awards|ngày tháng=April 6, 2009|nhà xuất bản=Big Machine Records|via=[[PR Newswire]]|ngày truy cập=April 7, 2009}}</ref> [[Giải thưởng Âm nhạc Mỹ]] vinh danh Swift trong hạng mục "Nghệ sĩ của năm" và "Album đồng quê được yêu thích nhất".<ref>{{Chú thích web|họ 1=Ditzian|tên 1=Eric|tiêu đề=Taylor Swift, Michael Jackson Big Winners at American Music Awards|url=http://www.mtv.com/news/1626845/taylor-swift-michael-jackson-big-winners-at-american-music-awards/|nhà xuất bản=MTV|ngày truy cập=May 15, 2012|năm=2009}}</ref> ''Billboard'' trao cho Swift giải "[[Billboard Music Award|Nghệ sĩ của năm]]" 2009.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.billboard.com/articles/news/266432/2009-artists-of-the-year|tiêu đề=2009 Artists of the Year|work=Billboard|ngày tháng=December 10, 2009|ngày truy cập=May 21, 2012}}</ref>
Tại [[giải Grammy lần thứ 52]], ''Fearless'' thắng giải "Album nhạc đồng quê của năm" và giúp Taylor trở thành nghệ sĩ trẻ tuổi nhất giành giải "[[Giải Grammy cho Album của năm|Album của năm]]", trong khi "White Horse" giành thêm 2 giải cho "Bài hát nhạc đồng quê xuất sắc nhất" và "Trình diễn nhạc đồng quê giọng nữ xuất sắc nhất".<ref>{{Chú thích web|url=http://www.rollingstone.com/music/news/beyonce-taylor-swift-dominate-2010-grammy-awards-20100201|tiêu đề=Beyonce, Taylor Swift Dominate 2010 Grammy Awards|họ 1=Kreps|tên 1=Daniel|ngày tháng=February 1, 2010|work=Rolling Stone|ngày truy cập=February 13, 2012}}</ref> Trong buổi trao giải, cô trình bày "You Belong with Me" và "[[Rhiannon (bài hát)|Rhiannon]]" cùng [[Stevie Nicks]]. Giọng hát của cô nhận nhiều phản hồi tiêu cực và bị giới truyền thông chỉ trích.<ref name="montgomery1" /><ref>{{Chú thích web |họ 1=Kreps |tên 1=Daniel |tiêu đề=Taylor Swift's Label Lashes Out at Critics of Grammy Performance |url=http://www.rollingstone.com/music/news/taylor-swifts-label-lashes-out-at-critics-of-grammy-performance-20100204 |work=[[Rolling Stone]] |ngày truy cập=May 15, 2012 |ngày tháng=February 4, 2010}}</ref><ref name="NYTgrammy">{{cite news|url=http://www.nytimes.com/2010/02/02/arts/music/02taylor.html|title=For Young Superstar Taylor Swift, Big Wins Mean Innocence Lost|last=Caramanica|first=Jon|date=February 1, 2010|work=The New York Times|accessdate=May 15, 2012}}</ref> Taylor là nghệ sĩ trẻ nhất đoạt giải Hiệp hội âm nhạc đồng quê cho "Nhà giải trí của năm",<ref>{{Chú thích web|họ 1=Kaufman|tên 1=Gil|tiêu đề=Taylor Swift Dominates CMA Awards|url=http://www.mtv.com/news/1626132/taylor-swift-dominates-cma-awards/|nhà xuất bản=MTV News|ngày truy cập=September 13, 2016|ngày tháng=November 12, 2009}}</ref> trong khi ''Fearless'' giành giải "Album của năm".<ref>{{Chú thích web|url=http://sev.prnewswire.com/music/20090406/CL9518106042009-1.html|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20090416165833/http://sev.prnewswire.com/music/20090406/CL9518106042009-1.html|ngày lưu trữ=April 16, 2009|tiêu đề=Taylor Swift Wins Album of the Year at Academy of Country Music Awards|ngày tháng=April 6, 2009|nhà xuất bản=Big Machine Records|via=[[PR Newswire]]|ngày truy cập=April 7, 2009}}</ref> [[Giải thưởng Âm nhạc Mỹ]] vinh danh Taylor trong hạng mục "Nghệ sĩ của năm" và "Album đồng quê được yêu thích nhất".<ref>{{Chú thích web|họ 1=Ditzian|tên 1=Eric|tiêu đề=Taylor Swift, Michael Jackson Big Winners at American Music Awards|url=http://www.mtv.com/news/1626845/taylor-swift-michael-jackson-big-winners-at-american-music-awards/|nhà xuất bản=MTV|ngày truy cập=May 15, 2012|năm=2009}}</ref> ''Billboard'' trao cho Taylor giải "[[Billboard Music Award|Nghệ sĩ của năm]]" 2009.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.billboard.com/articles/news/266432/2009-artists-of-the-year|tiêu đề=2009 Artists of the Year|work=Billboard|ngày tháng=December 10, 2009|ngày truy cập=May 21, 2012}}</ref>


Cô xuất hiện trong đĩa đơn "[[Half of My Heart]]" cùng [[John Mayer]] trong album phòng thu ''[[Battle Studies (album)|Battle Studies]]''.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.mtv.com/news/1625724/john-mayer-talks-taylor-swift-collaboration-half-of-my-heart/|tiêu đề=John Mayer Talks Taylor Swift Collaboration 'Half of My Heart'|họ 1=Vena|tên 1=Jocelyn|ngày tháng=November 6, 2009|nhà xuất bản=MTV|ngày truy cập=May 15, 2012}}</ref> Cô đồng sáng tác và thu âm "[[Best Days of Your Life]]" với Kellie Pickler,<ref>{{Chú thích web|url=http://www.mtv.com/news/1608913/kellie-pickler-has-her-best-days-thanks-to-taylor-swift/|tiêu đề=Kellie Pickler Has Her 'Best Days' Thanks To Taylor Swift|nhà xuất bản=MTV|ngày truy cập=November 11, 2015}}</ref> trong khi góp giọng trong đĩa đơn "[[Two Is Better Than One]]" của [[Boys Like Girls]].<ref>{{Chú thích web|url=http://www.seventeen.com/celebrity/a6481/boys-like-girls-jingle-ball/|tiêu đề=Boys Like Girls Dish on Taylor Swift|ngày tháng=December 15, 2009|work=[[Seventeen (magazine)|Seventeen]]|ngày truy cập=May 15, 2012}}</ref> Swift cũng đồng sáng tác hai bài hát nữa cho [[Hannah Montana: The Movie (nhạc phim)|nhạc phim ''Hannah Montana: The Movie'']]—"[[You'll Always Find Your Way Back Home]]" và "[[Crazier (bài hát của Taylor Swift)|Crazier]]"—lần lượt với [[Martin Johnson (nhạc sĩ)|Martin Johnson]] và Robert Ellis Orrall.<ref>{{Chú thích web|url=https://itunes.apple.com/us/album/hannah-montana-movie-original/id305134968|tiêu đề=Hannah Montana: The Movie (Original Motion Picture Soundtrack) by Hannah Montana|nhà xuất bản=[[iTunes Store]]|ngày truy cập=August 2, 2016}}</ref> Cô đóng góp 2 bài hát—bao gồm "[[Today Was a Fairytale]]", đĩa đơn quán quân đầu tiên của cô tại [[Canadian Hot 100]]—trong [[Valentine's Day (nhạc phim)|album nhạc phim ''Valentine's Day'']].<ref name="slate">{{Chú thích web|url=http://www.mtv.com/news/1628827/new-taylor-swift-song-included-in-valentines-day-featurette/|tiêu đề=New Taylor Swift Song Included In 'Valentine's Day' Featurette|họ 1=Vena|tên 1=Jocelyn|ngày tháng=December 28, 2009|nhà xuất bản=MTV|ngày truy cập=November 11, 2015}}</ref><ref name="canada">{{cite news|url=http://www.billboard.com/artist/371422/taylor-swift/chart?f=793|title=Taylor Swift – Chart history on Canadian Hot 100|work=Billboard|accessdate=August 3, 2016}}</ref>
Cô xuất hiện trong đĩa đơn "[[Half of My Heart]]" cùng [[John Mayer]] trong album phòng thu ''[[Battle Studies (album)|Battle Studies]]''.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.mtv.com/news/1625724/john-mayer-talks-taylor-swift-collaboration-half-of-my-heart/|tiêu đề=John Mayer Talks Taylor Swift Collaboration 'Half of My Heart'|họ 1=Vena|tên 1=Jocelyn|ngày tháng=November 6, 2009|nhà xuất bản=MTV|ngày truy cập=May 15, 2012}}</ref> Cô đồng sáng tác và thu âm "[[Best Days of Your Life]]" với Kellie Pickler,<ref>{{Chú thích web|url=http://www.mtv.com/news/1608913/kellie-pickler-has-her-best-days-thanks-to-taylor-swift/|tiêu đề=Kellie Pickler Has Her 'Best Days' Thanks To Taylor Swift|nhà xuất bản=MTV|ngày truy cập=November 11, 2015}}</ref> trong khi góp giọng trong đĩa đơn "[[Two Is Better Than One]]" của [[Boys Like Girls]].<ref>{{Chú thích web|url=http://www.seventeen.com/celebrity/a6481/boys-like-girls-jingle-ball/|tiêu đề=Boys Like Girls Dish on Taylor Swift|ngày tháng=December 15, 2009|work=[[Seventeen (magazine)|Seventeen]]|ngày truy cập=May 15, 2012}}</ref> Taylor cũng đồng sáng tác hai bài hát nữa cho [[Hannah Montana: The Movie (nhạc phim)|nhạc phim ''Hannah Montana: The Movie'']]—"[[You'll Always Find Your Way Back Home]]" và "[[Crazier (bài hát của Taylor Swift)|Crazier]]"—lần lượt với [[Martin Johnson (nhạc sĩ)|Martin Johnson]] và Robert Ellis Orrall.<ref>{{Chú thích web|url=https://itunes.apple.com/us/album/hannah-montana-movie-original/id305134968|tiêu đề=Hannah Montana: The Movie (Original Motion Picture Soundtrack) by Hannah Montana|nhà xuất bản=[[iTunes Store]]|ngày truy cập=August 2, 2016}}</ref> Cô đóng góp 2 bài hát—bao gồm "[[Today Was a Fairytale]]", đĩa đơn quán quân đầu tiên của cô tại [[Canadian Hot 100]]—trong [[Valentine's Day (nhạc phim)|album nhạc phim ''Valentine's Day'']].<ref name="slate">{{Chú thích web|url=http://www.mtv.com/news/1628827/new-taylor-swift-song-included-in-valentines-day-featurette/|tiêu đề=New Taylor Swift Song Included In 'Valentine's Day' Featurette|họ 1=Vena|tên 1=Jocelyn|ngày tháng=December 28, 2009|nhà xuất bản=MTV|ngày truy cập=November 11, 2015}}</ref><ref name="canada">{{cite news|url=http://www.billboard.com/artist/371422/taylor-swift/chart?f=793|title=Taylor Swift – Chart history on Canadian Hot 100|work=Billboard|accessdate=August 3, 2016}}</ref>


Swift chuyển sang truyền hình trong một tập phim năm 2009 của ''[[CSI: Crime Scene Investigation]],'' vào vai một thiếu niên nổi loạn. ''The New York Times'' nhận thấy nhân vật này cho phép cô trở nên "nghịch ngợm đôi chút".<ref>{{cite news|url=http://artsbeat.blogs.nytimes.com/2009/03/06/omg-taylor-swift-does-csi/|title=OMG! Taylor Swift Does 'CSI'!|last=Caramanica|first=Jon|date=March 6, 2009|work=The New York Times|type=Blog|accessdate=May 7, 2012}}</ref> Cuối năm đó, cô chủ trì và trình diễn với vai trò khách mời trong một tập ''[[Saturday Night Live]]''.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.billboard.com/articles/columns/pop-shop/6429325/taylor-swift-saturday-night-live-host-flashback|tiêu đề=Remember When Taylor Swift Shined as 'Saturday Night Live' Host?|họ 1=Strecker|tên 1=Erin|ngày tháng=January 2, 2015|work=Billboard|ngày truy cập=January 15, 2015}}</ref> ''[[Entertainment Weekly]]'' gọi cô là "nhà chủ trì tuyệt nhất ''Saturday Night Live'' mùa này".<ref>{{Chú thích web |họ 1=Barrett |tên 1=Annie |url=http://watching-tv.ew.com/2009/11/08/taylor-swift-saturday-night-live/ |tiêu đề=Taylor Swift hosted the best 'Saturday Night Live' of the season so far&nbsp;... really!?! |work=Entertainment Weekly |ngày tháng=November 8, 2009 |ngày truy cập=May 7, 2012}}</ref> Trong lúc ghi hình cho ''[[Valentine's Day (phim 2010)|Valentine's Day]]'' vào tháng 10 năm 2009—vai diễn điện ảnh đầu tiên của Swift—cô hẹn hò cùng nam diễn viên [[Taylor Lautner]]. Họ chia tay vào cuối năm đó.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.people.com/people/article/0,,20333466,00.html|tiêu đề=Taylor & Taylor Romance Was Overblown, Says Source|họ 2=Sia|tên 2=Nicole|work=People|ngày truy cập=March 6, 2012|họ 1=Park|tên 1=Michael Y.|ngày tháng=December 29, 2009}}</ref><ref name="USW">{{Chú thích web|url=http://www.billboard.com/articles/news/954021/billboard-bits-taylor-swifts-offers-apology-to-taylor-lautner-christina|ngày tháng=October 10, 2012|ngày truy cập=August 2, 2016|tiêu đề=Billboard Bits: Taylor Swifts Offers 'Apology' To Taylor Lautner, Christina Aguilera Confirms Split|work=Billboard}}</ref> Trong bộ phim hài lãng mạn này, Swift hóa thân vào một cô bạn gái thiếu niên ngốc nghếch, vai diễn mà ''[[Los Angeles Times]]'' cảm thấy "có tiềm năng hài hước rất lớn",<ref>{{cite news|url=http://articles.latimes.com/2010/feb/12/entertainment/la-et-valentines-day12-2010feb12/2|title=Review: 'Valentine's Day' – Page 2|last=Sharkey|first=Betsy|date=February 12, 2010|work=[[Los Angeles Times]]|accessdate=July 30, 2012}}</ref> trong khi tờ ''[[Variety (tạp chí)|Variety]]'' lại chỉ trích "diễn xuất hoàn toàn vô hướng" của cô.<ref>{{cite news|url=http://variety.com/2010/film/reviews/valentine-s-day-1117942089/|title=Valentine's Day – Film Reviews|last=McCarthy|first=Todd|date=February 7, 2010|work=[[Variety (magazine)|Variety]]|accessdate=July 30, 2012}}</ref> Cuối năm 2010, cô hẹn hò với [[Jake Gyllenhaal]].<ref>{{Chú thích web|url=http://www.people.com/people/article/0,,20454920,00.html|tiêu đề=Taylor Swift & Jake Gyllenhaal Break Up: Source|họ 1=Hammel|tên 1=Sara|ngày tháng=January 4, 2011|work=People|ngày truy cập=March 6, 2012}}</ref>
Taylor chuyển sang truyền hình trong một tập phim năm 2009 của ''[[CSI: Crime Scene Investigation]],'' vào vai một thiếu niên nổi loạn. ''The New York Times'' nhận thấy nhân vật này cho phép cô trở nên "nghịch ngợm đôi chút".<ref>{{cite news|url=http://artsbeat.blogs.nytimes.com/2009/03/06/omg-taylor-swift-does-csi/|title=OMG! Taylor Swift Does 'CSI'!|last=Caramanica|first=Jon|date=March 6, 2009|work=The New York Times|type=Blog|accessdate=May 7, 2012}}</ref> Cuối năm đó, cô chủ trì và trình diễn với vai trò khách mời trong một tập ''[[Saturday Night Live]]''.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.billboard.com/articles/columns/pop-shop/6429325/taylor-swift-saturday-night-live-host-flashback|tiêu đề=Remember When Taylor Swift Shined as 'Saturday Night Live' Host?|họ 1=Strecker|tên 1=Erin|ngày tháng=January 2, 2015|work=Billboard|ngày truy cập=January 15, 2015}}</ref> ''[[Entertainment Weekly]]'' gọi cô là "nhà chủ trì tuyệt nhất ''Saturday Night Live'' mùa này".<ref>{{Chú thích web |họ 1=Barrett |tên 1=Annie |url=http://watching-tv.ew.com/2009/11/08/taylor-swift-saturday-night-live/ |tiêu đề=Taylor Swift hosted the best 'Saturday Night Live' of the season so far&nbsp;... really!?! |work=Entertainment Weekly |ngày tháng=November 8, 2009 |ngày truy cập=May 7, 2012}}</ref> Trong lúc ghi hình cho ''[[Valentine's Day (phim 2010)|Valentine's Day]]'' vào tháng 10 năm 2009—vai diễn điện ảnh đầu tiên của Taylor—cô hẹn hò cùng nam diễn viên [[Taylor Lautner]]. Họ chia tay vào cuối năm đó.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.people.com/people/article/0,,20333466,00.html|tiêu đề=Taylor & Taylor Romance Was Overblown, Says Source|họ 2=Sia|tên 2=Nicole|work=People|ngày truy cập=March 6, 2012|họ 1=Park|tên 1=Michael Y.|ngày tháng=December 29, 2009}}</ref><ref name="USW">{{Chú thích web|url=http://www.billboard.com/articles/news/954021/billboard-bits-taylor-swifts-offers-apology-to-taylor-lautner-christina|ngày tháng=October 10, 2012|ngày truy cập=August 2, 2016|tiêu đề=Billboard Bits: Taylor Swifts Offers 'Apology' To Taylor Lautner, Christina Aguilera Confirms Split|work=Billboard}}</ref> Trong bộ phim hài lãng mạn này, Taylor hóa thân vào một cô bạn gái thiếu niên ngốc nghếch, vai diễn mà ''[[Los Angeles Times]]'' cảm thấy "có tiềm năng hài hước rất lớn",<ref>{{cite news|url=http://articles.latimes.com/2010/feb/12/entertainment/la-et-valentines-day12-2010feb12/2|title=Review: 'Valentine's Day' – Page 2|last=Sharkey|first=Betsy|date=February 12, 2010|work=[[Los Angeles Times]]|accessdate=July 30, 2012}}</ref> trong khi tờ ''[[Variety (tạp chí)|Variety]]'' lại chỉ trích "diễn xuất hoàn toàn vô hướng" của cô.<ref>{{cite news|url=http://variety.com/2010/film/reviews/valentine-s-day-1117942089/|title=Valentine's Day – Film Reviews|last=McCarthy|first=Todd|date=February 7, 2010|work=[[Variety (magazine)|Variety]]|accessdate=July 30, 2012}}</ref> Cuối năm 2010, cô hẹn hò với [[Jake Gyllenhaal]].<ref>{{Chú thích web|url=http://www.people.com/people/article/0,,20454920,00.html|tiêu đề=Taylor Swift & Jake Gyllenhaal Break Up: Source|họ 1=Hammel|tên 1=Sara|ngày tháng=January 4, 2011|work=People|ngày truy cập=March 6, 2012}}</ref>


=== 2010–14: ''Speak Now'' và ''Red'' ===
=== 2010–14: ''Speak Now'' và ''Red'' ===
Tháng 8 năm 2010, Swift phát hành "[[Mine (bài hát)|Mine]]", mở đầu tại Hoa Kỳ ở vị trí thứ 3, giúp Swift là nữ nghệ sĩ thứ hai trong lịch sử Hot 100 (sau [[Mariah Carey]]) có nhiều bài hát mở màn top 5 trong cùng một năm, cùng với "Today Was a Fairytale".<ref name="Billboard">{{Chú thích web|url=http://www.billboard.com/articles/news/956910/taylor-swift-makes-sparkling-hot-100-entrance|tiêu đề=Taylor Swift Makes Sparkling Hot 100 Entrance|họ 1=Pietroluongo|tên 1=Silvio|ngày tháng=August 11, 2010|work=Billboard|ngày truy cập=July 25, 2016}}</ref> Bài hát này là đĩa đơn đầu tiên trích từ album phòng thu thứ ba, ''[[Speak Now]]'' bao gồm toàn bộ bài hát do cô tự sáng tác mà không có đồng tác giả.<ref name="NYT">{{cite news |url=http://www.nytimes.com/2010/10/24/arts/music/24swift.html|title=Taylor Swift, Angry on 'Speak Now' |last=Caramanica |first=Jon |work=The New York Times |date=October 20, 2010 |accessdate=October 23, 2010}}</ref> Album phát hành ngày 25 tháng 10 năm 2010,<ref name="ibtimes"/> dẫn đầu ''Billboard'' 200 với doanh số mở màn 1 triệu bản, là album thứ 16 làm được điều này.<ref>{{Chú thích web|họ 1=Kaufman|tên 1=Gil|tiêu đề=Taylor Swift's Speak Now Tops 1 Million In First Week|url=http://www.mtv.com/news/1651391/taylor-swifts-speak-now-tops-1-million-in-first-week/|nhà xuất bản=MTV News|ngày truy cập=August 8, 2016|ngày tháng=November 3, 2010}}</ref> Sau đó, đây là album kỹ thuật số bán chạy nhất bởi một nữ nghệ sĩ với 278.000 lượt tải trong một tuần lễ. Với thành tích này, Swift góp mặt vào ''Sách Kỷ lục Guinness Thế giới'' 2010; cô còn xuất hiện trong quyển sách khi 10 bài hát của ''Speak Now'' lọt vào ''Billboard'' Hot 100, giúp cô là nữ nghệ sĩ đầu tiên nắm giữ danh hiệu này.<ref>{{cite news|title=Fastest-selling digital album in the US by a female artist|url=http://www.guinnessworldrecords.com/world-records/fastest-selling-digital-album-in-the-us-by-a-female-artist/|accessdate=June 16, 2015|work=[[Guinness World Records]]}}</ref><ref>{{cite news|title=Most simultaneous US hot 100 hits by a female|url=http://www.guinnessworldrecords.com/world-records/most-simultaneous-us-hot-100-hits-by-a-female/|accessdate=June 16, 2015|work=Guinness World Records}}</ref> 3 trong số các đĩa đơn của album—"Mine", "[[Back to December]]" và "[[Mean (bài hát của Taylor Swift)|Mean]]"—vươn đến top 10 ở Canada.<ref name="canada" />
Tháng 8 năm 2010, Taylor phát hành "[[Mine (bài hát)|Mine]]", mở đầu tại Hoa Kỳ ở vị trí thứ 3, giúp Taylor là nữ nghệ sĩ thứ hai trong lịch sử Hot 100 (sau [[Mariah Carey]]) có nhiều bài hát mở màn top 5 trong cùng một năm, cùng với "Today Was a Fairytale".<ref name="Billboard">{{Chú thích web|url=http://www.billboard.com/articles/news/956910/taylor-swift-makes-sparkling-hot-100-entrance|tiêu đề=Taylor Swift Makes Sparkling Hot 100 Entrance|họ 1=Pietroluongo|tên 1=Silvio|ngày tháng=August 11, 2010|work=Billboard|ngày truy cập=July 25, 2016}}</ref> Bài hát này là đĩa đơn đầu tiên trích từ album phòng thu thứ ba, ''[[Speak Now]]'' bao gồm toàn bộ bài hát do cô tự sáng tác mà không có đồng tác giả.<ref name="NYT">{{cite news |url=http://www.nytimes.com/2010/10/24/arts/music/24swift.html|title=Taylor Swift, Angry on 'Speak Now' |last=Caramanica |first=Jon |work=The New York Times |date=October 20, 2010 |accessdate=October 23, 2010}}</ref> Album phát hành ngày 25 tháng 10 năm 2010,<ref name="ibtimes"/> dẫn đầu ''Billboard'' 200 với doanh số mở màn 1 triệu bản, là album thứ 16 làm được điều này.<ref>{{Chú thích web|họ 1=Kaufman|tên 1=Gil|tiêu đề=Taylor Swift's Speak Now Tops 1 Million In First Week|url=http://www.mtv.com/news/1651391/taylor-swifts-speak-now-tops-1-million-in-first-week/|nhà xuất bản=MTV News|ngày truy cập=August 8, 2016|ngày tháng=November 3, 2010}}</ref> Sau đó, đây là album kỹ thuật số bán chạy nhất bởi một nữ nghệ sĩ với 278.000 lượt tải trong một tuần lễ. Với thành tích này, Taylor góp mặt vào ''Sách Kỷ lục Guinness Thế giới'' 2010; cô còn xuất hiện trong quyển sách khi 10 bài hát của ''Speak Now'' lọt vào ''Billboard'' Hot 100, giúp cô là nữ nghệ sĩ đầu tiên nắm giữ danh hiệu này.<ref>{{cite news|title=Fastest-selling digital album in the US by a female artist|url=http://www.guinnessworldrecords.com/world-records/fastest-selling-digital-album-in-the-us-by-a-female-artist/|accessdate=June 16, 2015|work=[[Guinness World Records]]}}</ref><ref>{{cite news|title=Most simultaneous US hot 100 hits by a female|url=http://www.guinnessworldrecords.com/world-records/most-simultaneous-us-hot-100-hits-by-a-female/|accessdate=June 16, 2015|work=Guinness World Records}}</ref> 3 trong số các đĩa đơn của album—"Mine", "[[Back to December]]" và "[[Mean (bài hát của Taylor Swift)|Mean]]"—vươn đến top 10 ở Canada.<ref name="canada" />


Tại [[giải Grammy lần thứ 54]], "Mean" mang về cho Swift giải "Bài hát đồng quê xuất sắc nhất" và "Trình diễn đơn ca đồng quê xuất sắc nhất".<ref name="54th Grammys">{{Chú thích web |họ 1 = Wyland|tên 1 = Sarah|tiêu đề = Taylor Swift Takes Home Two GRAMMYs at Tribute-Filled Show|url = http://blog.gactv.com/blog/2012/02/12/taylor-swift-takes-home-two-grammys-at-tribute-filled-show/|nhà xuất bản = Great American Country|kiểu=Blog|ngày truy cập = February 13, 2012|ngày tháng = February 12, 2012|url lưu trữ = https://web.archive.org/web/20150906065943/http://blog.gactv.com/blog/2012/02/12/taylor-swift-takes-home-two-grammys-at-tribute-filled-show/|ngày lưu trữ = September 6, 2015}}</ref> Cô cũng trình bày bài hát này trong lễ trao giải,<ref>{{cite news |last=Suddath |first=Claire |title=Taylor Swift, "Mean" &#124; The Best and Worst of the 2012 Grammys |url=http://entertainment.time.com/2012/02/12/the-best-and-worst-of-the-2012-grammys/slide/taylor-swift-mean/#taylor-swift-mean |work=[[Time (magazine)|Time]] |accessdate=April 22, 2012 |date=February 12, 2012}}</ref> nơi Jayme Deerwester từ ''[[USA Today]]'' cảm thấy những lời chỉ trích từ năm 2010 dường như đã giúp cô "trở thành một nhạc sĩ và nhà trình diễn tốt hơn".<ref>{{cite news |last=Deerwester |first=Jayme |title=Adoration for Adele: 6 Grammys |url=http://usatoday30.usatoday.com/life/music/awards/grammys/story/2012-02-12/live-grammys-story-2012/53063460/1|work=[[USA Today]] |accessdate=April 22, 2012 |date=February 12, 2012}}</ref> Swift còn giành nhiều giải thưởng khác cho ''Speak Now'', được vinh danh là "Nhạc sĩ/Nghệ sĩ của năm" bởi Hiệp hội tác giả Nashville (2010 và 2011),<ref>{{Chú thích web|url=http://www.cmt.com/news/1650268/taylor-swift-named-nsais-songwriter-artist-of-the-year/|tiêu đề=Taylor Swift Named NSAI's Songwriter-Artist of the Year|họ 1=Shelburne|tên 1=Craig|ngày tháng=October 18, 2010|nhà xuất bản=CMT|ngày truy cập=November 21, 2015}}</ref><ref>{{Chú thích web|url=http://www.cmt.com/news/1672997/hot-dish-taylor-swift-sings-alan-jacksons-masterpiece-at-nashville-songwriters-celebration/|tiêu đề=News: Hot Dish: Taylor Swift Sings Alan Jackson's Masterpiece at Nashville Songwriters Celebration|họ 1=Smith|tên 1=Hazel|ngày tháng=October 24, 2011|nhà xuất bản=CMT|ngày truy cập=April 22, 2012}}</ref> "Người phụ nữ của năm" bởi ''Billboard'' (2011),<ref>{{Chú thích web|url=http://www.billboard.com/articles/news/464865/taylor-swift-billboards-woman-of-the-year|tiêu đề=Taylor Swift: Billboard's Woman of the Year|họ 1=Roland|tên 1=Tom|ngày tháng=December 2, 2011|trang=1|work=Billboard|ngày truy cập=May 15, 2012}}</ref> "Nhà giải trí của năm" bởi Học viện Âm nhạc đồng quê (2011 và 2012)<ref>{{cite news|url=https://www.yahoo.com/news/taylor-swift-wins-acm-entertainer-025913684.html|title=Taylor Swift wins ACM entertainer of the year|date=April 1, 2012|publisher=Yahoo!|agency=Associated Press|accessdate=May 15, 2012}}</ref> và Hiệp hội Âm nhạc đồng quê (2011).<ref>{{cite news|url=http://www.cbsnews.com/news/cma-awards-2011-taylor-swift-wins-entertainer-of-the-year/|title=CMA Awards 2011: Taylor Swift wins entertainer of the year|date=November 9, 2011|publisher=CBS News|accessdate=May 15, 2012}}</ref> Tại giải thưởng Âm nhạc Mỹ năm 2011, Swift thắng giải "Nghệ sĩ của năm" và "Album đồng quê được yêu thích nhất".<ref>{{Chú thích web|url=http://www.hollywoodreporter.com/news/ama-american-music-awards-katy-perry-bieber-264237|tiêu đề=AMAs 2011: Winners and Nominees Complete List|họ 1=Kellogg|tên 1=Jane|ngày tháng=November 20, 2011|work=[[The Hollywood Reporter]]|ngày truy cập=November 21, 2015}}</ref>
Tại [[giải Grammy lần thứ 54]], "Mean" mang về cho Taylor giải "Bài hát đồng quê xuất sắc nhất" và "Trình diễn đơn ca đồng quê xuất sắc nhất".<ref name="54th Grammys">{{Chú thích web |họ 1 = Wyland|tên 1 = Sarah|tiêu đề = Taylor Swift Takes Home Two GRAMMYs at Tribute-Filled Show|url = http://blog.gactv.com/blog/2012/02/12/taylor-swift-takes-home-two-grammys-at-tribute-filled-show/|nhà xuất bản = Great American Country|kiểu=Blog|ngày truy cập = February 13, 2012|ngày tháng = February 12, 2012|url lưu trữ = https://web.archive.org/web/20150906065943/http://blog.gactv.com/blog/2012/02/12/taylor-swift-takes-home-two-grammys-at-tribute-filled-show/|ngày lưu trữ = September 6, 2015}}</ref> Cô cũng trình bày bài hát này trong lễ trao giải,<ref>{{cite news |last=Suddath |first=Claire |title=Taylor Swift, "Mean" &#124; The Best and Worst of the 2012 Grammys |url=http://entertainment.time.com/2012/02/12/the-best-and-worst-of-the-2012-grammys/slide/taylor-swift-mean/#taylor-swift-mean |work=[[Time (magazine)|Time]] |accessdate=April 22, 2012 |date=February 12, 2012}}</ref> nơi Jayme Deerwester từ ''[[USA Today]]'' cảm thấy những lời chỉ trích từ năm 2010 dường như đã giúp cô "trở thành một nhạc sĩ và nhà trình diễn tốt hơn".<ref>{{cite news |last=Deerwester |first=Jayme |title=Adoration for Adele: 6 Grammys |url=http://usatoday30.usatoday.com/life/music/awards/grammys/story/2012-02-12/live-grammys-story-2012/53063460/1|work=[[USA Today]] |accessdate=April 22, 2012 |date=February 12, 2012}}</ref> Taylor còn giành nhiều giải thưởng khác cho ''Speak Now'', được vinh danh là "Nhạc sĩ/Nghệ sĩ của năm" bởi Hiệp hội tác giả Nashville (2010 và 2011),<ref>{{Chú thích web|url=http://www.cmt.com/news/1650268/taylor-swift-named-nsais-songwriter-artist-of-the-year/|tiêu đề=Taylor Swift Named NSAI's Songwriter-Artist of the Year|họ 1=Shelburne|tên 1=Craig|ngày tháng=October 18, 2010|nhà xuất bản=CMT|ngày truy cập=November 21, 2015}}</ref><ref>{{Chú thích web|url=http://www.cmt.com/news/1672997/hot-dish-taylor-swift-sings-alan-jacksons-masterpiece-at-nashville-songwriters-celebration/|tiêu đề=News: Hot Dish: Taylor Swift Sings Alan Jackson's Masterpiece at Nashville Songwriters Celebration|họ 1=Smith|tên 1=Hazel|ngày tháng=October 24, 2011|nhà xuất bản=CMT|ngày truy cập=April 22, 2012}}</ref> "Người phụ nữ của năm" bởi ''Billboard'' (2011),<ref>{{Chú thích web|url=http://www.billboard.com/articles/news/464865/taylor-swift-billboards-woman-of-the-year|tiêu đề=Taylor Swift: Billboard's Woman of the Year|họ 1=Roland|tên 1=Tom|ngày tháng=December 2, 2011|trang=1|work=Billboard|ngày truy cập=May 15, 2012}}</ref> "Nhà giải trí của năm" bởi Học viện Âm nhạc đồng quê (2011 và 2012)<ref>{{cite news|url=https://www.yahoo.com/news/taylor-swift-wins-acm-entertainer-025913684.html|title=Taylor Swift wins ACM entertainer of the year|date=April 1, 2012|publisher=Yahoo!|agency=Associated Press|accessdate=May 15, 2012}}</ref> và Hiệp hội Âm nhạc đồng quê (2011).<ref>{{cite news|url=http://www.cbsnews.com/news/cma-awards-2011-taylor-swift-wins-entertainer-of-the-year/|title=CMA Awards 2011: Taylor Swift wins entertainer of the year|date=November 9, 2011|publisher=CBS News|accessdate=May 15, 2012}}</ref> Tại giải thưởng Âm nhạc Mỹ năm 2011, Taylor thắng giải "Nghệ sĩ của năm" và "Album đồng quê được yêu thích nhất".<ref>{{Chú thích web|url=http://www.hollywoodreporter.com/news/ama-american-music-awards-katy-perry-bieber-264237|tiêu đề=AMAs 2011: Winners and Nominees Complete List|họ 1=Kellogg|tên 1=Jane|ngày tháng=November 20, 2011|work=[[The Hollywood Reporter]]|ngày truy cập=November 21, 2015}}</ref>


[[Tập tin:Taylor Swift Sydney.jpg|thumb|trái|Swift trình diễn trong [[Speak Now World Tour]] tại [[Sydney]] vào năm 2012]]
[[Tập tin:Taylor Swift Sydney.jpg|thumb|trái|Taylor trình diễn trong [[Speak Now World Tour]] tại [[Sydney]] vào năm 2012]]
Swift lưu diễn trong [[Speak Now World Tour]] từ tháng 2 năm 2011 đến tháng 3 năm 2012, thu về 123 triệu đô-la Mỹ.<ref name="billboard1">{{Chú thích web|url=http://www.billboard.com/biz/articles/news/touring/1098167/hot-tours-taylor-swift-george-strait-cirque-du-soleil|tiêu đề=Hot Tours: Taylor Swift, George Strait, Cirque Du Soleil|họ 1=Allen|tên 1=Bob|ngày tháng=March 29, 2012|work=Billboard|ngày truy cập=May 10, 2012}}</ref> [[Album trực tiếp]] đầu tiên của Swift, ''[[Speak Now World Tour: Live]]'' phát hành vào tháng 11 năm 2011.<ref name="SpeakNowLiveAlbum">{{Chú thích web |url=http://www.taylorswift.com/news/o1287965052241?post=taylor-to-release-live-cd-dvd#o1287965052241 |url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20111011141259/http://www.taylorswift.com/news/o1287965052241?post=taylor-to-release-live-cd-dvd|ngày lưu trữ=October 11, 2011|tiêu đề=Taylor Swift News and Blog |nhà xuất bản=taylorswift.com |ngày tháng=September 21, 2011 |ngày truy cập=September 21, 2011}}</ref> Tháng sau, Swift đóng góp 2 bài hát cho [[The Hunger Games: Songs from District 12 and Beyond|album nhạc phim ''The Hunger Games'']] "—"[[Safe & Sound (bài hát của Taylor Swift)|Safe & Sound]]" và "[[Eyes Open (bài hát)|Eyes Open]]". "Safe & Sound", do cô đồng sáng tác và thu âm cùng [[The Civil Wars]] và [[T-Bone Burnett]], giành chiến thắng ở hạng mục "Bài hát sáng tác cho phương tiện truyền thông xuất sắc nhất" tại [[giải Grammy lần thứ 55]]<ref>{{Chú thích web |họ 1=Herrera|tên 1=Monica|url=http://www.rollingstone.com/music/news/taylor-swift-arcade-fire-talk-hunger-games-20120315 |tiêu đề=Taylor Swift, Arcade Fire Talk 'Hunger Games' |work=Rolling Stone |ngày tháng=March 15, 2012 |ngày truy cập=May 10, 2012}}</ref> và mang về một đề cử [[Giải Quả cầu vàng cho ca khúc trong phim hay nhất|giải Quả cầu vàng cho "Ca khúc trong phim hay nhất"]].<ref name="Golden Globes">{{cite news |title=Golden Globe nominations: 'Lincoln' leads with 7 nods |url=http://www.ew.com/article/2012/12/13/golden-globe-nominations-announced-nbc|work=Entertainment Weekly|last=Labrecque|first=Jeff |accessdate=December 13, 2012 |date=December 12, 2012}}</ref> Sau khi góp giọng trong đĩa đơn "[[Both of Us]]" của [[B.o.B]],<ref>{{Chú thích web |tiêu đề=B.o.B Explains Origins of Taylor Swift Collaboration "Both of Us" |url=http://hiphopdx.com/news/id.19471/title.b-o-b-explains-origins-of-taylor-swift-collaboration-both-of-us |nhà xuất bản=HipHopDX |ngày truy cập=May 15, 2012 |họ 1=Horowitz|tên 1=Steven J.|ngày tháng=April 20, 2012}}</ref> Swift hẹn hò với [[gia tộc Kennedy|Conor Kennedy]] từ tháng 7 đến tháng 9 năm 2012.<ref>{{Chú thích web|họ 1=Toomedy|tên 1=Alyssa|url=http://www.eonline.com/news/357246/taylor-swift-and-conor-kennedy-breakup-anatomy-of-a-split|tiêu đề=Taylor Swift and Conor Kennedy Breakup: Anatomy of a Split|nhà xuất bản=E!|ngày truy cập=November 10, 2015}}</ref> Tháng 8, Swift ra mắt "[[We Are Never Ever Getting Back Together]]"—đĩa đơn đầu tiên từ album phòng thu thứ tư, ''[[Red (album của Taylor Swift)|Red]]''. Bài hát gặt hái thành công trên toàn cầu, đánh dấu vị trí quán quân đầu tiên của Swift ở Hoa Kỳ và New Zealand,<ref>{{Chú thích web |url=http://www.billboard.com/articles/news/480315/taylor-swift-scores-first-hot-100-no-1 |tiêu đề=Taylor Swift Scores First Hot 100 No.&nbsp;1 |họ 1=Trust|tên 1=Gary|work=Billboard|ngày tháng=August 22, 2012 |ngày truy cập=August 22, 2012}}</ref><ref>{{Chú thích web|tiêu đề=Discography Taylor Swift|url=http://charts.org.nz/showinterpret.asp?interpret=Taylor+Swift|nhà xuất bản=New Zealand Charts|ngày truy cập=July 26, 2016}}</ref> đồng thời đạt hạng nhất trên bảng xếp hạng [[iTunes]] chỉ sau 50 phút ra mắt, trở thành "Đĩa đơn bán chạy nhanh nhất lịch sử kỹ thuật số" trong quyển ''Sách Kỷ lục Guinness Thế giới''.<ref>{{cite news|last1=Lynch|first1=Kevin|title=Calvin Harris trumps Michael Jackson feat to join Taylor Swift, Rihanna and One Direction in Guinness World Records™ 2014 book|url=http://www.guinnessworldrecords.com/news/2013/9/calvin-harris-trumps-michael-jackson-feat-to-join-taylor-swift-rihanna-and-one-direction-in-guinness-world-records%E2%84%A2-2014-book-50998|accessdate=June 16, 2015|work=Guinness World Records|date=September 4, 2013}}</ref> Swift công bố đĩa đơn thứ hai, "[[Begin Again (bài hát của Taylor Swift)|Begin Again]]" vào tháng 10, đạt hạng 7 trên ''Billboard'' Hot 100.<ref name="chart history">{{cite news|title=Taylor Swift – Chart history|url=http://www.billboard.com/artist/371422/taylor+swift/chart?f=793|accessdate=July 26, 2016|work=Billboard}}</ref> Các đĩa đơn khác trích từ album bao gồm: "[[I Knew You Were Trouble]]", "[[22 (bài hát của Taylor Swift)|22]]", "[[Everything Has Changed]]", "[[The Last Time (bài hát của Taylor Swift)|The Last Time]]" và "[[Red (bài hát của Taylor Swift)|Red]]". "I Knew You Were Trouble" cũng là một thành công,<ref>{{Chú thích web|họ 1=Apodaca|tên 1=Joseph|tiêu đề=Billboard names Taylor Swift 2014's No. 1 music Money Maker&nbsp;— see who made the top 10|url=http://abc7.com/archive/9462346/|nhà xuất bản=KABC-TV|ngày truy cập=June 19, 2016}}</ref> khi vươn đến hạng hai ở Hoa Kỳ.<ref name="chart history" />
Taylor lưu diễn trong [[Speak Now World Tour]] từ tháng 2 năm 2011 đến tháng 3 năm 2012, thu về 123 triệu đô-la Mỹ.<ref name="billboard1">{{Chú thích web|url=http://www.billboard.com/biz/articles/news/touring/1098167/hot-tours-taylor-swift-george-strait-cirque-du-soleil|tiêu đề=Hot Tours: Taylor Swift, George Strait, Cirque Du Soleil|họ 1=Allen|tên 1=Bob|ngày tháng=March 29, 2012|work=Billboard|ngày truy cập=May 10, 2012}}</ref> [[Album trực tiếp]] đầu tiên của Taylor, ''[[Speak Now World Tour: Live]]'' phát hành vào tháng 11 năm 2011.<ref name="SpeakNowLiveAlbum">{{Chú thích web |url=http://www.taylorswift.com/news/o1287965052241?post=taylor-to-release-live-cd-dvd#o1287965052241 |url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20111011141259/http://www.taylorswift.com/news/o1287965052241?post=taylor-to-release-live-cd-dvd|ngày lưu trữ=October 11, 2011|tiêu đề=Taylor Swift News and Blog |nhà xuất bản=taylorswift.com |ngày tháng=September 21, 2011 |ngày truy cập=September 21, 2011}}</ref> Tháng sau, Taylor đóng góp 2 bài hát cho [[The Hunger Games: Songs from District 12 and Beyond|album nhạc phim ''The Hunger Games'']] "—"[[Safe & Sound (bài hát của Taylor Swift)|Safe & Sound]]" và "[[Eyes Open (bài hát)|Eyes Open]]". "Safe & Sound", do cô đồng sáng tác và thu âm cùng [[The Civil Wars]] và [[T-Bone Burnett]], giành chiến thắng ở hạng mục "Bài hát sáng tác cho phương tiện truyền thông xuất sắc nhất" tại [[giải Grammy lần thứ 55]]<ref>{{Chú thích web |họ 1=Herrera|tên 1=Monica|url=http://www.rollingstone.com/music/news/taylor-swift-arcade-fire-talk-hunger-games-20120315 |tiêu đề=Taylor Swift, Arcade Fire Talk 'Hunger Games' |work=Rolling Stone |ngày tháng=March 15, 2012 |ngày truy cập=May 10, 2012}}</ref> và mang về một đề cử [[Giải Quả cầu vàng cho ca khúc trong phim hay nhất|giải Quả cầu vàng cho "Ca khúc trong phim hay nhất"]].<ref name="Golden Globes">{{cite news |title=Golden Globe nominations: 'Lincoln' leads with 7 nods |url=http://www.ew.com/article/2012/12/13/golden-globe-nominations-announced-nbc|work=Entertainment Weekly|last=Labrecque|first=Jeff |accessdate=December 13, 2012 |date=December 12, 2012}}</ref> Sau khi góp giọng trong đĩa đơn "[[Both of Us]]" của [[B.o.B]],<ref>{{Chú thích web |tiêu đề=B.o.B Explains Origins of Taylor Swift Collaboration "Both of Us" |url=http://hiphopdx.com/news/id.19471/title.b-o-b-explains-origins-of-taylor-swift-collaboration-both-of-us |nhà xuất bản=HipHopDX |ngày truy cập=May 15, 2012 |họ 1=Horowitz|tên 1=Steven J.|ngày tháng=April 20, 2012}}</ref> Taylor hẹn hò với [[gia tộc Kennedy|Conor Kennedy]] từ tháng 7 đến tháng 9 năm 2012.<ref>{{Chú thích web|họ 1=Toomedy|tên 1=Alyssa|url=http://www.eonline.com/news/357246/taylor-swift-and-conor-kennedy-breakup-anatomy-of-a-split|tiêu đề=Taylor Swift and Conor Kennedy Breakup: Anatomy of a Split|nhà xuất bản=E!|ngày truy cập=November 10, 2015}}</ref> Tháng 8, Taylor ra mắt "[[We Are Never Ever Getting Back Together]]"—đĩa đơn đầu tiên từ album phòng thu thứ tư, ''[[Red (album của Taylor Swift)|Red]]''. Bài hát gặt hái thành công trên toàn cầu, đánh dấu vị trí quán quân đầu tiên của Taylor ở Hoa Kỳ và New Zealand,<ref>{{Chú thích web |url=http://www.billboard.com/articles/news/480315/taylor-swift-scores-first-hot-100-no-1 |tiêu đề=Taylor Swift Scores First Hot 100 No.&nbsp;1 |họ 1=Trust|tên 1=Gary|work=Billboard|ngày tháng=August 22, 2012 |ngày truy cập=August 22, 2012}}</ref><ref>{{Chú thích web|tiêu đề=Discography Taylor Swift|url=http://charts.org.nz/showinterpret.asp?interpret=Taylor+Swift|nhà xuất bản=New Zealand Charts|ngày truy cập=July 26, 2016}}</ref> đồng thời đạt hạng nhất trên bảng xếp hạng [[iTunes]] chỉ sau 50 phút ra mắt, trở thành "Đĩa đơn bán chạy nhanh nhất lịch sử kỹ thuật số" trong quyển ''Sách Kỷ lục Guinness Thế giới''.<ref>{{cite news|last1=Lynch|first1=Kevin|title=Calvin Harris trumps Michael Jackson feat to join Taylor Swift, Rihanna and One Direction in Guinness World Records™ 2014 book|url=http://www.guinnessworldrecords.com/news/2013/9/calvin-harris-trumps-michael-jackson-feat-to-join-taylor-swift-rihanna-and-one-direction-in-guinness-world-records%E2%84%A2-2014-book-50998|accessdate=June 16, 2015|work=Guinness World Records|date=September 4, 2013}}</ref> Taylor công bố đĩa đơn thứ hai, "[[Begin Again (bài hát của Taylor Swift)|Begin Again]]" vào tháng 10, đạt hạng 7 trên ''Billboard'' Hot 100.<ref name="chart history">{{cite news|title=Taylor Swift – Chart history|url=http://www.billboard.com/artist/371422/taylor+swift/chart?f=793|accessdate=July 26, 2016|work=Billboard}}</ref> Các đĩa đơn khác trích từ album bao gồm: "[[I Knew You Were Trouble]]", "[[22 (bài hát của Taylor Swift)|22]]", "[[Everything Has Changed]]", "[[The Last Time (bài hát của Taylor Swift)|The Last Time]]" và "[[Red (bài hát của Taylor Swift)|Red]]". "I Knew You Were Trouble" cũng là một thành công,<ref>{{Chú thích web|họ 1=Apodaca|tên 1=Joseph|tiêu đề=Billboard names Taylor Swift 2014's No. 1 music Money Maker&nbsp;— see who made the top 10|url=http://abc7.com/archive/9462346/|nhà xuất bản=KABC-TV|ngày truy cập=June 19, 2016}}</ref> khi vươn đến hạng hai ở Hoa Kỳ.<ref name="chart history" />


''Red'' phát hành ngày 22 tháng 10 năm 2012.<ref name="ibtimes"/> Album đạt thành công về thương mại lẫn chuyên môn, sáp nhập nhiều thể loại mới, bao gồm [[heartland rock]], [[dubstep]] và [[dance-pop]].<ref name="pretty lies" /> ''Red'' mở đầu tại vị trí quán quân ''Billboard'' 200 với 1,21 triệu bản, lượng doanh số ở tuần ra mắt cao nhất trong một thập niên, giúp Swift là nữ nghệ sĩ đầu tiên có hai album bán trên một triệu bản trong tuần lên kệ, một kỷ lục được ghi nhận trong ''Sách Kỷ lục Guinness Thế giới''.<ref>{{Chú thích web |url=http://www.billboard.com/articles/news/474400/taylor-swifts-red-sells-121-million-biggest-sales-week-for-an-album-since-2002 |tiêu đề=Taylor Swift's 'Red' Sells 1.21 Million; Biggest Sales Week for an Album Since 2002 |work=Billboard |ngày tháng=September 14, 2009 |ngày truy cập=November 7, 2012}}</ref><ref>{{cite news|last1=Greenwald|first1=David|title=Taylor Swift, Rihanna, Justin Bieber Among 2014 Guinness Record-Setters|url=http://www.billboard.com/articles/news/5687212/taylor-swift-rihanna-justin-bieber-among-2014-guinness-record-setters|accessdate=July 27, 2016|work=Billboard|date=September 6, 2013}}</ref> Để quảng bá cho album, cô thực hiện chuyến lưu diễn [[The Red Tour]], kéo dài từ tháng 3 năm 2013 đến tháng 6 năm 2014, thu về 150 triệu đô-la Mỹ.<ref name=":1">{{Chú thích web|tên 1=Bob |họ 1=Allen |url=http://www.billboard.com/articles/news/6150193/taylor-swift-red-all-time-country-tour |tiêu đề=Taylor Swift's Red Wraps as All-Time Country Tour |work=Billboard |ngày tháng=July 3, 2014 |ngày truy cập=April 11, 2015}}</ref> ''Red'' mang về nhiều giải thưởng, bao gồm 4 đề cử tại [[giải Grammy lần thứ 55]].<ref>{{cite news|url=http://www.latimes.com/entertainment/music/la-et-ms-grammy-nominations-winners-list-story.html#page=1|title=Grammys 2014: The complete list of nominees and winners|date=January 26, 2014|work=Los Angeles Times|accessdate=January 25, 2015}}</ref> "I Knew You Were Trouble" thắng giải "Video xuất sắc nhất của nữ nghệ sĩ" tại [[Giải Video âm nhạc của MTV năm 2013]].<ref>{{Chú thích web|url=http://www.ew.com/article/2013/08/25/vmas-winners-list|tiêu đề=VMAs: The 2013 Winner's List|ngày tháng=August 25, 2013|work=Entertainment Weekly|ngày truy cập=August 25, 2013}}</ref> Giải thưởng Âm nhạc Mỹ vinh danh cô là "Nữ nghệ sĩ đồng quê xuất sắc nhất" vào năm 2012 và "Nghệ sĩ của năm" tại lễ trao giải năm 2013.<ref>{{cite news|url=http://www.huffingtonpost.com/2012/11/19/taylor-swift-ama-performa_n_2158758.html|title=Taylor Swift AMA Awards 2012: Pop Star Performs 'I Knew You Were Trouble' (Video)|last=Gregoire|first=Carolyn|date=November 19, 2012|work=[[The Huffington Post]]|accessdate=June 10, 2013}}</ref><ref>{{Chú thích web|url=http://www.billboard.com/articles/news/5800699/taylor-swift-justin-timberlake-american-music-awards-2013-winners|tiêu đề=Taylor Swift & Justin Timberlake Win Big at American Music Awards|họ 1=Payne|tên 1=Chris|ngày tháng=November 25, 2013|work=Billboard|ngày truy cập=November 21, 2015}}</ref> Swift thắng giải "Nhạc sĩ/Nghệ sĩ của năm" của Hiệp hội tác giả Nashville lần thứ 5 và 6 liên tiếp vào năm 2012 và 2013.<ref>{{Chú thích web|tiêu đề=NSAI Songwriter/Artists of the Year|url=https://www.nashvillesongwriters.com/nsai-songwriterartists-year|nhà xuất bản=[[Nashville Songwriters Association International]]|ngày truy cập=August 2, 2016}}</ref> Hiệp hội còn trao Swift giải Pinnacle bởi những thành công "độc nhất" của cô, giúp cô trở thành người thứ hai nhận giải sau [[Garth Brooks]].<ref>{{cite news |url=http://www.nytimes.com/2013/11/08/arts/music/at-country-music-awards-swift-is-celebrated.html |title=Country Awards Hold Swift Close |last=Caramanica |first=Jon |work=The New York Times |date=November 7, 2013 |accessdate=April 3, 2014}}</ref>
''Red'' phát hành ngày 22 tháng 10 năm 2012.<ref name="ibtimes"/> Album đạt thành công về thương mại lẫn chuyên môn, sáp nhập nhiều thể loại mới, bao gồm [[heartland rock]], [[dubstep]] và [[dance-pop]].<ref name="pretty lies" /> ''Red'' mở đầu tại vị trí quán quân ''Billboard'' 200 với 1,21 triệu bản, lượng doanh số ở tuần ra mắt cao nhất trong một thập niên, giúp Taylor là nữ nghệ sĩ đầu tiên có hai album bán trên một triệu bản trong tuần lên kệ, một kỷ lục được ghi nhận trong ''Sách Kỷ lục Guinness Thế giới''.<ref>{{Chú thích web |url=http://www.billboard.com/articles/news/474400/taylor-swifts-red-sells-121-million-biggest-sales-week-for-an-album-since-2002 |tiêu đề=Taylor Swift's 'Red' Sells 1.21 Million; Biggest Sales Week for an Album Since 2002 |work=Billboard |ngày tháng=September 14, 2009 |ngày truy cập=November 7, 2012}}</ref><ref>{{cite news|last1=Greenwald|first1=David|title=Taylor Swift, Rihanna, Justin Bieber Among 2014 Guinness Record-Setters|url=http://www.billboard.com/articles/news/5687212/taylor-swift-rihanna-justin-bieber-among-2014-guinness-record-setters|accessdate=July 27, 2016|work=Billboard|date=September 6, 2013}}</ref> Để quảng bá cho album, cô thực hiện chuyến lưu diễn [[The Red Tour]], kéo dài từ tháng 3 năm 2013 đến tháng 6 năm 2014, thu về 150 triệu đô-la Mỹ.<ref name=":1">{{Chú thích web|tên 1=Bob |họ 1=Allen |url=http://www.billboard.com/articles/news/6150193/taylor-swift-red-all-time-country-tour |tiêu đề=Taylor Swift's Red Wraps as All-Time Country Tour |work=Billboard |ngày tháng=July 3, 2014 |ngày truy cập=April 11, 2015}}</ref> ''Red'' mang về nhiều giải thưởng, bao gồm 4 đề cử tại [[giải Grammy lần thứ 55]].<ref>{{cite news|url=http://www.latimes.com/entertainment/music/la-et-ms-grammy-nominations-winners-list-story.html#page=1|title=Grammys 2014: The complete list of nominees and winners|date=January 26, 2014|work=Los Angeles Times|accessdate=January 25, 2015}}</ref> "I Knew You Were Trouble" thắng giải "Video xuất sắc nhất của nữ nghệ sĩ" tại [[Giải Video âm nhạc của MTV năm 2013]].<ref>{{Chú thích web|url=http://www.ew.com/article/2013/08/25/vmas-winners-list|tiêu đề=VMAs: The 2013 Winner's List|ngày tháng=August 25, 2013|work=Entertainment Weekly|ngày truy cập=August 25, 2013}}</ref> Giải thưởng Âm nhạc Mỹ vinh danh cô là "Nữ nghệ sĩ đồng quê xuất sắc nhất" vào năm 2012 và "Nghệ sĩ của năm" tại lễ trao giải năm 2013.<ref>{{cite news|url=http://www.huffingtonpost.com/2012/11/19/taylor-swift-ama-performa_n_2158758.html|title=Taylor Swift AMA Awards 2012: Pop Star Performs 'I Knew You Were Trouble' (Video)|last=Gregoire|first=Carolyn|date=November 19, 2012|work=[[The Huffington Post]]|accessdate=June 10, 2013}}</ref><ref>{{Chú thích web|url=http://www.billboard.com/articles/news/5800699/taylor-swift-justin-timberlake-american-music-awards-2013-winners|tiêu đề=Taylor Swift & Justin Timberlake Win Big at American Music Awards|họ 1=Payne|tên 1=Chris|ngày tháng=November 25, 2013|work=Billboard|ngày truy cập=November 21, 2015}}</ref> Taylor thắng giải "Nhạc sĩ/Nghệ sĩ của năm" của Hiệp hội tác giả Nashville lần thứ 5 và 6 liên tiếp vào năm 2012 và 2013.<ref>{{Chú thích web|tiêu đề=NSAI Songwriter/Artists of the Year|url=https://www.nashvillesongwriters.com/nsai-songwriterartists-year|nhà xuất bản=[[Nashville Songwriters Association International]]|ngày truy cập=August 2, 2016}}</ref> Hiệp hội còn trao Taylor giải Pinnacle bởi những thành công "độc nhất" của cô, giúp cô trở thành người thứ hai nhận giải sau [[Garth Brooks]].<ref>{{cite news |url=http://www.nytimes.com/2013/11/08/arts/music/at-country-music-awards-swift-is-celebrated.html |title=Country Awards Hold Swift Close |last=Caramanica |first=Jon |work=The New York Times |date=November 7, 2013 |accessdate=April 3, 2014}}</ref>


Trong năm 2013, Swift đồng sáng tác "[[Sweeter Than Fiction]]" cùng [[Jack Antonoff]] cho nhạc phim ''[[One Chance (phim)|One Chance]]'' và giành một đề cử "Bài hát trong phim hay nhất" tại [[Giải Quả cầu vàng lần thứ 71|mùa giải Quả cầu vàng lần thứ 71]].<ref>{{Chú thích web |họ 1=Labrecque|tên 1=Jeff|url=http://www.ew.com/article/2013/12/12/golden-globe-nominations-2013 |tiêu đề='12 Years a Slave' and 'American Hustle' lead Golden Globe nominees |work=Entertainment Weekly |ngày tháng=December 12, 2013 |ngày truy cập=December 12, 2013}}</ref> Cô góp giọng trong bài hát "[[Highway Don't Care]]" của [[Tim McGraw]] cùng phần guitar của Urban.<ref>{{Chú thích web |họ 1=Bonaguro|tên 1=Alison |url=http://www.cmt.com/news/1668771/offstage-taylor-swift-covers-fall-out-boy/ |tiêu đề=News: Offstage: Tim McGraw Wanted to Make Taylor Swift Duet an Event |nhà xuất bản=CMT |ngày tháng=January 25, 2013 |ngày truy cập=February 25, 2013}}</ref> Swift trình bày "[[As Tears Go By (bài hát)|As Tears Go By]]" với [[The Rolling Stones]] tại Chicago trong chuyến lưu diễn [[50 & Counting]].<ref>{{Chú thích web |họ 1 = Blistein|tên 1 = Doyle|url = http://www.rollingstone.com/music/videos/taylor-swift-joins-rolling-stones-for-as-tears-go-by-20130604|tiêu đề = Taylor Swift Joins Rolling Stones for 'As Tears Go By'|work = Rolling Stone|ngày tháng = June 4, 2013|ngày truy cập = June 10, 2013}}</ref> Cô còn tham gia cùng [[Florida Georgia Line]] trên sân khấu [[Country Radio Seminar]] 2013 để trình diễn ca khúc "[[Cruise (bài hát)|Cruise]]".<ref>{{Chú thích web |url=http://tasteofcountry.com/taylor-swift-florida-georgia-line-perform-cruise/ |tiêu đề=Taylor Swift Joins Florida Georgia Line Onstage for 'Cruise' |work=Taste of Country |ngày tháng=March 2, 2013 |ngày truy cập=March 29, 2013}}</ref> Bên cạnh âm nhạc, Swift lồng tiếng cho nhân vật Audrey trong ''[[The Lorax (phim)|The Lorax]]'' (2012),<ref>{{cite news|last1=Collin|first1=Robbie|title=The Lorax, review|url=http://www.telegraph.co.uk/culture/film/filmreviews/9429666/The-Lorax-review.html|accessdate=August 3, 2016|work=The Daily Telegraph|date=July 26, 2012}}</ref> xuất hiện trong loạt phim hài kịch tình huống ''[[New Girl]]'' (2013)<ref>{{Chú thích web|url=http://www.ew.com/article/2013/05/01/taylor-swift-new-girl-first-look|tiêu đề=Taylor Swift says 'I do' to 'New Girl'|ngày tháng=May 1, 2013|work=Entertainment Weekly|họ 1=Beard|tên 1=Lanford|ngày truy cập=August 4, 2016}}</ref> và tham gia bộ phim ''[[The Giver (phim)|The Giver]]'' (2014).<ref>{{Chú thích web|url=http://www.ew.com/article/2013/09/27/taylor-swift-the-giver-movie|tiêu đề=Taylor Swift will co-star in long-awaited adaptation of 'The Giver'|ngày tháng=September 27, 2013|work=Entertainment Weekly|họ 1=Busis|tên 1=Hillary|ngày truy cập=August 2, 2016}}</ref> Cô có mối quan hệ tình cảm cùng [[Harry Styles]] từ tháng 10 năm 2012 đến tháng 1 năm 2013.<ref>{{Chú thích web|ngày tháng=December 30, 2014|tiêu đề=Taylor Swift's Boyfriend Timeline: 10 Relationships & Their Songs|url=http://www.billboard.com/photos/1484087/taylor-swifts-boyfriend-timeline-10-relationships-their-songs/2|work=Billboard|access-date=August 26, 2016}}</ref>
Trong năm 2013, Taylor đồng sáng tác "[[Sweeter Than Fiction]]" cùng [[Jack Antonoff]] cho nhạc phim ''[[One Chance (phim)|One Chance]]'' và giành một đề cử "Bài hát trong phim hay nhất" tại [[Giải Quả cầu vàng lần thứ 71|mùa giải Quả cầu vàng lần thứ 71]].<ref>{{Chú thích web |họ 1=Labrecque|tên 1=Jeff|url=http://www.ew.com/article/2013/12/12/golden-globe-nominations-2013 |tiêu đề='12 Years a Slave' and 'American Hustle' lead Golden Globe nominees |work=Entertainment Weekly |ngày tháng=December 12, 2013 |ngày truy cập=December 12, 2013}}</ref> Cô góp giọng trong bài hát "[[Highway Don't Care]]" của [[Tim McGraw]] cùng phần guitar của Urban.<ref>{{Chú thích web |họ 1=Bonaguro|tên 1=Alison |url=http://www.cmt.com/news/1668771/offstage-taylor-swift-covers-fall-out-boy/ |tiêu đề=News: Offstage: Tim McGraw Wanted to Make Taylor Swift Duet an Event |nhà xuất bản=CMT |ngày tháng=January 25, 2013 |ngày truy cập=February 25, 2013}}</ref> Taylor trình bày "[[As Tears Go By (bài hát)|As Tears Go By]]" với [[The Rolling Stones]] tại Chicago trong chuyến lưu diễn [[50 & Counting]].<ref>{{Chú thích web |họ 1 = Blistein|tên 1 = Doyle|url = http://www.rollingstone.com/music/videos/taylor-swift-joins-rolling-stones-for-as-tears-go-by-20130604|tiêu đề = Taylor Swift Joins Rolling Stones for 'As Tears Go By'|work = Rolling Stone|ngày tháng = June 4, 2013|ngày truy cập = June 10, 2013}}</ref> Cô còn tham gia cùng [[Florida Georgia Line]] trên sân khấu [[Country Radio Seminar]] 2013 để trình diễn ca khúc "[[Cruise (bài hát)|Cruise]]".<ref>{{Chú thích web |url=http://tasteofcountry.com/taylor-swift-florida-georgia-line-perform-cruise/ |tiêu đề=Taylor Swift Joins Florida Georgia Line Onstage for 'Cruise' |work=Taste of Country |ngày tháng=March 2, 2013 |ngày truy cập=March 29, 2013}}</ref> Bên cạnh âm nhạc, Taylor lồng tiếng cho nhân vật Audrey trong ''[[The Lorax (phim)|The Lorax]]'' (2012),<ref>{{cite news|last1=Collin|first1=Robbie|title=The Lorax, review|url=http://www.telegraph.co.uk/culture/film/filmreviews/9429666/The-Lorax-review.html|accessdate=August 3, 2016|work=The Daily Telegraph|date=July 26, 2012}}</ref> xuất hiện trong loạt phim hài kịch tình huống ''[[New Girl]]'' (2013)<ref>{{Chú thích web|url=http://www.ew.com/article/2013/05/01/taylor-swift-new-girl-first-look|tiêu đề=Taylor Swift says 'I do' to 'New Girl'|ngày tháng=May 1, 2013|work=Entertainment Weekly|họ 1=Beard|tên 1=Lanford|ngày truy cập=August 4, 2016}}</ref> và tham gia bộ phim ''[[The Giver (phim)|The Giver]]'' (2014).<ref>{{Chú thích web|url=http://www.ew.com/article/2013/09/27/taylor-swift-the-giver-movie|tiêu đề=Taylor Swift will co-star in long-awaited adaptation of 'The Giver'|ngày tháng=September 27, 2013|work=Entertainment Weekly|họ 1=Busis|tên 1=Hillary|ngày truy cập=August 2, 2016}}</ref> Cô có mối quan hệ tình cảm cùng [[Harry Styles]] từ tháng 10 năm 2012 đến tháng 1 năm 2013.<ref>{{Chú thích web|ngày tháng=December 30, 2014|tiêu đề=Taylor Swift's Boyfriend Timeline: 10 Relationships & Their Songs|url=http://www.billboard.com/photos/1484087/taylor-swifts-boyfriend-timeline-10-relationships-their-songs/2|work=Billboard|access-date=August 26, 2016}}</ref>


=== 2014–2015: ''1989'' ===
=== 2014–2015: ''1989'' ===
Dòng 112: Dòng 112:
{{Listen|filename=Taylor Swift - Blank Space (audio sample).ogg|title="Blank Space"|description="Blank Space" là một bài hát của Swift thuộc thể loại [[electropop]] có chịu ảnh hưởng của thể loại pop tối giản}}
{{Listen|filename=Taylor Swift - Blank Space (audio sample).ogg|title="Blank Space"|description="Blank Space" là một bài hát của Swift thuộc thể loại [[electropop]] có chịu ảnh hưởng của thể loại pop tối giản}}


Vào [[tháng 3]] năm [[2014]], Swift chuyển đến [[Thành phố New York]].<ref>{{cite news | url=http://www.theatlantic.com/entertainment/archive/2014/03/taylor-swift-moves-into-nyc-apartment-built-over-mysterious-river-of-pink-slime/359891/ | title=Taylor Swift Moves into NYC Apartment Built Over Mysterious River of Pink Slime | work=[[The Atlantic]] | date=March 31, 2014 | accessdate=July 31, 2016 |last=Peterson|first=Price}}</ref> Trong thời gian này, cô thực hiện album phòng thu thứ 5, ''[[1989 (album của Taylor Swift)|1989]]'' với các đồng sự Antonoff, Martin, Shellback, [[Imogen Heap]], [[Ryan Tedder]] và Ali Payami.<ref>{{cite AV media notes|title=1989|others=Taylor Swift|year=2014|type=ghi chú CD|publisher=Big Machine Records|id=BMRBD0500A}}</ref> Cô quảng bá album này trong nhiều chiến dịch, bao gồm những buổi nghe album dành cho người hâm mộ, mang tên "''1989'' Secret Sessions".<ref>{{Chú thích web|url=http://www.billboard.com/articles/columns/pop-shop/6288945/taylor-swift-1989-secret-sessions-behind-the-scenes-video|ngày tháng=October 16, 2014|họ 1=Stutz|tên 1=Colin|ngày truy cập=August 2, 2016|tiêu đề=Watch Taylor Swift's '1989' Secret Sessions Behind The Scenes Video|work=Billboard}}</ref> Được Swift mô tả là "album mang tư liệu pop chính thức đầu tiên", ''[[1989 (album của Taylor Swift)|1989]]'' đánh dấu sự thay đổi so với những album nhạc đồng quê trước đây.<ref name=usatoday>{{Chú thích web|họ 1=Mansfield|tên 1=Brian|tiêu đề=Taylor Swift debuts 'Shake It Off,' reveals '1989' album|url=http://www.usatoday.com/story/life/music/2014/08/18/taylor-swift-yahoo-live-stream/14242387/|newspaper=[[USA Today]]|ngày truy cập=August 19, 2014|ngày tháng=August 18, 2014}}</ref> ''[[1989 (album của Taylor Swift)|1989]]'' ra mắt ngày 27 tháng 12 năm 2014 cùng những đánh giá tích cực.<ref name="ibtimes" /><ref>{{Chú thích web|tiêu đề=1989 by Taylor Swift|url=http://www.metacritic.com/music/1989/taylor-swift|nhà xuất bản=[[Metacritic]]|ngày truy cập=August 15, 2016}}</ref>
Vào [[tháng 3]] năm [[2014]], Taylor chuyển đến [[Thành phố New York]].<ref>{{cite news | url=http://www.theatlantic.com/entertainment/archive/2014/03/taylor-swift-moves-into-nyc-apartment-built-over-mysterious-river-of-pink-slime/359891/ | title=Taylor Swift Moves into NYC Apartment Built Over Mysterious River of Pink Slime | work=[[The Atlantic]] | date=March 31, 2014 | accessdate=July 31, 2016 |last=Peterson|first=Price}}</ref> Trong thời gian này, cô thực hiện album phòng thu thứ 5, ''[[1989 (album của Taylor Swift)|1989]]'' với các đồng sự Antonoff, Martin, Shellback, [[Imogen Heap]], [[Ryan Tedder]] và Ali Payami.<ref>{{cite AV media notes|title=1989|others=Taylor Swift|year=2014|type=ghi chú CD|publisher=Big Machine Records|id=BMRBD0500A}}</ref> Cô quảng bá album này trong nhiều chiến dịch, bao gồm những buổi nghe album dành cho người hâm mộ, mang tên "''1989'' Secret Sessions".<ref>{{Chú thích web|url=http://www.billboard.com/articles/columns/pop-shop/6288945/taylor-swift-1989-secret-sessions-behind-the-scenes-video|ngày tháng=October 16, 2014|họ 1=Stutz|tên 1=Colin|ngày truy cập=August 2, 2016|tiêu đề=Watch Taylor Swift's '1989' Secret Sessions Behind The Scenes Video|work=Billboard}}</ref> Được Taylor mô tả là "album mang tư liệu pop chính thức đầu tiên", ''[[1989 (album của Taylor Swift)|1989]]'' đánh dấu sự thay đổi so với những album nhạc đồng quê trước đây.<ref name=usatoday>{{Chú thích web|họ 1=Mansfield|tên 1=Brian|tiêu đề=Taylor Swift debuts 'Shake It Off,' reveals '1989' album|url=http://www.usatoday.com/story/life/music/2014/08/18/taylor-swift-yahoo-live-stream/14242387/|newspaper=[[USA Today]]|ngày truy cập=August 19, 2014|ngày tháng=August 18, 2014}}</ref> ''[[1989 (album của Taylor Swift)|1989]]'' ra mắt ngày 27 tháng 12 năm 2014 cùng những đánh giá tích cực.<ref name="ibtimes" /><ref>{{Chú thích web|tiêu đề=1989 by Taylor Swift|url=http://www.metacritic.com/music/1989/taylor-swift|nhà xuất bản=[[Metacritic]]|ngày truy cập=August 15, 2016}}</ref>


[[Tập tin:Taylor Swift 2 (18477753053) (cropped).jpg|thumb|Swift trình diễn trong [[The 1989 World Tour]] vào [[tháng 6]] năm [[2015]]]]
[[Tập tin:Taylor Swift 2 (18477753053) (cropped).jpg|thumb|Taylor trình diễn trong [[The 1989 World Tour]] vào [[tháng 6]] năm [[2015]]]]
''[[1989 (album của Taylor Swift)|1989]]'' bán được 1.287 triệu bản trong tuần đầu tại [[Hoa Kỳ]] và mở màn ở vị trí đầu tiên trên [[Billboard 200|''Billboard'' 200]]—giúp Swift là nghệ sĩ đầu tiên có 3 album bán hơn 1 triệu bản trong tuần lên kệ, xuất hiện trong ''[[Sách Kỷ lục Guinness|Sách Kỷ lục Guinness Thế giới]]''.<ref>{{Chú thích web |url=http://www.billboard.com/articles/columns/chart-beat/6304536/official-taylor-swifts-1989-debuts-with-1287-million-sold-in |tiêu đề=Taylor Swift's "1989" debuts with 1.287 million copies sold |họ 1=Caulfield|tên 1=Keith |work=Billboard |ngày tháng=November 4, 2014 |ngày truy cập=November 4, 2014}}</ref><ref>{{cite news|last1=Swatman|first1=Rachel|title=Taylor Swift enters Guinness World Records 2016 with yet another record-breaking achievement|url=http://www.guinnessworldrecords.com/news/2015/8/taylor-swift-enters-guinness-world-records-2016-with-yet-another-record-breaking-394566|accessdate=July 31, 2016|work=Guinness World Records|date=August 31, 2015}}</ref> Tính đến tháng 2 năm 2015, ''1989'' tiêu thụ hơn 8,6 triệu bản trên toàn cầu.<ref name="best selling artist 2014 IFPI">{{Chú thích web|url = http://www.ifpi.org/news/Taylor-Swift-named-IFPI-global-recording-artists-of-2014|tiêu đề = Taylor Swift named IFPI Global Recording Artist of 2014|ngày tháng = February 23, 2015|ngày truy cập = February 24, 2015|nhà xuất bản = [[International Federation of the Phonographic Industry]]}}</ref> Đĩa đơn đầu tiên, "[[Shake It Off (bài hát của Taylor Swift)|Shake It Off]]" phát hành vào tháng 8 năm 2014 và mở đầu tại ngôi quán quân [[Billboard Hot 100|''Billboard'' Hot 100]].<ref name="Hot100Debut">{{Chú thích web|url = http://www.billboard.com/articles/news/6229439/taylor-swift-shake-it-off-no-1-hot-100-nicki-minaj-anaconda|tiêu đề = Taylor Swift's 'Shake It Off' Debuts At No. 1 On Hot 100|tên 1 = Gray|họ 1 = Trust|work = Billboard|ngày tháng = August 27, 2014|ngày truy cập = August 27, 2014}}</ref> Các đĩa đơn khác bao gồm "[[Blank Space]]" và "[[Bad Blood (bài hát của Taylor Swift)|Bad Blood]]" (hợp tác với [[Kendrick Lamar]]) cùng giành được ngôi vị cao nhất tại [[Hoa Kỳ]];<ref>{{Chú thích web|họ 1=Trust|tên 1=Gary|url=http://www.billboard.com/articles/columns/chart-beat/6576177/taylor-swift-bad-blood-tops-hot-100 |tiêu đề=Taylor Swift's 'Bad Blood' Blasts to No. 1 on Hot 100 |work=Billboard |ngày tháng=May 27, 2015 |ngày truy cập=November 22, 2015}}</ref> "[[Style (bài hát của Taylor Swift)|Style]]" và "[[Wildest Dreams (bài hát của Taylor Swift)|Wildest Dreams]]" đạt đến top 10 ''Billboard'' Hot 100;<ref>{{cite news|last=Trust|first=Gary|url=http://www.billboard.com/articles/columns/chart-beat/6495240/mark-ronson-bruno-mars-10th-week-hot-100 |title=Mark Ronson & Bruno Mars Notch 10th Week Atop Hot 100 |work=Billboard |date=March 11, 2015 |accessdate=November 22, 2015}}</ref> "[[Out of the Woods (bài hát)|Out of the Woods]]" và "[[New Romantics]]".<ref>{{cite news|url=http://www.billboard.com/articles/columns/chart-beat/6715526/the-weeknd-no-1-hot-100-shawn-mendes-first-top-10|title=The Weeknd at No. 1 on Hot 100, Shawn Mendes earns first Top 10|work=Billboard|accessdate=October 5, 2015}}</ref> "Shake It Off", "Blank Space" và "Bad Blood" cũng dẫn đầu tại [[Úc]] và [[Canada]].<ref name=AUSchart /><ref name="canada" /> [[Video âm nhạc]] của "[[Blank Space]]" trở thành video đạt 1 tỷ lượt xem nhanh nhất trên hệ thống [[Vevo]].<ref>{{cite news|last1=Strecker|first1=Erin|title=Taylor Swift's 'Blank Space' the Fastest Video to Reach 1 Billion Views on Vevo|url=http://www.billboard.com/articles/columns/pop-shop/6620177/taylor-swift-blank-space-fastest-billion-views-vevo|accessdate=August 3, 2016|work=Billboard|date=July 6, 2015}}</ref> Video âm nhạc của "Bad Blood" thắng [[Giải Grammy cho Video âm nhạc xuất sắc nhất|giải Grammy cho "Video âm nhạc xuất sắc nhất"]]<ref>{{Chú thích web | url=http://www.billboard.com/articles/news/grammys/6785974/grammy-nominations-2016-full-list | tiêu đề=Grammy Nominations 2016: See the Full List of Nominees | nhà xuất bản=Prometheus Global Media | work=Billboard | ngày tháng=December 7, 2015 | ngày truy cập=December 7, 2015}}</ref> và 4 [[giải Video âm nhạc của MTV]] năm 2015, bao gồm hạng mục "[[Giải Video âm nhạc của MTV cho Video của năm|Video của năm]]".<ref>{{cite news|last1=Stutz|first1=Colin|title=2015 MTV Video Music Awards Nominees Revealed: Taylor Swift, Kendrick Lamar, Ed Sheeran & More|url=http://www.billboard.com/articles/events/vma/6634773/2015-mtv-vma-nominees|accessdate=August 15, 2016|work=Billboard|date=July 21, 2015}}</ref> Từ tháng 5 đến tháng 12 năm 2015, Swift thực hiện chuyến lưu diễn [[The 1989 World Tour]], thu về 250 triệu đô-la Mỹ và lọt vào danh sách đạt doanh thu cao nhất thập niên.<ref>{{Chú thích web|tiêu đề=Live Music's $20 Billion Year: The Grateful Dead's Fare Thee Well Reunion, Taylor Swift, One Direction Top Boxscore's Year-End|url=http://www.billboard.com/articles/news/6805333/top-boxscores-2015-power-healthy-touring-industry|website=Billboard}}</ref>
''[[1989 (album của Taylor Swift)|1989]]'' bán được 1.287 triệu bản trong tuần đầu tại [[Hoa Kỳ]] và mở màn ở vị trí đầu tiên trên [[Billboard 200|''Billboard'' 200]]—giúp Taylor là nghệ sĩ đầu tiên có 3 album bán hơn 1 triệu bản trong tuần lên kệ, xuất hiện trong ''[[Sách Kỷ lục Guinness|Sách Kỷ lục Guinness Thế giới]]''.<ref>{{Chú thích web |url=http://www.billboard.com/articles/columns/chart-beat/6304536/official-taylor-swifts-1989-debuts-with-1287-million-sold-in |tiêu đề=Taylor Swift's "1989" debuts with 1.287 million copies sold |họ 1=Caulfield|tên 1=Keith |work=Billboard |ngày tháng=November 4, 2014 |ngày truy cập=November 4, 2014}}</ref><ref>{{cite news|last1=Swatman|first1=Rachel|title=Taylor Swift enters Guinness World Records 2016 with yet another record-breaking achievement|url=http://www.guinnessworldrecords.com/news/2015/8/taylor-swift-enters-guinness-world-records-2016-with-yet-another-record-breaking-394566|accessdate=July 31, 2016|work=Guinness World Records|date=August 31, 2015}}</ref> Tính đến tháng 2 năm 2015, ''1989'' tiêu thụ hơn 8,6 triệu bản trên toàn cầu.<ref name="best selling artist 2014 IFPI">{{Chú thích web|url = http://www.ifpi.org/news/Taylor-Swift-named-IFPI-global-recording-artists-of-2014|tiêu đề = Taylor Swift named IFPI Global Recording Artist of 2014|ngày tháng = February 23, 2015|ngày truy cập = February 24, 2015|nhà xuất bản = [[International Federation of the Phonographic Industry]]}}</ref> Đĩa đơn đầu tiên, "[[Shake It Off (bài hát của Taylor Swift)|Shake It Off]]" phát hành vào tháng 8 năm 2014 và mở đầu tại ngôi quán quân [[Billboard Hot 100|''Billboard'' Hot 100]].<ref name="Hot100Debut">{{Chú thích web|url = http://www.billboard.com/articles/news/6229439/taylor-swift-shake-it-off-no-1-hot-100-nicki-minaj-anaconda|tiêu đề = Taylor Swift's 'Shake It Off' Debuts At No. 1 On Hot 100|tên 1 = Gray|họ 1 = Trust|work = Billboard|ngày tháng = August 27, 2014|ngày truy cập = August 27, 2014}}</ref> Các đĩa đơn khác bao gồm "[[Blank Space]]" và "[[Bad Blood (bài hát của Taylor Swift)|Bad Blood]]" (hợp tác với [[Kendrick Lamar]]) cùng giành được ngôi vị cao nhất tại [[Hoa Kỳ]];<ref>{{Chú thích web|họ 1=Trust|tên 1=Gary|url=http://www.billboard.com/articles/columns/chart-beat/6576177/taylor-swift-bad-blood-tops-hot-100 |tiêu đề=Taylor Swift's 'Bad Blood' Blasts to No. 1 on Hot 100 |work=Billboard |ngày tháng=May 27, 2015 |ngày truy cập=November 22, 2015}}</ref> "[[Style (bài hát của Taylor Swift)|Style]]" và "[[Wildest Dreams (bài hát của Taylor Swift)|Wildest Dreams]]" đạt đến top 10 ''Billboard'' Hot 100;<ref>{{cite news|last=Trust|first=Gary|url=http://www.billboard.com/articles/columns/chart-beat/6495240/mark-ronson-bruno-mars-10th-week-hot-100 |title=Mark Ronson & Bruno Mars Notch 10th Week Atop Hot 100 |work=Billboard |date=March 11, 2015 |accessdate=November 22, 2015}}</ref> "[[Out of the Woods (bài hát)|Out of the Woods]]" và "[[New Romantics]]".<ref>{{cite news|url=http://www.billboard.com/articles/columns/chart-beat/6715526/the-weeknd-no-1-hot-100-shawn-mendes-first-top-10|title=The Weeknd at No. 1 on Hot 100, Shawn Mendes earns first Top 10|work=Billboard|accessdate=October 5, 2015}}</ref> "Shake It Off", "Blank Space" và "Bad Blood" cũng dẫn đầu tại [[Úc]] và [[Canada]].<ref name=AUSchart /><ref name="canada" /> [[Video âm nhạc]] của "[[Blank Space]]" trở thành video đạt 1 tỷ lượt xem nhanh nhất trên hệ thống [[Vevo]].<ref>{{cite news|last1=Strecker|first1=Erin|title=Taylor Swift's 'Blank Space' the Fastest Video to Reach 1 Billion Views on Vevo|url=http://www.billboard.com/articles/columns/pop-shop/6620177/taylor-swift-blank-space-fastest-billion-views-vevo|accessdate=August 3, 2016|work=Billboard|date=July 6, 2015}}</ref> Video âm nhạc của "Bad Blood" thắng [[Giải Grammy cho Video âm nhạc xuất sắc nhất|giải Grammy cho "Video âm nhạc xuất sắc nhất"]]<ref>{{Chú thích web | url=http://www.billboard.com/articles/news/grammys/6785974/grammy-nominations-2016-full-list | tiêu đề=Grammy Nominations 2016: See the Full List of Nominees | nhà xuất bản=Prometheus Global Media | work=Billboard | ngày tháng=December 7, 2015 | ngày truy cập=December 7, 2015}}</ref> và 4 [[giải Video âm nhạc của MTV]] năm 2015, bao gồm hạng mục "[[Giải Video âm nhạc của MTV cho Video của năm|Video của năm]]".<ref>{{cite news|last1=Stutz|first1=Colin|title=2015 MTV Video Music Awards Nominees Revealed: Taylor Swift, Kendrick Lamar, Ed Sheeran & More|url=http://www.billboard.com/articles/events/vma/6634773/2015-mtv-vma-nominees|accessdate=August 15, 2016|work=Billboard|date=July 21, 2015}}</ref> Từ tháng 5 đến tháng 12 năm 2015, Taylor thực hiện chuyến lưu diễn [[The 1989 World Tour]], thu về 250 triệu đô-la Mỹ và lọt vào danh sách đạt doanh thu cao nhất thập niên.<ref>{{Chú thích web|tiêu đề=Live Music's $20 Billion Year: The Grateful Dead's Fare Thee Well Reunion, Taylor Swift, One Direction Top Boxscore's Year-End|url=http://www.billboard.com/articles/news/6805333/top-boxscores-2015-power-healthy-touring-industry|website=Billboard}}</ref>


Vào năm 2014, Swift là nghệ sĩ đầu tiên 2 lần giành giải "Người phụ nữ của năm" của tạp chí ''[[Billboard]]''<ref>{{Chú thích web|url=http://www.billboard.com/articles/columns/pop-shop/6281490/taylor-swift-2014-billboard-woman-of-the-year|tiêu đề=Taylor Swift: 2014 Billboard Woman of the Year|ngày tháng=October 10, 2014|work=Billboard|ngày truy cập=April 11, 2015}}</ref> và được vinh danh giải Dick Clark for Excellence tại [[Giải thưởng Âm nhạc Mỹ]].<ref>{{Chú thích web|url=http://www.billboard.com/articles/events/amas-2014/6327564/taylor-swift-win-first-dick-clark-award-of-excellence-amas-2014-diana-ross|tiêu đề=Taylor Swift Wins Dick Clark Award of Excellence at 2014, Presented by Diana Ross|họ 1=Payne|tên 1=Chris|ngày tháng=November 23, 2014|work=Billboard|ngày truy cập=April 11, 2015}}</ref> "Shake It Off" mang về 3 đề cử tại [[giải Grammy lần thứ 57]], trong đó có "Thu âm của năm" và "Bài hát của năm".<ref>{{Chú thích web|url=http://www.billboard.com/articles/events/grammys-2015/6465596/taylor-swift-grammys-red-carpet-on-shake-it-off-history|tiêu đề=Taylor Swift Talks Nominated 'Shake It Off' on the Grammys Red Carpet|họ 1=Leight|tên 1=Elias|ngày tháng=February 8, 2015|work=Billboard|ngày truy cập=April 11, 2015}}</ref> Tại [[giải Brit]] 2015, Swift thắng giải "Nữ nghệ sĩ quốc tế".<ref name="Jonze">{{Chú thích web|url=http://www.theguardian.com/music/2015/feb/25/taylor-swift-wins-international-female-solo-artist-at-brit-awards-2015|tiêu đề=Taylor Swift wins international female solo artist at Brit awards 2015|họ 1=Jonze|tên 1=Tim|ngày tháng=February 25, 2015|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20160101070259/http://www.theguardian.com/music/2015/feb/25/taylor-swift-wins-international-female-solo-artist-at-brit-awards-2015|ngày lưu trữ=January 1, 2016|work=The Guardian|ngày truy cập=April 11, 2015}}</ref> Cô cũng là một trong 8 nghệ sĩ được vinh danh Giải cột mốc 50 năm tại Giải thưởng Hàn lâm nhạc Đồng quê 2015.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.rollingstone.com/music/news/taylor-swift-miranda-lambert-among-2015-acm-awards-milestone-winners-20150325|tiêu đề=2015 ACM Award Milestone Winners Include Swift, Lambert|họ 1=Betts|tên 1=Stephen L.|ngày tháng=March 25, 2015|work=Rolling Stone|ngày truy cập=April 11, 2015}}</ref> Tại [[giải Grammy lần thứ 58]], Swift thắng 3 giải cho ''1989'', trong đó có "Album của năm" và "[[Giải Grammy cho Album giọng pop xuất sắc nhất|Album giọng pop xuất sắc nhất]]". Cô trở thành người phụ nữ đầu tiên—và là người thứ năm trong lịch sử—thắng giải "Album của năm" hai lần.<ref>{{cite news|url=http://www.billboard.com/articles/news/grammys/6882510/taylor-swift-grammy-album-of-the-year-win-multiple|title=Taylor Swift Joins Elite Club to Win Grammy Album of the Year More Than Once: See the Rest|last=Lynch|first=Joe|date=February 19, 2016|work=Billboard|accessdate=July 31, 2016}}</ref>
Vào năm 2014, Taylor là nghệ sĩ đầu tiên 2 lần giành giải "Người phụ nữ của năm" của tạp chí ''[[Billboard]]''<ref>{{Chú thích web|url=http://www.billboard.com/articles/columns/pop-shop/6281490/taylor-swift-2014-billboard-woman-of-the-year|tiêu đề=Taylor Swift: 2014 Billboard Woman of the Year|ngày tháng=October 10, 2014|work=Billboard|ngày truy cập=April 11, 2015}}</ref> và được vinh danh giải Dick Clark for Excellence tại [[Giải thưởng Âm nhạc Mỹ]].<ref>{{Chú thích web|url=http://www.billboard.com/articles/events/amas-2014/6327564/taylor-swift-win-first-dick-clark-award-of-excellence-amas-2014-diana-ross|tiêu đề=Taylor Swift Wins Dick Clark Award of Excellence at 2014, Presented by Diana Ross|họ 1=Payne|tên 1=Chris|ngày tháng=November 23, 2014|work=Billboard|ngày truy cập=April 11, 2015}}</ref> "Shake It Off" mang về 3 đề cử tại [[giải Grammy lần thứ 57]], trong đó có "Thu âm của năm" và "Bài hát của năm".<ref>{{Chú thích web|url=http://www.billboard.com/articles/events/grammys-2015/6465596/taylor-swift-grammys-red-carpet-on-shake-it-off-history|tiêu đề=Taylor Swift Talks Nominated 'Shake It Off' on the Grammys Red Carpet|họ 1=Leight|tên 1=Elias|ngày tháng=February 8, 2015|work=Billboard|ngày truy cập=April 11, 2015}}</ref> Tại [[giải Brit]] 2015, Taylor thắng giải "Nữ nghệ sĩ quốc tế".<ref name="Jonze">{{Chú thích web|url=http://www.theguardian.com/music/2015/feb/25/taylor-swift-wins-international-female-solo-artist-at-brit-awards-2015|tiêu đề=Taylor Swift wins international female solo artist at Brit awards 2015|họ 1=Jonze|tên 1=Tim|ngày tháng=February 25, 2015|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20160101070259/http://www.theguardian.com/music/2015/feb/25/taylor-swift-wins-international-female-solo-artist-at-brit-awards-2015|ngày lưu trữ=January 1, 2016|work=The Guardian|ngày truy cập=April 11, 2015}}</ref> Cô cũng là một trong 8 nghệ sĩ được vinh danh Giải cột mốc 50 năm tại Giải thưởng Hàn lâm nhạc Đồng quê 2015.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.rollingstone.com/music/news/taylor-swift-miranda-lambert-among-2015-acm-awards-milestone-winners-20150325|tiêu đề=2015 ACM Award Milestone Winners Include Swift, Lambert|họ 1=Betts|tên 1=Stephen L.|ngày tháng=March 25, 2015|work=Rolling Stone|ngày truy cập=April 11, 2015}}</ref> Tại [[giải Grammy lần thứ 58]], Taylor thắng 3 giải cho ''1989'', trong đó có "Album của năm" và "[[Giải Grammy cho Album giọng pop xuất sắc nhất|Album giọng pop xuất sắc nhất]]". Cô trở thành người phụ nữ đầu tiên—và là người thứ năm trong lịch sử—thắng giải "Album của năm" hai lần.<ref>{{cite news|url=http://www.billboard.com/articles/news/grammys/6882510/taylor-swift-grammy-album-of-the-year-win-multiple|title=Taylor Swift Joins Elite Club to Win Grammy Album of the Year More Than Once: See the Rest|last=Lynch|first=Joe|date=February 19, 2016|work=Billboard|accessdate=July 31, 2016}}</ref>


Đầu năm 2016, công ty cổ phần và quản lý [[Sở hữu trí tuệ|quyền sở hữu trí tuệ]] của Swift, TAS Rights Management, công chứng 73 [[thương hiệu]] liên quan đến cô và ''1989''.<ref>{{cite news|last1=Daly|first1=Thomas J.|title=Taylor Swift's Trademark Play|url=http://www.natlawreview.com/article/taylor-swift-s-trademark-play|accessdate=January 23, 2016|work=[[The National Law Review]]|date=January 13, 2016}}</ref> Trước khi ra mắt ''1989'', Swift nhấn mạnh tầm quan trọng của album đến nghệ sĩ và người hâm mộ.<ref name="Mann">{{Chú thích web|họ 1=Weissmann|tên 1=Jordan|tiêu đề=Taylor Swift Has Written an Op-Ed in the Wall Street Journal|url=http://www.slate.com/blogs/moneybox/2014/07/07/taylor_swift_in_the_wall_street_journal_the_music_business_can_be_saved.html |website=[[Slate (magazine)|Slate]]|kiểu=Blog|ngày truy cập=January 23, 2015|ngày tháng=July 7, 2014}}</ref> Tháng 11 năm 2014, cô thu hồi lại toàn bộ các đĩa nhạc trên hệ thống [[Spotify]], cho rằng dịch vụ [[streaming]] miễn phí có quảng cáo của hãng này làm tổn hại đến dịch vụ trả phí, cung cấp hoa hồng cao hơn cho các tác giả.<ref>{{cite news|last=Knopper |first=Steve |url=http://www.rollingstone.com/music/news/taylor-swift-scott-borchetta-spotify-20141108 |title=Taylor Swift's Label Head Explains Spotify Removal |work=Rolling Stone |date=November 8, 2014 |accessdate=April 11, 2015}}</ref> Vào tháng 6 năm 2015, Swift chỉ trích hãng [[Apple Music]] vì hãng không trả tiền khoan hồng cho nghệ sĩ trong thời gian 3 tháng dùng thử của khách hàng và khẳng định sẽ rút album ''1989'' ra khỏi hệ thống này.<ref>{{Chú thích web|url=https://www.billboard.com/articles/news/6605541/taylor-swift-pens-open-letter-explaining-why-1989-wont-be-on-apple-music|tiêu đề=Taylor Swift Pens Open Letter Explaining Why '1989' Won't Be on Apple Music|họ 1=Peters|tên 1=Mitchell|work=Billboard|ngày tháng=June 21, 2015|ngày truy cập=June 22, 2015}}</ref> Một ngày sau, [[Apple Inc.|Apple]] thông báo sẽ trả đầy đủ phí đến nghệ sĩ trong thời gian dùng thử<ref>{{Chú thích web|url=http://www.billboard.com/articles/news/6605568/apple-changes-course-after-taylor-swift-open-letter-will-pay-labels-during|tiêu đề=Apple Changes Course After Taylor Swift Open Letter: Will Pay Labels During Free Trial|họ 1=Halperin|tên 1=Shirley|work=Billboard|ngày tháng=June 21, 2015|ngày truy cập=June 22, 2015}}</ref> và Swift đồng ý đưa ''1989'' vào dịch vụ này.<ref>{{cite news|url=http://www.ew.com/article/2015/06/25/taylor-swift-1989-apple-music|title=Taylor Swift is putting 1989 on Apple Music|last=Rosen|first=Christopher|work=Entertainment Weekly|date=June 25, 2015|accessdate=June 25, 2015}}</ref> Ngày 9 tháng 6 năm 2017, Swift tái phát hành toàn bộ đĩa nhạc tại các hệ thống âm nhạc [[streaming]], bao gồm Spotify, [[Tidal (hãng nhạc)|Tidal]], [[Amazon.com|Amazon]] và [[Pandora Radio|Pandora]], sau nhiều năm thu hồi.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.billboard.com/articles/news/7825588/taylor-swifts-entire-catalog-spotify-streaming|ngày tháng=June 9, 2017|họ 1=Brandle|tên 1=Lars|ngày truy cập=June 9, 2017|tiêu đề=Taylor Swift's Entire Catalog Is Now on Spotify & Other Streaming Services: Go Listen|work=Billboard}}</ref> Trong tuần trở lại đầu tiên, 4 trong số các album phòng thu của cô trở lại [[Billboard 200|''Billboard'' 200]];<ref>{{Chú thích web|url=http://www.billboard.com/articles/columns/chart-beat/7834065/taylor-swift-streaming-return-four-albums-billboard-200|tiêu đề=Taylor Swift Sees 4 Albums Back on Billboard 200 After Streaming Return|họ 1=Caulfield|tên 1= Keith|work=Billboard|ngày tháng=June 19, 2017|ngày truy cập=June 19, 2017}}</ref> các bài hát đạt 47,51 triệu lượt nghe trực tuyến, thu về lợi nhuận tác quyền 400.000 đô-la Mỹ.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.billboard.com/articles/business/7840948/taylor-swift-streaming-revenue-amount-publishing-royalties|tiêu đề=Taylor Swift's Songs Generated $400K After Returning to Streaming Services Last Week|họ 1=Gensler|tên 1=Andy|tên 2=Ed|họ 2=Christman|work=Billboard|ngày tháng=June 21, 2017|ngày truy cập=June 22, 2017}}</ref>
Đầu năm 2016, công ty cổ phần và quản lý [[Sở hữu trí tuệ|quyền sở hữu trí tuệ]] của Taylor, TAS Rights Management, công chứng 73 [[thương hiệu]] liên quan đến cô và ''1989''.<ref>{{cite news|last1=Daly|first1=Thomas J.|title=Taylor Swift's Trademark Play|url=http://www.natlawreview.com/article/taylor-swift-s-trademark-play|accessdate=January 23, 2016|work=[[The National Law Review]]|date=January 13, 2016}}</ref> Trước khi ra mắt ''1989'', Taylor nhấn mạnh tầm quan trọng của album đến nghệ sĩ và người hâm mộ.<ref name="Mann">{{Chú thích web|họ 1=Weissmann|tên 1=Jordan|tiêu đề=Taylor Swift Has Written an Op-Ed in the Wall Street Journal|url=http://www.slate.com/blogs/moneybox/2014/07/07/taylor_swift_in_the_wall_street_journal_the_music_business_can_be_saved.html |website=[[Slate (magazine)|Slate]]|kiểu=Blog|ngày truy cập=January 23, 2015|ngày tháng=July 7, 2014}}</ref> Tháng 11 năm 2014, cô thu hồi lại toàn bộ các đĩa nhạc trên hệ thống [[Spotify]], cho rằng dịch vụ [[streaming]] miễn phí có quảng cáo của hãng này làm tổn hại đến dịch vụ trả phí, cung cấp hoa hồng cao hơn cho các tác giả.<ref>{{cite news|last=Knopper |first=Steve |url=http://www.rollingstone.com/music/news/taylor-swift-scott-borchetta-spotify-20141108 |title=Taylor Swift's Label Head Explains Spotify Removal |work=Rolling Stone |date=November 8, 2014 |accessdate=April 11, 2015}}</ref> Vào tháng 6 năm 2015, Taylor chỉ trích hãng [[Apple Music]] vì hãng không trả tiền khoan hồng cho nghệ sĩ trong thời gian 3 tháng dùng thử của khách hàng và khẳng định sẽ rút album ''1989'' ra khỏi hệ thống này.<ref>{{Chú thích web|url=https://www.billboard.com/articles/news/6605541/taylor-swift-pens-open-letter-explaining-why-1989-wont-be-on-apple-music|tiêu đề=Taylor Swift Pens Open Letter Explaining Why '1989' Won't Be on Apple Music|họ 1=Peters|tên 1=Mitchell|work=Billboard|ngày tháng=June 21, 2015|ngày truy cập=June 22, 2015}}</ref> Một ngày sau, [[Apple Inc.|Apple]] thông báo sẽ trả đầy đủ phí đến nghệ sĩ trong thời gian dùng thử<ref>{{Chú thích web|url=http://www.billboard.com/articles/news/6605568/apple-changes-course-after-taylor-swift-open-letter-will-pay-labels-during|tiêu đề=Apple Changes Course After Taylor Swift Open Letter: Will Pay Labels During Free Trial|họ 1=Halperin|tên 1=Shirley|work=Billboard|ngày tháng=June 21, 2015|ngày truy cập=June 22, 2015}}</ref> và Taylor đồng ý đưa ''1989'' vào dịch vụ này.<ref>{{cite news|url=http://www.ew.com/article/2015/06/25/taylor-swift-1989-apple-music|title=Taylor Swift is putting 1989 on Apple Music|last=Rosen|first=Christopher|work=Entertainment Weekly|date=June 25, 2015|accessdate=June 25, 2015}}</ref> Ngày 9 tháng 6 năm 2017, Taylor tái phát hành toàn bộ đĩa nhạc tại các hệ thống âm nhạc [[streaming]], bao gồm Spotify, [[Tidal (hãng nhạc)|Tidal]], [[Amazon.com|Amazon]] và [[Pandora Radio|Pandora]], sau nhiều năm thu hồi.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.billboard.com/articles/news/7825588/taylor-swifts-entire-catalog-spotify-streaming|ngày tháng=June 9, 2017|họ 1=Brandle|tên 1=Lars|ngày truy cập=June 9, 2017|tiêu đề=Taylor Swift's Entire Catalog Is Now on Spotify & Other Streaming Services: Go Listen|work=Billboard}}</ref> Trong tuần trở lại đầu tiên, 4 trong số các album phòng thu của cô trở lại [[Billboard 200|''Billboard'' 200]];<ref>{{Chú thích web|url=http://www.billboard.com/articles/columns/chart-beat/7834065/taylor-swift-streaming-return-four-albums-billboard-200|tiêu đề=Taylor Swift Sees 4 Albums Back on Billboard 200 After Streaming Return|họ 1=Caulfield|tên 1= Keith|work=Billboard|ngày tháng=June 19, 2017|ngày truy cập=June 19, 2017}}</ref> các bài hát đạt 47,51 triệu lượt nghe trực tuyến, thu về lợi nhuận tác quyền 400.000 đô-la Mỹ.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.billboard.com/articles/business/7840948/taylor-swift-streaming-revenue-amount-publishing-royalties|tiêu đề=Taylor Swift's Songs Generated $400K After Returning to Streaming Services Last Week|họ 1=Gensler|tên 1=Andy|tên 2=Ed|họ 2=Christman|work=Billboard|ngày tháng=June 21, 2017|ngày truy cập=June 22, 2017}}</ref>


Trong bữa tiệc ''[[Saturday Night Live 40th Anniversary Special]]'', Swift trình bày "[[I Saw Her Standing There]]" và "Shake It Off" cùng với [[Paul McCartney]]<ref>{{cite news|last=Bacle |first=Ariana |url=http://www.ew.com/article/2015/02/16/paul-mccartney-jammed-out-taylor-swift-snl-afterparty |title=Paul McCartney jams with Taylor Swift at 'SNL' afterparty |work=Entertainment Weekly |date=February 16, 2015 |accessdate=April 11, 2015}}</ref> và cùng [[Kenny Chesney]] hát "[[Big Star (bài hát của Kenny Chesney)|Big Star]]" trong đêm mở màn chuyến lưu diễn [[The Big Revival Tour|Big Revival Tour]] tại [[Nashville, Tennessee|Nashville]].<ref>{{Chú thích web|tên 1=Cindy |họ 1=Watts |url=http://www.tennessean.com/story/entertainment/music/2015/03/27/kenny-chesney-tops-taylor-swift-joe-walsh/70530696/ |tiêu đề=Kenny Chesney tops 12 a.m. with Taylor Swift, Joe Walsh |url lưu trữ=http://www.webcitation.org/6klhHl9yA|ngày lưu trữ=September 24, 2016|work=The Tennessean |ngày tháng=March 27, 2015 |ngày truy cập=April 11, 2015}}</ref> Tháng 3 năm 2015, Swift hẹn hò cùng [[DJ]] và nhà sản xuất người [[Scotland]] [[Calvin Harris]].<ref>{{cite magazine|last=Lara|first=Maria Mercedes|title=Calvin Harris Spends the Night at Taylor Swift's LA Home|url=http://www.people.com/article/taylor-swift-calvin-harris-holding-hands-photo|dead-url=no|archive-url=http://webcitation.org/6idObcFkH|archive-date=June 29, 2016|accessdate=May 24, 2015|work=People}}</ref> Đến tháng 6 năm 2015, đây là cặp đôi người nổi tiếng được trả thù lao cao nhất năm do ''[[Forbes]]'' tổng hợp, với số tiền vượt 146 triệu đô-la Mỹ.<ref>{{cite news|url=http://time.com/3936952/taylor-swift-calvin-harris-highest-paid/|title=Taylor Swift and Calvin Harris Are the Highest-Paid Celebrity Couple|last=Rhodan|first=Maya|date=June 25, 2015|work=Time|archiveurl=http://www.webcitation.org/6idOnrlMM|archivedate=June 29, 2016|dead-url=no|accessdate=June 26, 2015}}</ref> Tháng 8, Swift công bố về căn bệnh [[ung thư]] của mẹ mình và khuyến khích mọi người thực hiện kiểm tra [[sức khỏe]].<ref>{{cite news|last1=Schillaci|first1=Sophie|title=Taylor Swift Tearfully Addresses Mom's Cancer Battle as She Performs 'Ronan'|url=http://www.etonline.com/news/170204_taylor_swift_tearfully_addresses_mom_cancer_battle_as_she_performs_ronan/|accessdate=August 26, 2016|work=[[Entertainment Tonight]]|date=August 18, 2015}}</ref> Trước khi Swift và Harris chia tay vào tháng 6 năm 2016,<ref>{{cite magazine|last=Chiu|first=Melody|date=June 1, 2016|title=Taylor Swift and Calvin Harris Split After 15 Months Together|url=http://www.people.com/people/article/0,,21010217,00.html|archiveurl=http://webcitation.org/6idOvF23z|archive-date=June 29, 2016|accessdate=June 1, 2016|work=People}}</ref> họ đồng sáng tác "[[This Is What You Came For]]", nơi cô tham gia dưới nghệ danh Nils Sjöberg.<ref>{{cite news | url=http://www.rollingstone.com/music/news/taylor-swift-wrote-calvin-harris-smash-hit-this-is-what-you-came-for-20160713 | title=Taylor Swift Co-Wrote Calvin Harris' Smash Hit 'This Is What You Came For' | work=Rolling Stone | date=July 13, 2016 | accessdate=July 31, 2016 |last=Spanos|first=Brittany}}</ref> Tháng 10, cô sáng tác "[[Better Man (bài hát của Little Big Town)|Better Man]]" cho album thứ bảy của nhóm [[Little Big Town]], ''The Breaker''.<ref>{{cite news|last1=Bailey|first1=Alyssa|title=Which Ex Is This New Taylor Swift Song "Better Man" About?|url=http://www.elle.com/culture/celebrities/news/a40417/taylor-swift-better-man-lyrics-calvin-harris-tom-hiddleston/|accessdate=November 1, 2016|work=[[Elle (magazine)|Elle]]|date=November 1, 2016}}</ref> Hai tháng sau, Swift và [[Zayn Malik]] cùng nhau phát hành đĩa đơn "[[I Don't Wanna Live Forever]]", nằm trong album nhạc phim ''[[Fifty Shades Darker (phim)|Fifty Shades Darker]]'' (2017).<ref>{{cite news|author=Hunt, Elle|title=Taylor Swift and Zayn Malik release surprise duet for Fifty Shades Darker soundtrack|url=https://www.theguardian.com/music/2016/dec/09/taylor-swift-and-zayn-malik-release-surprise-duet-for-fifty-shades-darker-soundtrack|newspaper=The Guardian|date=December 9, 2016|accessdate=December 9, 2016}}</ref>
Trong bữa tiệc ''[[Saturday Night Live 40th Anniversary Special]]'', Taylor trình bày "[[I Saw Her Standing There]]" và "Shake It Off" cùng với [[Paul McCartney]]<ref>{{cite news|last=Bacle |first=Ariana |url=http://www.ew.com/article/2015/02/16/paul-mccartney-jammed-out-taylor-swift-snl-afterparty |title=Paul McCartney jams with Taylor Swift at 'SNL' afterparty |work=Entertainment Weekly |date=February 16, 2015 |accessdate=April 11, 2015}}</ref> và cùng [[Kenny Chesney]] hát "[[Big Star (bài hát của Kenny Chesney)|Big Star]]" trong đêm mở màn chuyến lưu diễn [[The Big Revival Tour|Big Revival Tour]] tại [[Nashville, Tennessee|Nashville]].<ref>{{Chú thích web|tên 1=Cindy |họ 1=Watts |url=http://www.tennessean.com/story/entertainment/music/2015/03/27/kenny-chesney-tops-taylor-swift-joe-walsh/70530696/ |tiêu đề=Kenny Chesney tops 12 a.m. with Taylor Swift, Joe Walsh |url lưu trữ=http://www.webcitation.org/6klhHl9yA|ngày lưu trữ=September 24, 2016|work=The Tennessean |ngày tháng=March 27, 2015 |ngày truy cập=April 11, 2015}}</ref> Tháng 3 năm 2015, Taylor hẹn hò cùng [[DJ]] và nhà sản xuất người [[Scotland]] [[Calvin Harris]].<ref>{{cite magazine|last=Lara|first=Maria Mercedes|title=Calvin Harris Spends the Night at Taylor Swift's LA Home|url=http://www.people.com/article/taylor-swift-calvin-harris-holding-hands-photo|dead-url=no|archive-url=http://webcitation.org/6idObcFkH|archive-date=June 29, 2016|accessdate=May 24, 2015|work=People}}</ref> Đến tháng 6 năm 2015, đây là cặp đôi người nổi tiếng được trả thù lao cao nhất năm do ''[[Forbes]]'' tổng hợp, với số tiền vượt 146 triệu đô-la Mỹ.<ref>{{cite news|url=http://time.com/3936952/taylor-swift-calvin-harris-highest-paid/|title=Taylor Swift and Calvin Harris Are the Highest-Paid Celebrity Couple|last=Rhodan|first=Maya|date=June 25, 2015|work=Time|archiveurl=http://www.webcitation.org/6idOnrlMM|archivedate=June 29, 2016|dead-url=no|accessdate=June 26, 2015}}</ref> Tháng 8, Taylor công bố về căn bệnh [[ung thư]] của mẹ mình và khuyến khích mọi người thực hiện kiểm tra [[sức khỏe]].<ref>{{cite news|last1=Schillaci|first1=Sophie|title=Taylor Swift Tearfully Addresses Mom's Cancer Battle as She Performs 'Ronan'|url=http://www.etonline.com/news/170204_taylor_swift_tearfully_addresses_mom_cancer_battle_as_she_performs_ronan/|accessdate=August 26, 2016|work=[[Entertainment Tonight]]|date=August 18, 2015}}</ref> Trước khi Taylor và Harris chia tay vào tháng 6 năm 2016,<ref>{{cite magazine|last=Chiu|first=Melody|date=June 1, 2016|title=Taylor Swift and Calvin Harris Split After 15 Months Together|url=http://www.people.com/people/article/0,,21010217,00.html|archiveurl=http://webcitation.org/6idOvF23z|archive-date=June 29, 2016|accessdate=June 1, 2016|work=People}}</ref> họ đồng sáng tác "[[This Is What You Came For]]", nơi cô tham gia dưới nghệ danh Nils Sjöberg.<ref>{{cite news | url=http://www.rollingstone.com/music/news/taylor-swift-wrote-calvin-harris-smash-hit-this-is-what-you-came-for-20160713 | title=Taylor Swift Co-Wrote Calvin Harris' Smash Hit 'This Is What You Came For' | work=Rolling Stone | date=July 13, 2016 | accessdate=July 31, 2016 |last=Spanos|first=Brittany}}</ref> Tháng 10, cô sáng tác "[[Better Man (bài hát của Little Big Town)|Better Man]]" cho album thứ bảy của nhóm [[Little Big Town]], ''The Breaker''.<ref>{{cite news|last1=Bailey|first1=Alyssa|title=Which Ex Is This New Taylor Swift Song "Better Man" About?|url=http://www.elle.com/culture/celebrities/news/a40417/taylor-swift-better-man-lyrics-calvin-harris-tom-hiddleston/|accessdate=November 1, 2016|work=[[Elle (magazine)|Elle]]|date=November 1, 2016}}</ref> Hai tháng sau, Taylor và [[Zayn Malik]] cùng nhau phát hành đĩa đơn "[[I Don't Wanna Live Forever]]", nằm trong album nhạc phim ''[[Fifty Shades Darker (phim)|Fifty Shades Darker]]'' (2017).<ref>{{cite news|author=Hunt, Elle|title=Taylor Swift and Zayn Malik release surprise duet for Fifty Shades Darker soundtrack|url=https://www.theguardian.com/music/2016/dec/09/taylor-swift-and-zayn-malik-release-surprise-duet-for-fifty-shades-darker-soundtrack|newspaper=The Guardian|date=December 9, 2016|accessdate=December 9, 2016}}</ref>


=== 2017{{ndash}}2019: ''Reputation'' ===
=== 2017{{ndash}}2019: ''Reputation'' ===
Vào tháng 8 năm 2017, Swift đã kiện và giành phần thắng trong một vụ kiện dân sự với David Mueller, người từng là một dẫn chương trình cho đài [[KYGO-FM]] ở [[Denver]]. Bốn năm trước đó, Swift đã thông báo với những người chủ của Muller rằng anh ta đã có hành vi tấn công tình dục với cô bằng cách đụng chạm vào người cô. Trước khi bị đuổi việc, Mueller đã tố cáo Swift là kẻ dối trá và kiện cô vì khiến anh ta mất việc. Một thời gian ngắn sau đó, Swift kiện ngược lại Muller vì tội tấn công tình dục. Ban bồi thẩm đã bác bỏ những thanh minh từ phía Muller và thay vào đó nghiêng về phía Swift.<ref>{{Chú thích web|họ 1=Gonzalez|tên 1=Sandra|họ 2=McLean|tên 2=Scott|họ 3=Weisfeldt|tên 3=Sara|họ 4=Gauk-Roger|tên 4=Topher|tiêu đề=Taylor Swift wins court case|url=http://edition.cnn.com/2017/08/14/entertainment/taylor-swift-verdict/index.html|nhà xuất bản=CNN|ngày truy cập=August 20, 2017|ngày tháng=August 15, 2017|url hỏng=no|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20170819230306/http://edition.cnn.com/2017/08/14/entertainment/taylor-swift-verdict/index.html|ngày lưu trữ=August 19, 2017}}</ref> Sau đó cô xóa toàn bộ nội dung trên các tài khoản mạng xã hội của mình<ref>{{Cite news|url=http://www.news.com.au/entertainment/music/music-videos/taylor-swift-appears-to-have-deleted-all-of-her-social-media-accounts/news-story/7e19aa3db991a58a6a5d73241608ffe0|title=Speculation rife over Swift's social media disappearance|date=August 19, 2017|publisher=News.com.au|access-date=August 19, 2017|deadurl=no|archiveurl=https://web.archive.org/web/20170819062321/http://www.news.com.au/entertainment/music/music-videos/taylor-swift-appears-to-have-deleted-all-of-her-social-media-accounts/news-story/7e19aa3db991a58a6a5d73241608ffe0|archivedate=August 19, 2017}}</ref> và phát hành "[[Look What You Made Me Do]]" dưới dạng đĩa đơn mở đường cho album phòng thu thứ sáu, ''[[Reputation (album của Taylor Swift)|Reputation]]''.<ref>{{Cite journal|last1=Aswad|first1=Jem|title=Taylor Swift's New Single, 'Look What You Made Me Do,' Arrives (Listen)|magazine=Variety|date=August 24, 2017|url=https://variety.com/2017/music/news/taylor-swifts-new-single-look-what-you-made-me-do-arrives-listen-1202538781/|accessdate=August 29, 2017|deadurl=no|archiveurl=https://web.archive.org/web/20170828211858/http://variety.com/2017/music/news/taylor-swifts-new-single-look-what-you-made-me-do-arrives-listen-1202538781/|archivedate=August 28, 2017}}</ref> Đĩa đơn đạt vị trí đầu bảng tại Úc, Ireland, New Zealand, Anh Quốc và Hoa Kỳ.<ref>Peak positions:<br />
Vào tháng 8 năm 2017, Taylor đã kiện và giành phần thắng trong một vụ kiện dân sự với David Mueller, người từng là một dẫn chương trình cho đài [[KYGO-FM]] ở [[Denver]]. Bốn năm trước đó, Taylor đã thông báo với những người chủ của Muller rằng anh ta đã có hành vi tấn công tình dục với cô bằng cách đụng chạm vào người cô. Trước khi bị đuổi việc, Mueller đã tố cáo Taylor là kẻ dối trá và kiện cô vì khiến anh ta mất việc. Một thời gian ngắn sau đó, Taylor kiện ngược lại Muller vì tội tấn công tình dục. Ban bồi thẩm đã bác bỏ những thanh minh từ phía Muller và thay vào đó nghiêng về phía Taylor.<ref>{{Chú thích web|họ 1=Gonzalez|tên 1=Sandra|họ 2=McLean|tên 2=Scott|họ 3=Weisfeldt|tên 3=Sara|họ 4=Gauk-Roger|tên 4=Topher|tiêu đề=Taylor Swift wins court case|url=http://edition.cnn.com/2017/08/14/entertainment/taylor-swift-verdict/index.html|nhà xuất bản=CNN|ngày truy cập=August 20, 2017|ngày tháng=August 15, 2017|url hỏng=no|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20170819230306/http://edition.cnn.com/2017/08/14/entertainment/taylor-swift-verdict/index.html|ngày lưu trữ=August 19, 2017}}</ref> Sau đó cô xóa toàn bộ nội dung trên các tài khoản mạng xã hội của mình<ref>{{Cite news|url=http://www.news.com.au/entertainment/music/music-videos/taylor-swift-appears-to-have-deleted-all-of-her-social-media-accounts/news-story/7e19aa3db991a58a6a5d73241608ffe0|title=Speculation rife over Swift's social media disappearance|date=August 19, 2017|publisher=News.com.au|access-date=August 19, 2017|deadurl=no|archiveurl=https://web.archive.org/web/20170819062321/http://www.news.com.au/entertainment/music/music-videos/taylor-swift-appears-to-have-deleted-all-of-her-social-media-accounts/news-story/7e19aa3db991a58a6a5d73241608ffe0|archivedate=August 19, 2017}}</ref> và phát hành "[[Look What You Made Me Do]]" dưới dạng đĩa đơn mở đường cho album phòng thu thứ sáu, ''[[Reputation (album của Taylor Swift)|Reputation]]''.<ref>{{Cite journal|last1=Aswad|first1=Jem|title=Taylor Swift's New Single, 'Look What You Made Me Do,' Arrives (Listen)|magazine=Variety|date=August 24, 2017|url=https://variety.com/2017/music/news/taylor-swifts-new-single-look-what-you-made-me-do-arrives-listen-1202538781/|accessdate=August 29, 2017|deadurl=no|archiveurl=https://web.archive.org/web/20170828211858/http://variety.com/2017/music/news/taylor-swifts-new-single-look-what-you-made-me-do-arrives-listen-1202538781/|archivedate=August 28, 2017}}</ref> Đĩa đơn đạt vị trí đầu bảng tại Úc, Ireland, New Zealand, Anh Quốc và Hoa Kỳ.<ref>Peak positions:<br />
{{Chú thích web|url=http://www.ariacharts.com.au/news/2017/taylor-swift-scores-fifth-1-single|nhà xuất bản=Australian Recording Industry Association|ngày tháng=September 2, 2017|ngày truy cập=September 2, 2017|tiêu đề=Taylor Swift Scores Fifth No. 1 Single|url hỏng=no|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20170902191138/http://www.ariacharts.com.au/news/2017/taylor-swift-scores-fifth-1-single|ngày lưu trữ=September 2, 2017}}<br />{{Chú thích web|url=http://irma.ie/index.cfm?page=irish-charts&chart=Singles|tiêu đề=IRMA – Irish Charts|nhà xuất bản=[[Irish Recorded Music Association]]|ngày truy cập=September 2, 2017|url hỏng=no|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20170614003514/http://www.irma.ie/index.cfm?page=irish-charts&chart=Singles|ngày lưu trữ=June 14, 2017}}<br />{{Chú thích web|url=http://nztop40.co.nz/chart/singles?chart=4394|tiêu đề=NZ Top 40 Singles Chart|nhà xuất bản=[[Recorded Music NZ]]|ngày tháng=September 4, 2017|ngày truy cập=September 1, 2017|url hỏng=no|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20170901115252/http://nztop40.co.nz/chart/singles?chart=4394|ngày lưu trữ=September 1, 2017}}<br />{{Chú thích web|tiêu đề=Taylor Swift scores first Number 1 on the Official Singles Chart with 'LWYMMD'|url=http://www.officialcharts.com/chart-news/taylor-swift-scores-first-number-1-on-the-official-singles-chart-with-lwymmd__20320/|nhà xuất bản=Official Charts Company|ngày tháng=September 1, 2017|ngày truy cập=September 1, 2017|tên 1=Jack|họ 1=White|url hỏng=no|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20170902004233/http://www.officialcharts.com/chart-news/taylor-swift-scores-first-number-1-on-the-official-singles-chart-with-lwymmd__20320/|ngày lưu trữ=September 2, 2017}}</ref><ref name="lwymmd">{{Cite journal|last1=Trust|first1=Gary|title=Taylor Swift at Nos. 1 & 4 on Billboard Hot 100, as Cardi B Moves Up to No. 2|journal=Billboard|date=September 11, 2017|url=http://www.billboard.com/articles/columns/chart-beat/7957955/taylor-swift-hot-100-look-what-you-made-me-do-ready-for-it|accessdate=October 30, 2017|deadurl=no|archiveurl=https://web.archive.org/web/20170921152317/http://www.billboard.com/articles/columns/chart-beat/7957955/taylor-swift-hot-100-look-what-you-made-me-do-ready-for-it|archivedate=September 21, 2017}}</ref> Video âm nhạc cho bài hát đạt 43.2&nbsp;triệu views trong ngày đầu tiên được ra mắt trên YouTube, phá kỉ lục của trang web về video âm nhạc có lượng lượt xem trong 24 giờ đầu cao nhất.<ref>{{Cite news|last=Lewis|first=Randy|title=Taylor Swift's 'Look What You Made Me Do' video bashes another YouTube record|url=http://www.latimes.com/entertainment/la-et-entertainment-news-updates-august-taylor-swift-s-look-what-you-made-me-1503967193-htmlstory.html|newspaper=Los Angeles Times|accessdate=August 29, 2017|date=August 29, 2017|deadurl=no|archiveurl=https://web.archive.org/web/20170829024355/http://www.latimes.com/entertainment/la-et-entertainment-news-updates-august-taylor-swift-s-look-what-you-made-me-1503967193-htmlstory.html|archivedate=August 29, 2017}}</ref> Vào tháng 10, Swift phát hành đĩa đơn thứ hai từ album, "[[...Ready for It?]]",<ref>{{Chú thích web|tiêu đề=Top 40 Rhythmic Future Releases|url=https://www.allaccess.com/top40-rhythmic/future-releases|nhà xuất bản=All Access Media Group|ngày truy cập=October 23, 2017|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20171023213344/https://www.allaccess.com/top40-rhythmic/future-releases|ngày lưu trữ=October 23, 2017}}</ref> đạt hạng ba tại Úc và hạng bốn tại Hoa Kỳ.<ref name="lwymmd" /><ref>{{Chú thích web|tiêu đề=Taylor Swift holds No. 1 for second week|url=http://www.ariacharts.com.au/news/2017/taylor-swift-holds-1-for-second-week|nhà xuất bản=Australian Recording Industry Association|ngày tháng=September 9, 2017|ngày truy cập=October 7, 2017|url hỏng=no|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20170917034506/http://www.ariacharts.com.au/news/2017/taylor-swift-holds-1-for-second-week|ngày lưu trữ=September 17, 2017}}</ref>
{{Chú thích web|url=http://www.ariacharts.com.au/news/2017/taylor-swift-scores-fifth-1-single|nhà xuất bản=Australian Recording Industry Association|ngày tháng=September 2, 2017|ngày truy cập=September 2, 2017|tiêu đề=Taylor Swift Scores Fifth No. 1 Single|url hỏng=no|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20170902191138/http://www.ariacharts.com.au/news/2017/taylor-swift-scores-fifth-1-single|ngày lưu trữ=September 2, 2017}}<br />{{Chú thích web|url=http://irma.ie/index.cfm?page=irish-charts&chart=Singles|tiêu đề=IRMA – Irish Charts|nhà xuất bản=[[Irish Recorded Music Association]]|ngày truy cập=September 2, 2017|url hỏng=no|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20170614003514/http://www.irma.ie/index.cfm?page=irish-charts&chart=Singles|ngày lưu trữ=June 14, 2017}}<br />{{Chú thích web|url=http://nztop40.co.nz/chart/singles?chart=4394|tiêu đề=NZ Top 40 Singles Chart|nhà xuất bản=[[Recorded Music NZ]]|ngày tháng=September 4, 2017|ngày truy cập=September 1, 2017|url hỏng=no|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20170901115252/http://nztop40.co.nz/chart/singles?chart=4394|ngày lưu trữ=September 1, 2017}}<br />{{Chú thích web|tiêu đề=Taylor Swift scores first Number 1 on the Official Singles Chart with 'LWYMMD'|url=http://www.officialcharts.com/chart-news/taylor-swift-scores-first-number-1-on-the-official-singles-chart-with-lwymmd__20320/|nhà xuất bản=Official Charts Company|ngày tháng=September 1, 2017|ngày truy cập=September 1, 2017|tên 1=Jack|họ 1=White|url hỏng=no|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20170902004233/http://www.officialcharts.com/chart-news/taylor-swift-scores-first-number-1-on-the-official-singles-chart-with-lwymmd__20320/|ngày lưu trữ=September 2, 2017}}</ref><ref name="lwymmd">{{Cite journal|last1=Trust|first1=Gary|title=Taylor Swift at Nos. 1 & 4 on Billboard Hot 100, as Cardi B Moves Up to No. 2|journal=Billboard|date=September 11, 2017|url=http://www.billboard.com/articles/columns/chart-beat/7957955/taylor-swift-hot-100-look-what-you-made-me-do-ready-for-it|accessdate=October 30, 2017|deadurl=no|archiveurl=https://web.archive.org/web/20170921152317/http://www.billboard.com/articles/columns/chart-beat/7957955/taylor-swift-hot-100-look-what-you-made-me-do-ready-for-it|archivedate=September 21, 2017}}</ref> Video âm nhạc cho bài hát đạt 43.2&nbsp;triệu views trong ngày đầu tiên được ra mắt trên YouTube, phá kỉ lục của trang web về video âm nhạc có lượng lượt xem trong 24 giờ đầu cao nhất.<ref>{{Cite news|last=Lewis|first=Randy|title=Taylor Swift's 'Look What You Made Me Do' video bashes another YouTube record|url=http://www.latimes.com/entertainment/la-et-entertainment-news-updates-august-taylor-swift-s-look-what-you-made-me-1503967193-htmlstory.html|newspaper=Los Angeles Times|accessdate=August 29, 2017|date=August 29, 2017|deadurl=no|archiveurl=https://web.archive.org/web/20170829024355/http://www.latimes.com/entertainment/la-et-entertainment-news-updates-august-taylor-swift-s-look-what-you-made-me-1503967193-htmlstory.html|archivedate=August 29, 2017}}</ref> Vào tháng 10, Taylor phát hành đĩa đơn thứ hai từ album, "[[...Ready for It?]]",<ref>{{Chú thích web|tiêu đề=Top 40 Rhythmic Future Releases|url=https://www.allaccess.com/top40-rhythmic/future-releases|nhà xuất bản=All Access Media Group|ngày truy cập=October 23, 2017|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20171023213344/https://www.allaccess.com/top40-rhythmic/future-releases|ngày lưu trữ=October 23, 2017}}</ref> đạt hạng ba tại Úc và hạng bốn tại Hoa Kỳ.<ref name="lwymmd" /><ref>{{Chú thích web|tiêu đề=Taylor Swift holds No. 1 for second week|url=http://www.ariacharts.com.au/news/2017/taylor-swift-holds-1-for-second-week|nhà xuất bản=Australian Recording Industry Association|ngày tháng=September 9, 2017|ngày truy cập=October 7, 2017|url hỏng=no|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20170917034506/http://www.ariacharts.com.au/news/2017/taylor-swift-holds-1-for-second-week|ngày lưu trữ=September 17, 2017}}</ref>


Hai đĩa đơn quảng bá đã được phát hành từ ''Reputation'', "[[Gorgeous (bài hát của Taylor Swift)|Gorgeous]]" và "[[Call It What You Want (bài hát của Taylor Swift)|Call It What You Want]]"; trong đó "Gorgeous" được phát hành làm đĩa đơn thứ năm từ album, nhưng chỉ được phát hành ở châu Âu.<ref>{{Cite magazine|url=http://www.billboard.com/articles/news/8006719/taylor-swift-gorgeous-single-release|title=Taylor Swift's 'Gorgeous' New Single Has Arrived: Listen|last=Brandle|first=Lars|date=October 20, 2017|magazine=Billboard|access-date=December 7, 2017|deadurl=no|archiveurl=https://web.archive.org/web/20171020094302/http://www.billboard.com/articles/news/8006719/taylor-swift-gorgeous-single-release|archivedate=October 20, 2017}}<br>{{Cite magazine|last1=Iasimone|first1=Ashley|last2=Brandle|first2=Lars|title=Taylor Swift Debuts 'Call It What You Want': Watch Lyric Video|url=https://www.billboard.com/articles/columns/pop/8022883/taylor-swift-call-it-what-you-want-song-listen|accessdate=December 7, 2017|magazine=Billboard|date=November 3, 2017|deadurl=no|archiveurl=https://web.archive.org/web/20171205182259/https://www.billboard.com/articles/columns/pop/8022883/taylor-swift-call-it-what-you-want-song-listen|archivedate=December 5, 2017}}<br>{{Chú thích web |url=http://www.bbc.co.uk/radio1/playlist |tiêu đề=BBC – Radio 1 – Playlist |nhà xuất bản=[[BBC Radio 1]] |ngày truy cập=12 January 2018 |url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20180112164557/http://www.bbc.co.uk/radio1/playlist |ngày lưu trữ=12 January 2018}}</ref> Album ra mắt ngày 10 tháng 11 năm 2017, tiêu thụ đạt 1.216 triệu bản trong tuần đầu phát hành tại Hoa Kỳ—trở thành album có lượng tiêu thụ cao nhất (doanh số thuần) tại nước này trong năm 2017—và 2 triệu bản trong tuần đấu phát hành trên toàn thế giới.<ref>{{Cite magazine|title=Taylor Swift Schools the Music Industry Once Again, While Streaming Services Wring Their Hands|first=Robert|last=Levine|magazine=Billboard|url=https://www.billboard.com/articles/business/8046278/taylor-swift-streaming-services-reputation-music-industry-analysis|date=November 22, 2017|accessdate=December 2, 2017|deadurl=no|archiveurl=https://web.archive.org/web/20171130163201/https://www.billboard.com/articles/business/8046278/taylor-swift-streaming-services-reputation-music-industry-analysis|archivedate=November 30, 2017}}</ref> Album đứng đầu bảng xếp hạng tại rất nhiều nước, trong đó có Hoa Kỳ, Anh Quốc, Úc và Canada.<ref>{{Cite magazine|last1=Brandle|first1=Lars|title=Taylor Swift's 'Reputation' Rules Australia's Albums Chart|url=https://www.billboard.com/articles/columns/chart-beat/8039595/taylor-swift-reputation-rules-australia-albums-chart|accessdate=December 2, 2017|magazine=Billboard|date=November 20, 2017|deadurl=no|archiveurl=https://web.archive.org/web/20171120194555/http://www.billboard.com/articles/columns/chart-beat/8039595/taylor-swift-reputation-rules-australia-albums-chart|archivedate=November 20, 2017}}</ref><ref>{{Cite magazine|title=Taylor Swift Chart History|url=https://www.billboard.com/music/Taylor-Swift/chart-history/canadian-albums|accessdate=December 2, 2017|magazine=Billboard|deadurl=no|archiveurl=https://web.archive.org/web/20171207180058/https://www.billboard.com/music/Taylor-Swift/chart-history/canadian-albums|archivedate=December 7, 2017}}</ref> Cuối tháng đó, Swift đã trình diễn "...Ready for It?" và "Call It What You Want" trên ''[[Saturday Night Live]]''.<ref>{{Cite news|last1=Aswad|first1=Jem|title=Taylor Swift Strips Things Down for 'Saturday Night Live' Performances (Watch)|url=https://variety.com/2017/music/news/taylor-swift-strips-things-down-for-saturday-night-live-performances-watch-video-1202612891/|accessdate=November 18, 2017|work=Variety|date=November 12, 2017|deadurl=no|archiveurl=https://web.archive.org/web/20171115230246/http://variety.com/2017/music/news/taylor-swift-strips-things-down-for-saturday-night-live-performances-watch-video-1202612891/|archivedate=November 15, 2017}}</ref> "[[End Game (bài hát)|End Game]]", hợp tác với [[Ed Sheeran]] đạt vị trí thứ 18 tại Hoa Kỳ.<ref>{{Cite magazine|title=Taylor Swift Chart History|magazine=Billboard|url=https://www.billboard.com/music/Taylor-Swift/chart-history/hot-100|accessdate=7 April 2018|deadurl=no|archiveurl=https://web.archive.org/web/20180308171829/https://www.billboard.com/music/Taylor-Swift/chart-history/hot-100|archivedate=March 8, 2018}}</ref> Các đĩa đơn tiếp theo trong album được phát hành là "[[New Year's Day (bài hát của Taylor Swift)|New Year's Day]]" và "[[Delicate (bài hát của Taylor Swift)|Delicate]]"; riêng "New Year's Day" chỉ được phát hành trên các đài radio nhạc đồng quê.<ref>{{Chú thích web|url=https://www.billboard.com/articles/columns/country/8039304/taylor-swift-new-years-day-reputation-country-radio|tiêu đề=Taylor Swift's 'New Year's Day' Goes to Country Radio: Is Country Ready for It?|họ 1=Trust|tên 1=Gary|website=Billboard|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20171205104854/https://www.billboard.com/articles/columns/country/8039304/taylor-swift-new-years-day-reputation-country-radio|ngày lưu trữ=December 5, 2017|url hỏng=no|ngày truy cập=13 April 2018}}<br>{{Chú thích web|họ 1=Braca|tên 1=Nina|tiêu đề=Taylor Swift to Release 'Delicate' Music Video at iHeart Radio Music Awards|url=https://www.billboard.com/articles/columns/pop/8231873/taylor-swift-delicate-music-video-iheart-radio-music-awards|website=Billboard|ngày truy cập=13 April 2018|url hỏng=no|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20180414113842/https://www.billboard.com/articles/columns/pop/8231873/taylor-swift-delicate-music-video-iheart-radio-music-awards|ngày lưu trữ=April 14, 2018}}</ref>
Hai đĩa đơn quảng bá đã được phát hành từ ''Reputation'', "[[Gorgeous (bài hát của Taylor Swift)|Gorgeous]]" và "[[Call It What You Want (bài hát của Taylor Swift)|Call It What You Want]]"; trong đó "Gorgeous" được phát hành làm đĩa đơn thứ năm từ album, nhưng chỉ được phát hành ở châu Âu.<ref>{{Cite magazine|url=http://www.billboard.com/articles/news/8006719/taylor-swift-gorgeous-single-release|title=Taylor Swift's 'Gorgeous' New Single Has Arrived: Listen|last=Brandle|first=Lars|date=October 20, 2017|magazine=Billboard|access-date=December 7, 2017|deadurl=no|archiveurl=https://web.archive.org/web/20171020094302/http://www.billboard.com/articles/news/8006719/taylor-swift-gorgeous-single-release|archivedate=October 20, 2017}}<br>{{Cite magazine|last1=Iasimone|first1=Ashley|last2=Brandle|first2=Lars|title=Taylor Swift Debuts 'Call It What You Want': Watch Lyric Video|url=https://www.billboard.com/articles/columns/pop/8022883/taylor-swift-call-it-what-you-want-song-listen|accessdate=December 7, 2017|magazine=Billboard|date=November 3, 2017|deadurl=no|archiveurl=https://web.archive.org/web/20171205182259/https://www.billboard.com/articles/columns/pop/8022883/taylor-swift-call-it-what-you-want-song-listen|archivedate=December 5, 2017}}<br>{{Chú thích web |url=http://www.bbc.co.uk/radio1/playlist |tiêu đề=BBC – Radio 1 – Playlist |nhà xuất bản=[[BBC Radio 1]] |ngày truy cập=12 January 2018 |url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20180112164557/http://www.bbc.co.uk/radio1/playlist |ngày lưu trữ=12 January 2018}}</ref> Album ra mắt ngày 10 tháng 11 năm 2017, tiêu thụ đạt 1.216 triệu bản trong tuần đầu phát hành tại Hoa Kỳ—trở thành album có lượng tiêu thụ cao nhất (doanh số thuần) tại nước này trong năm 2017—và 2 triệu bản trong tuần đấu phát hành trên toàn thế giới.<ref>{{Cite magazine|title=Taylor Swift Schools the Music Industry Once Again, While Streaming Services Wring Their Hands|first=Robert|last=Levine|magazine=Billboard|url=https://www.billboard.com/articles/business/8046278/taylor-swift-streaming-services-reputation-music-industry-analysis|date=November 22, 2017|accessdate=December 2, 2017|deadurl=no|archiveurl=https://web.archive.org/web/20171130163201/https://www.billboard.com/articles/business/8046278/taylor-swift-streaming-services-reputation-music-industry-analysis|archivedate=November 30, 2017}}</ref> Album đứng đầu bảng xếp hạng tại rất nhiều nước, trong đó có Hoa Kỳ, Anh Quốc, Úc và Canada.<ref>{{Cite magazine|last1=Brandle|first1=Lars|title=Taylor Swift's 'Reputation' Rules Australia's Albums Chart|url=https://www.billboard.com/articles/columns/chart-beat/8039595/taylor-swift-reputation-rules-australia-albums-chart|accessdate=December 2, 2017|magazine=Billboard|date=November 20, 2017|deadurl=no|archiveurl=https://web.archive.org/web/20171120194555/http://www.billboard.com/articles/columns/chart-beat/8039595/taylor-swift-reputation-rules-australia-albums-chart|archivedate=November 20, 2017}}</ref><ref>{{Cite magazine|title=Taylor Swift Chart History|url=https://www.billboard.com/music/Taylor-Swift/chart-history/canadian-albums|accessdate=December 2, 2017|magazine=Billboard|deadurl=no|archiveurl=https://web.archive.org/web/20171207180058/https://www.billboard.com/music/Taylor-Swift/chart-history/canadian-albums|archivedate=December 7, 2017}}</ref> Cuối tháng đó, Taylor đã trình diễn "...Ready for It?" và "Call It What You Want" trên ''[[Saturday Night Live]]''.<ref>{{Cite news|last1=Aswad|first1=Jem|title=Taylor Swift Strips Things Down for 'Saturday Night Live' Performances (Watch)|url=https://variety.com/2017/music/news/taylor-swift-strips-things-down-for-saturday-night-live-performances-watch-video-1202612891/|accessdate=November 18, 2017|work=Variety|date=November 12, 2017|deadurl=no|archiveurl=https://web.archive.org/web/20171115230246/http://variety.com/2017/music/news/taylor-swift-strips-things-down-for-saturday-night-live-performances-watch-video-1202612891/|archivedate=November 15, 2017}}</ref> "[[End Game (bài hát)|End Game]]", hợp tác với [[Ed Sheeran]] đạt vị trí thứ 18 tại Hoa Kỳ.<ref>{{Cite magazine|title=Taylor Swift Chart History|magazine=Billboard|url=https://www.billboard.com/music/Taylor-Swift/chart-history/hot-100|accessdate=7 April 2018|deadurl=no|archiveurl=https://web.archive.org/web/20180308171829/https://www.billboard.com/music/Taylor-Swift/chart-history/hot-100|archivedate=March 8, 2018}}</ref> Các đĩa đơn tiếp theo trong album được phát hành là "[[New Year's Day (bài hát của Taylor Swift)|New Year's Day]]" và "[[Delicate (bài hát của Taylor Swift)|Delicate]]"; riêng "New Year's Day" chỉ được phát hành trên các đài radio nhạc đồng quê.<ref>{{Chú thích web|url=https://www.billboard.com/articles/columns/country/8039304/taylor-swift-new-years-day-reputation-country-radio|tiêu đề=Taylor Swift's 'New Year's Day' Goes to Country Radio: Is Country Ready for It?|họ 1=Trust|tên 1=Gary|website=Billboard|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20171205104854/https://www.billboard.com/articles/columns/country/8039304/taylor-swift-new-years-day-reputation-country-radio|ngày lưu trữ=December 5, 2017|url hỏng=no|ngày truy cập=13 April 2018}}<br>{{Chú thích web|họ 1=Braca|tên 1=Nina|tiêu đề=Taylor Swift to Release 'Delicate' Music Video at iHeart Radio Music Awards|url=https://www.billboard.com/articles/columns/pop/8231873/taylor-swift-delicate-music-video-iheart-radio-music-awards|website=Billboard|ngày truy cập=13 April 2018|url hỏng=no|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20180414113842/https://www.billboard.com/articles/columns/pop/8231873/taylor-swift-delicate-music-video-iheart-radio-music-awards|ngày lưu trữ=April 14, 2018}}</ref>


Để quảng bá cho ''Reputation'', Swift đã tham gia chuyến lưu diễn [[Taylor Swift's Reputation Stadium Tour]] trong năm 2018.<ref>{{Cite magazine|last1=Stubblebine|first1=Allison|title=Taylor Swift Announces First Round of Reputation Stadium Tour Dates|magazine=Billboard|date=November 13, 2017|url=http://www.billboard.com/articles/columns/pop/8031415/taylor-swift-reputation-tour-dates|accessdate=November 18, 2017|deadurl=no|archiveurl=https://web.archive.org/web/20171114063459/http://www.billboard.com/articles/columns/pop/8031415/taylor-swift-reputation-tour-dates|archivedate=November 14, 2017}}</ref> Vào tháng 4 năm 2018, Swift đã hợp tác cùng ban nhạc [[Sugarland]] cho đĩa đơn "[[Babe (bài hát của Sugarland)|Babe]]" từ album ''[[Bigger (album)|Bigger]]'' của họ.{{efn|Swift và thành viên [[Pat Monahan]] của ban nhạc [[Train (ban nhạc)|Train]] ban đầu đã viết "Babe" cho album phòng thu thứ tư của Swift, ''[[Red (album của Taylor Swift)|Red]]''.<ref name="Bigger">{{Cite web|last1=Hudak|first1=Joseph|title=Sugarland Announce New Album 'Bigger,' Taylor Swift Collaboration|url=https://www.rollingstone.com/country/news/sugarland-announce-new-album-bigger-taylor-swift-collaboration-w519097|website=Rolling Stone|accessdate=13 April 2018|deadurl=no|archiveurl=https://web.archive.org/web/20180414113840/https://www.rollingstone.com/country/news/sugarland-announce-new-album-bigger-taylor-swift-collaboration-w519097|archivedate=April 14, 2018}}</ref>}}
Để quảng bá cho ''Reputation'', Taylor đã tham gia chuyến lưu diễn [[Taylor Swift's Reputation Stadium Tour]] trong năm 2018.<ref>{{Cite magazine|last1=Stubblebine|first1=Allison|title=Taylor Swift Announces First Round of Reputation Stadium Tour Dates|magazine=Billboard|date=November 13, 2017|url=http://www.billboard.com/articles/columns/pop/8031415/taylor-swift-reputation-tour-dates|accessdate=November 18, 2017|deadurl=no|archiveurl=https://web.archive.org/web/20171114063459/http://www.billboard.com/articles/columns/pop/8031415/taylor-swift-reputation-tour-dates|archivedate=November 14, 2017}}</ref> Vào tháng 4 năm 2018, Taylor đã hợp tác cùng ban nhạc [[Sugarland]] cho đĩa đơn "[[Babe (bài hát của Sugarland)|Babe]]" từ album ''[[Bigger (album)|Bigger]]'' của họ.{{efn|Swift và thành viên [[Pat Monahan]] của ban nhạc [[Train (ban nhạc)|Train]] ban đầu đã viết "Babe" cho album phòng thu thứ tư của Swift, ''[[Red (album của Taylor Swift)|Red]]''.<ref name="Bigger">{{Cite web|last1=Hudak|first1=Joseph|title=Sugarland Announce New Album 'Bigger,' Taylor Swift Collaboration|url=https://www.rollingstone.com/country/news/sugarland-announce-new-album-bigger-taylor-swift-collaboration-w519097|website=Rolling Stone|accessdate=13 April 2018|deadurl=no|archiveurl=https://web.archive.org/web/20180414113840/https://www.rollingstone.com/country/news/sugarland-announce-new-album-bigger-taylor-swift-collaboration-w519097|archivedate=April 14, 2018}}</ref>}}


=== 2019: ''Lover, Thắng lớn tại [[American Music Awards]] [[2019]]'' ===
=== 2019: ''Lover, Thắng lớn tại [[American Music Awards]] [[2019]]'' ===
Đĩa đơn mở đầu "[[Me! (bài hát của Taylor Swift)|Me!]]" (hợp tác cùng [[Brendon Urie]] từ [[Panic! at the Disco]]) nằm trong [[album phòng thu]] thứ bảy, ''Lover'', đã phát hành vào ngày 26 tháng 4 năm 2019 và đánh dấu lần đầu tiên cô làm việc với [[Republic Records]].<ref>{{cite web |last=Coscarelli |first=Joe |title=Taylor Swift Releases 'Me!,' a New Song Featuring Brendon Urie |url=https://www.nytimes.com/2019/04/26/arts/music/taylor-swift-me.html |website=The New York Times |accessdate=27 tháng 4 năm 2019 |date=26 tháng 4 năm 2019}}</ref> MV của ca khúc trên đã trở thành video ca nhạc có lượng xem nhiều nhất trong 24h đầu tiên đối với một nghệ sĩ nữ hoặc là một nghệ sĩ solo với 65,2 triệu lượt xem. MV trên đã cán mốc 100 triệu lượt xem trên [[YouTube]] trong 79 giờ, từ đó giúp Swift phá kỷ lục MV nhanh nhất cán mốc 100 triệu lượt xem trên hệ thống [[Vevo|VEVO]].
Đĩa đơn mở đầu "[[Me! (bài hát của Taylor Swift)|Me!]]" (hợp tác cùng [[Brendon Urie]] từ [[Panic! at the Disco]]) nằm trong [[album phòng thu]] thứ bảy, ''Lover'', đã phát hành vào ngày 26 tháng 4 năm 2019 và đánh dấu lần đầu tiên cô làm việc với [[Republic Records]].<ref>{{cite web |last=Coscarelli |first=Joe |title=Taylor Swift Releases 'Me!,' a New Song Featuring Brendon Urie |url=https://www.nytimes.com/2019/04/26/arts/music/taylor-swift-me.html |website=The New York Times |accessdate=27 tháng 4 năm 2019 |date=26 tháng 4 năm 2019}}</ref> MV của ca khúc trên đã trở thành video ca nhạc có lượng xem nhiều nhất trong 24h đầu tiên đối với một nghệ sĩ nữ hoặc là một nghệ sĩ solo với 65,2 triệu lượt xem. MV trên đã cán mốc 100 triệu lượt xem trên [[YouTube]] trong 79 giờ, từ đó giúp Taylor phá kỷ lục MV nhanh nhất cán mốc 100 triệu lượt xem trên hệ thống [[Vevo|VEVO]].


Ngày 17 tháng 6 năm 2019, Taylor Swift đã chính thức cho ra mắt MV ''[[You Need to Calm Down|You Need To Calm Down]]'' và tạo nên hiệu ứng lan tỏa rất lớn trên toàn thế giới. Trước đó, ngày 14 tháng 6, nữ ca sĩ cũng đã tung bản lyrics video cho ca khúc mới này. Đây là single thứ hai nằm trong album phòng thu thứ bảy sắp ra mắt của cô. MV này gây ra rất nhiều tranh cãi vì liên quan đến việc ủng hộ cộng đồng [[LGBT]]. Hiện tại, ''You Need To Calm Down đã bị '''cấm chiếu ở hơn 30 quốc gia và vùng lãnh thổ.'''''
Ngày 17 tháng 6 năm 2019, Taylor Swift đã chính thức cho ra mắt MV ''[[You Need to Calm Down|You Need To Calm Down]]'' và tạo nên hiệu ứng lan tỏa rất lớn trên toàn thế giới. Trước đó, ngày 14 tháng 6, nữ ca sĩ cũng đã tung bản lyrics video cho ca khúc mới này. Đây là single thứ hai nằm trong album phòng thu thứ bảy sắp ra mắt của cô. MV này gây ra rất nhiều tranh cãi vì liên quan đến việc ủng hộ cộng đồng [[LGBT]]. Hiện tại, ''You Need To Calm Down đã bị '''cấm chiếu ở hơn 30 quốc gia và vùng lãnh thổ.'''''
Dòng 148: Dòng 148:
[[File:Taylor Swift Reputation Tour1 (cropped).jpg | nhỏ |thế=|Taylor Swift biểu diễn tại [[Reputation Stadium Tour]] vào [[Tháng năm|tháng 5]] năm [[2018]].]]
[[File:Taylor Swift Reputation Tour1 (cropped).jpg | nhỏ |thế=|Taylor Swift biểu diễn tại [[Reputation Stadium Tour]] vào [[Tháng năm|tháng 5]] năm [[2018]].]]


[[Âm nhạc]] của Swift hòa trộn các yếu tố nhạc [[pop]], [[pop rock]] và [[nhạc đồng quê|đồng quê]].<ref name="rollingstone1">{{Chú thích web|url=http://www.rollingstone.com/music/artists/taylor-swift/biography|tiêu đề=Taylor Swift Biography|work=Rolling Stone|ngày truy cập=July 30, 2012}}</ref> Cô tự nhận mình là một nghệ sĩ đồng quê cho đến khi phát hành ''[[1989 (album của Taylor Swift)|1989]]'' (2014), được cô mô tả là một "album mang kết cấu giai điệu [[pop]]".<ref name="tennessean.com">{{Chú thích web|tên 1=Peter |họ 1=Cooper |url=http://www.tennessean.com/story/entertainment/music/peter-cooper/2014/10/26/taylor-swift-reaches-turning-point/17871775/ |tiêu đề=Taylor Swift reaches a turning point with '1989' |work=The Tennessean |ngày tháng=October 26, 2014 |ngày truy cập=April 11, 2015}}</ref> ''[[Rolling Stone]]'' cho rằng Swift "có thể được chơi trên trạm phát thanh đồng quê, nhưng cô ấy là một trong những ngôi sao [[Rock|nhạc rock]] thực thụ hiếm hoi hiện nay".<ref>{{Chú thích web |url=http://www.rollingstone.com/music/lists/women-who-rock-the-50-greatest-albums-of-all-time-20120622/taylor-swift-speak-now-19691231 |url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20120712013447/http://www.rollingstone.com/music/lists/women-who-rock-the-50-greatest-albums-of-all-time-20120622/taylor-swift-speak-now-19691231|ngày lưu trữ=July 12, 2012 |tiêu đề=Women Who Rock: The 50 Greatest Albums of All Time: Taylor Swift, 'Speak Now' |work=Rolling Stone |ngày truy cập=July 30, 2012}}</ref> ''The New York Times'' nhận thấy "Âm nhạc của Swift không mấy liên quan đến dòng nhạc đồng quê—một vài tiếng gảy [[banjo]], một đôi ủng cao bồi trên sân khấu cùng tiếng đàn [[guitar]] du dương—nhưng có chút gì đó khác biệt trong sự rạng rỡ của cô ấy, đôi chút mỏng manh mang nét khác biệt so với [[Nashville, Tennessee|Nashville]]."<ref>{{cite news |url=http://www.nytimes.com/2011/07/22/arts/music/pop-and-rock-listings-july-22-28.html |title=Pop and Rock Listings July 22 – 28 |newspaper=The New York Times |date=July 21, 2011 |accessdate=July 12, 2012}}</ref> ''The New Yorker'' tin rằng cô "sáng tác những bài hát tường thuật với [[giai điệu]] trong trẻo và cường điệu hóa".<ref name="guardian1">{{cite news |last=Petridis|first=Alexis|url=https://www.theguardian.com/music/2009/mar/06/taylor-swift-fearless-album-review |title=Taylor Swift: Fearless |work=The Guardian |accessdate=June 24, 2012 |location=London |date=March 6, 2009}}</ref>
[[Âm nhạc]] của Taylor hòa trộn các yếu tố nhạc [[pop]], [[pop rock]] và [[nhạc đồng quê|đồng quê]].<ref name="rollingstone1">{{Chú thích web|url=http://www.rollingstone.com/music/artists/taylor-swift/biography|tiêu đề=Taylor Swift Biography|work=Rolling Stone|ngày truy cập=July 30, 2012}}</ref> Cô tự nhận mình là một nghệ sĩ đồng quê cho đến khi phát hành ''[[1989 (album của Taylor Swift)|1989]]'' (2014), được cô mô tả là một "album mang kết cấu giai điệu [[pop]]".<ref name="tennessean.com">{{Chú thích web|tên 1=Peter |họ 1=Cooper |url=http://www.tennessean.com/story/entertainment/music/peter-cooper/2014/10/26/taylor-swift-reaches-turning-point/17871775/ |tiêu đề=Taylor Swift reaches a turning point with '1989' |work=The Tennessean |ngày tháng=October 26, 2014 |ngày truy cập=April 11, 2015}}</ref> ''[[Rolling Stone]]'' cho rằng Taylor "có thể được chơi trên trạm phát thanh đồng quê, nhưng cô ấy là một trong những ngôi sao [[Rock|nhạc rock]] thực thụ hiếm hoi hiện nay".<ref>{{Chú thích web |url=http://www.rollingstone.com/music/lists/women-who-rock-the-50-greatest-albums-of-all-time-20120622/taylor-swift-speak-now-19691231 |url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20120712013447/http://www.rollingstone.com/music/lists/women-who-rock-the-50-greatest-albums-of-all-time-20120622/taylor-swift-speak-now-19691231|ngày lưu trữ=July 12, 2012 |tiêu đề=Women Who Rock: The 50 Greatest Albums of All Time: Taylor Swift, 'Speak Now' |work=Rolling Stone |ngày truy cập=July 30, 2012}}</ref> ''The New York Times'' nhận thấy "Âm nhạc của Taylor không mấy liên quan đến dòng nhạc đồng quê—một vài tiếng gảy [[banjo]], một đôi ủng cao bồi trên sân khấu cùng tiếng đàn [[guitar]] du dương—nhưng có chút gì đó khác biệt trong sự rạng rỡ của cô ấy, đôi chút mỏng manh mang nét khác biệt so với [[Nashville, Tennessee|Nashville]]."<ref>{{cite news |url=http://www.nytimes.com/2011/07/22/arts/music/pop-and-rock-listings-july-22-28.html |title=Pop and Rock Listings July 22 – 28 |newspaper=The New York Times |date=July 21, 2011 |accessdate=July 12, 2012}}</ref> ''The New Yorker'' tin rằng cô "sáng tác những bài hát tường thuật với [[giai điệu]] trong trẻo và cường điệu hóa".<ref name="guardian1">{{cite news |last=Petridis|first=Alexis|url=https://www.theguardian.com/music/2009/mar/06/taylor-swift-fearless-album-review |title=Taylor Swift: Fearless |work=The Guardian |accessdate=June 24, 2012 |location=London |date=March 6, 2009}}</ref>


Sophie Schillaci từ ''[[The Hollywood Reporter]]'' miêu tả giọng hát của Swift "ngọt ngào, nhưng mềm mại".<ref name="schillaci1">{{cite news |url=http://www.hollywoodreporter.com/review/taylor-swift-at-staples-center-227968 |work=The Hollywood Reporter |first=Sophie A. |last=Schillaci |title=Taylor Swift at Staples Center: Concert Review |date=August 25, 2011|accessdate=August 2, 2016}}</ref> Trong phòng thu, ''Los Angeles Times'' chỉ ra giọng điệu mang tính "quyết định" của Swift nằm ở "câu hát ảm đạm như một tiếng thở dài mãn nguyện hay vút cao một cách bất ngờ, giúp cô giữ sự nữ tính đáng yêu trong không gian thân mật".<ref name="LAT">{{cite news|url=http://latimesblogs.latimes.com/music_blog/2010/10/album-review-taylor-swifts-speak-now.html|title=Album review: Taylor Swift's 'Speak Now'|last=Powers|first=Ann|date=October 25, 2010|work=Los Angeles Times|accessdate=October 25, 2010}}</ref> ''Rolling Stone'', trong bài đánh giá ''Speak Now'', có ghi nhận: "Giọng hát của Swift đủ chân thật để cho thấy sự lão luyện của cô trong vai trò ca sĩ; cô hạ thấp giọng ở những đoạn quan trọng, trong tâm trạng của một cô gái e ấp đang cố gắng nắm lấy uy quyền."<ref>{{Chú thích web |họ 1=Sheffield|tên 1=Rob |url=http://www.rollingstone.com/music/albumreviews/speak-now-20101026 |tiêu đề=Speak Now |work=Rolling Stone |ngày tháng=October 26, 2010 |ngày truy cập=June 15, 2012}}</ref> Trong một bài đánh giá khác, ''[[The Village Voice]]'' cho rằng cách phân nhịp trước đây của Swift "nhạt nhẽo và lộn xộn, nhưng mọi thứ đã thay đổi. [Giọng hát] Swift nghe có vẻ gượng gạo và mỏng manh, thường đi lạc vào một cao độ có thể khiến một vài người nghe nổi đóa; nhưng cô đã học được cách làm cho từ ngữ khi hát nghe một cách chuẩn xác".<ref name="Voice">{{Chú thích web |url=http://www.villagevoice.com/2010-11-03/music/the-iceberg-songs-of-taylor-swift/ |tiêu đề=The Iceberg Songs of Taylor Swift |họ 1=Weber |tên 1=Theon |work=[[The Village Voice]] |ngày tháng=November 3, 2010 |ngày truy cập=November 3, 2010}}</ref> Giọng hát trực tiếp của Swift được đánh giá là "ổn" nhưng không bằng nhiều đồng nghiệp của cô.<ref name="schillaci1" /> Một số nhà phê bình vào năm 2009 mô tả giọng Swift "nhàm chán, mỏng manh và đôi khi yếu ớt như một con ngựa mới sinh".<ref>{{cite news |url=http://blogs.reuters.com/fanfare/2009/11/17/taylor-swift-fearless-or-tone-less/ |archiveurl=https://web.archive.org/web/20131221023813/http://blogs.reuters.com/fanfare/2009/11/17/taylor-swift-fearless-or-tone-less/|archivedate=December 21, 2013|agency=[[Reuters]] |date=November 17, 2009 |title=Taylor Swift – "Fearless" or tone-less? |accessdate=July 2, 2012 |first=Jill |last=Serjeant}}</ref><ref>{{cite news |url=http://www.ew.com/article/2009/11/12/cma-awards-best-worst |work=Entertainment Weekly |date=November 12, 2009 |title=CMA Awards best and worst, starring Taylor Swift, the ghost of Kanye West, and Carrie Underwood's purple sequined hot-pants |first=Ken |last=Tucker}}</ref> Tuy vậy, Swift lại nhận nhiều lời khen ngợi vì không sử dụng [[Auto-Tune]] để khắc phục cao độ khi trình diễn.<ref>{{cite news |url=http://www.boston.com/ae/music/articles/2010/10/24/taylor_swift_comes_into_her_own_with_speak_now/ |work=[[Boston Globe]] |first=James |last=Reed |title=Swift's ascent continues with arrival of new album |date=October 24, 2010}}</ref><ref>{{cite news |url=http://in.reuters.com/article/2009/11/20/idINIndia-44133520091120 |agency=Reuters |title=Taylor Swift's dream year brings out naysayers |date=November 20, 2009}}</ref>
Sophie Schillaci từ ''[[The Hollywood Reporter]]'' miêu tả giọng hát của Taylor "ngọt ngào, nhưng mềm mại".<ref name="schillaci1">{{cite news |url=http://www.hollywoodreporter.com/review/taylor-swift-at-staples-center-227968 |work=The Hollywood Reporter |first=Sophie A. |last=Schillaci |title=Taylor Swift at Staples Center: Concert Review |date=August 25, 2011|accessdate=August 2, 2016}}</ref> Trong phòng thu, ''Los Angeles Times'' chỉ ra giọng điệu mang tính "quyết định" của Taylor nằm ở "câu hát ảm đạm như một tiếng thở dài mãn nguyện hay vút cao một cách bất ngờ, giúp cô giữ sự nữ tính đáng yêu trong không gian thân mật".<ref name="LAT">{{cite news|url=http://latimesblogs.latimes.com/music_blog/2010/10/album-review-taylor-swifts-speak-now.html|title=Album review: Taylor Swift's 'Speak Now'|last=Powers|first=Ann|date=October 25, 2010|work=Los Angeles Times|accessdate=October 25, 2010}}</ref> ''Rolling Stone'', trong bài đánh giá ''Speak Now'', có ghi nhận: "Giọng hát của Taylor đủ chân thật để cho thấy sự lão luyện của cô trong vai trò ca sĩ; cô hạ thấp giọng ở những đoạn quan trọng, trong tâm trạng của một cô gái e ấp đang cố gắng nắm lấy uy quyền."<ref>{{Chú thích web |họ 1=Sheffield|tên 1=Rob |url=http://www.rollingstone.com/music/albumreviews/speak-now-20101026 |tiêu đề=Speak Now |work=Rolling Stone |ngày tháng=October 26, 2010 |ngày truy cập=June 15, 2012}}</ref> Trong một bài đánh giá khác, ''[[The Village Voice]]'' cho rằng cách phân nhịp trước đây của Taylor "nhạt nhẽo và lộn xộn, nhưng mọi thứ đã thay đổi. [Giọng hát] Taylor nghe có vẻ gượng gạo và mỏng manh, thường đi lạc vào một cao độ có thể khiến một vài người nghe nổi đóa; nhưng cô đã học được cách làm cho từ ngữ khi hát nghe một cách chuẩn xác".<ref name="Voice">{{Chú thích web |url=http://www.villagevoice.com/2010-11-03/music/the-iceberg-songs-of-taylor-swift/ |tiêu đề=The Iceberg Songs of Taylor Swift |họ 1=Weber |tên 1=Theon |work=[[The Village Voice]] |ngày tháng=November 3, 2010 |ngày truy cập=November 3, 2010}}</ref> Giọng hát trực tiếp của Taylor được đánh giá là "ổn" nhưng không bằng nhiều đồng nghiệp của cô.<ref name="schillaci1" /> Một số nhà phê bình vào năm 2009 mô tả giọng Taylor "nhàm chán, mỏng manh và đôi khi yếu ớt như một con ngựa mới sinh".<ref>{{cite news |url=http://blogs.reuters.com/fanfare/2009/11/17/taylor-swift-fearless-or-tone-less/ |archiveurl=https://web.archive.org/web/20131221023813/http://blogs.reuters.com/fanfare/2009/11/17/taylor-swift-fearless-or-tone-less/|archivedate=December 21, 2013|agency=[[Reuters]] |date=November 17, 2009 |title=Taylor Swift – "Fearless" or tone-less? |accessdate=July 2, 2012 |first=Jill |last=Serjeant}}</ref><ref>{{cite news |url=http://www.ew.com/article/2009/11/12/cma-awards-best-worst |work=Entertainment Weekly |date=November 12, 2009 |title=CMA Awards best and worst, starring Taylor Swift, the ghost of Kanye West, and Carrie Underwood's purple sequined hot-pants |first=Ken |last=Tucker}}</ref> Tuy vậy, Taylor lại nhận nhiều lời khen ngợi vì không sử dụng [[Auto-Tune]] để khắc phục cao độ khi trình diễn.<ref>{{cite news |url=http://www.boston.com/ae/music/articles/2010/10/24/taylor_swift_comes_into_her_own_with_speak_now/ |work=[[Boston Globe]] |first=James |last=Reed |title=Swift's ascent continues with arrival of new album |date=October 24, 2010}}</ref><ref>{{cite news |url=http://in.reuters.com/article/2009/11/20/idINIndia-44133520091120 |agency=Reuters |title=Taylor Swift's dream year brings out naysayers |date=November 20, 2009}}</ref>


Trong một cuộc phỏng vấn với ''The New Yorker'', Swift mô tả bản thân chủ yếu là một nhạc sĩ: "Tôi viết bài hát, giọng hát của tôi chỉ là cách để truyền đạt chúng".<ref name="widdicombe1" /><ref>{{Chú thích web |họ 1=DeLuca |tên 1=Dan |tiêu đề=Focused on 'great songs' Taylor Swift isn't thinking about "the next level" or Joe Jonas gossip |url=http://articles.philly.com/2008-11-11/news/25256467_1_big-machine-records-joe-jonas-country-music-association-awards/3 |url lưu trữ=http://wayback.archive.org/web/20160116064914/http://articles.philly.com/2008-11-11/news/25256467_1_big-machine-records-joe-jonas-country-music-association-awards/3 |ngày lưu trữ=January 16, 2016 |trang=3 |work=Philadelphia Daily News |ngày truy cập=April 17, 2012 |ngày tháng=November 11, 2008}}</ref> Borchetta thừa nhận vào năm 2010 rằng Swift "không phải là nghệ sĩ có kĩ thuật tốt nhất" nhưng mô tả cô là "người đại diện tốt nhất mà chúng tôi có được".<ref>{{Chú thích web |url=http://blogs.tennessean.com/tunein/2010/02/01/taylor-swift-has-mixed-reviews-from-grammy-night/ |url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20150713203631/http://blogs.tennessean.com/tunein/2010/02/01/taylor-swift-has-mixed-reviews-from-grammy-night/|ngày lưu trữ=July 13, 2015|tiêu đề=Taylor Swift gets mixed reviews at Grammys |work=The Tennessean |ngày tháng=February 1, 2010 |ngày truy cập=June 24, 2012}}</ref> Giọng hát của Swift đôi lúc khiến cô lo lắng và phải cố gắng cải thiện rất nhiều.<ref name="Up for Discussion">{{Chú thích web|url=http://www.billboard.com/articles/news/953737/taylor-swift-the-billboard-cover-story|tiêu đề=Taylor Swift: The Billboard Cover Story|họ 1=Roland|tên 1=Tom|ngày tháng=October 15, 2010|work=Billboard|ngày truy cập=July 3, 2012|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20101018200303/http://www.billboard.com/features/taylor-swift-the-billboard-cover-story-1004121338.story#/web/20101018200303/http://www.billboard.com/features/taylor-swift-the-billboard-cover-story-1004121338.story|ngày lưu trữ=October 18, 2010}}</ref> Một báo cáo vào năm 2010 cho biết Swift vẫn tiếp tục học thanh nhạc.<ref>{{cite news |url=http://www.nytimes.com/2010/10/24/arts/music/24swift.html|title=Taylor Swift Is Angry, Darn It |newspaper=The New York Times |date=October 20, 2010 |accessdate=June 24, 2012 |first=Jon |last=Caramanica}}</ref><ref>{{cite news|last=Kelly |first=James |url=http://www.accessatlanta.com/atlanta-music/taylor-swift-writing-her-124301.html |title=Taylor Swift: Writing her own songs – and rules |work=[[The Atlanta Journal-Constitution]]|date=August 26, 2009 |accessdate=July 1, 2012}}</ref> Cô nói rằng mình chỉ cảm thấy lo lắng khi trình diễn "nếu như tôi không chắc khán giả nghĩ gì về mình, như trong một đêm trao giải chẳng hạn".<ref>{{cite journal|url=http://www.teen.com/2011/06/27/celebrities/celebrity-quotes/taylor-swift-teen-vogue-august-2011-pictures-interview/#1|title=Taylor Swift in Her Own Words: Teen Vogue Cover Shoot|journal=[[Teen Vogue]]|date=August 2011|issn=1540-2215|accessdate=July 29, 2016}}</ref>
Trong một cuộc phỏng vấn với ''The New Yorker'', Taylor mô tả bản thân chủ yếu là một nhạc sĩ: "Tôi viết bài hát, giọng hát của tôi chỉ là cách để truyền đạt chúng".<ref name="widdicombe1" /><ref>{{Chú thích web |họ 1=DeLuca |tên 1=Dan |tiêu đề=Focused on 'great songs' Taylor Swift isn't thinking about "the next level" or Joe Jonas gossip |url=http://articles.philly.com/2008-11-11/news/25256467_1_big-machine-records-joe-jonas-country-music-association-awards/3 |url lưu trữ=http://wayback.archive.org/web/20160116064914/http://articles.philly.com/2008-11-11/news/25256467_1_big-machine-records-joe-jonas-country-music-association-awards/3 |ngày lưu trữ=January 16, 2016 |trang=3 |work=Philadelphia Daily News |ngày truy cập=April 17, 2012 |ngày tháng=November 11, 2008}}</ref> Borchetta thừa nhận vào năm 2010 rằng Taylor "không phải là nghệ sĩ có kĩ thuật tốt nhất" nhưng mô tả cô là "người đại diện tốt nhất mà chúng tôi có được".<ref>{{Chú thích web |url=http://blogs.tennessean.com/tunein/2010/02/01/taylor-swift-has-mixed-reviews-from-grammy-night/ |url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20150713203631/http://blogs.tennessean.com/tunein/2010/02/01/taylor-swift-has-mixed-reviews-from-grammy-night/|ngày lưu trữ=July 13, 2015|tiêu đề=Taylor Swift gets mixed reviews at Grammys |work=The Tennessean |ngày tháng=February 1, 2010 |ngày truy cập=June 24, 2012}}</ref> Giọng hát của Taylor đôi lúc khiến cô lo lắng và phải cố gắng cải thiện rất nhiều.<ref name="Up for Discussion">{{Chú thích web|url=http://www.billboard.com/articles/news/953737/taylor-swift-the-billboard-cover-story|tiêu đề=Taylor Swift: The Billboard Cover Story|họ 1=Roland|tên 1=Tom|ngày tháng=October 15, 2010|work=Billboard|ngày truy cập=July 3, 2012|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20101018200303/http://www.billboard.com/features/taylor-swift-the-billboard-cover-story-1004121338.story#/web/20101018200303/http://www.billboard.com/features/taylor-swift-the-billboard-cover-story-1004121338.story|ngày lưu trữ=October 18, 2010}}</ref> Một báo cáo vào năm 2010 cho biết Taylor vẫn tiếp tục học thanh nhạc.<ref>{{cite news |url=http://www.nytimes.com/2010/10/24/arts/music/24swift.html|title=Taylor Swift Is Angry, Darn It |newspaper=The New York Times |date=October 20, 2010 |accessdate=June 24, 2012 |first=Jon |last=Caramanica}}</ref><ref>{{cite news|last=Kelly |first=James |url=http://www.accessatlanta.com/atlanta-music/taylor-swift-writing-her-124301.html |title=Taylor Swift: Writing her own songs – and rules |work=[[The Atlanta Journal-Constitution]]|date=August 26, 2009 |accessdate=July 1, 2012}}</ref> Cô nói rằng mình chỉ cảm thấy lo lắng khi trình diễn "nếu như tôi không chắc khán giả nghĩ gì về mình, như trong một đêm trao giải chẳng hạn".<ref>{{cite journal|url=http://www.teen.com/2011/06/27/celebrities/celebrity-quotes/taylor-swift-teen-vogue-august-2011-pictures-interview/#1|title=Taylor Swift in Her Own Words: Teen Vogue Cover Shoot|journal=[[Teen Vogue]]|date=August 2011|issn=1540-2215|accessdate=July 29, 2016}}</ref>


===Ảnh hưởng===
===Ảnh hưởng===
Dòng 165: Dòng 165:
|width2 = 167
|width2 = 167
}}
}}
Một trong những kỷ niệm âm nhạc sơ khai nhất của Swift là lắng nghe bà ngoại Marjorie Finlay hát tại nhà thờ.<ref name=":5" />{{rp|1}} Lúc nhỏ, Swift yêu thích các bài hát nhạc phim [[Công ty Walt Disney|Disney]]: "Bố mẹ tôi để ý rằng, mỗi khi quên mất lời, tôi lại nghĩ ra nhiều câu của riêng mình."<ref name="theaustralian1">{{cite news |url=http://www.theaustralian.com.au/arts/swift-rise-of-the-anti-diva/story-e6frg8n6-1111119032411 |archiveurl=http://wayback.archive.org/web/20160116064914/http://www.theaustralian.com.au/arts/swift-rise-of-the-anti-diva/story-e6frg8n6-1111119032411 |archivedate=January 16, 2016 |title=Swift rise of the anti-diva |first=Dan |last=Cairns |newspaper=The Australian |date=March 5, 2009 |accessdate=July 2, 2012}}</ref> Mẹ của Swift là người truyền đạt "niềm yêu thích đến việc sáng tác và kể chuyện"<ref name="sessionsinterview" /> và tạo dựng sự tự tin cho cô, thường giúp cô chuẩn bị trong những buổi thuyết trình ở lớp lúc còn nhỏ.<ref>{{Chú thích web |họ 1=Bream|tên 1=Jon|url=http://www.startribune.com/lifestyle/12149446.html?elr=KArks:DCiU1PciUiD3aPc:_Yyc:aUoaEYY_1Pc_bDaEP7U |tiêu đề=Music: OMG! Taylor's senior year|work=[[Star Tribune]]|ngày tháng=December 7, 2007|ngày truy cập=July 1, 2012}}</ref> Cô nuôi dưỡng niềm yêu thích âm nhạc đồng quê<ref>{{Chú thích web|url=http://www.countrystandardtime.com/news/newsitem.asp?xid=4649|tiêu đề=Swift starts world tour in Asia, pushes "Speak Now' in NY|ngày tháng=October 23, 2007|website=Country Standard Time|ngày truy cập=July 1, 2012}}</ref> cùng "những nữ nghệ sĩ đồng quê vĩ đại của thập niên 90;... [[Shania Twain|Shania]], [[Faith Hill|Faith]], the [[Dixie Chicks]]".<ref name="CMT 2007-11-12">{{Chú thích web|url=http://www.cmt.com/news/20-questions/1574118/20-questions-with-taylor-swift.jhtml|tiêu đề=News: 20 Questions With Taylor Swift|ngày tháng=November 12, 2007|nhà xuất bản=[[Country Music Television|CMT]]|ngày truy cập=April 18, 2012}}</ref><ref name="USAWEEKEND1">{{cite news |first=Dennis |last=McCafferty |title=Taylor's Swift rise |url=http://159.54.226.237/08_issues/080413/080413taylor-swift.html |date=April 13, 2008 |work=[[USA Weekend]] |accessdate=April 17, 2012}}</ref> Twain là nguồn ảnh hưởng lớn nhất đến cô, cả ở cương vị ca sĩ lẫn nhạc sĩ.<ref>{{cite news |url=http://www.time.com/time/magazine/article/0,9171,1893502-1,00.html |title=Interview with Taylor Swift |work=Time |date=April 23, 2009 |accessdate=July 1, 2012}}</ref> Hill là hình mẫu trong tuổi thơ của cô: "Mọi thứ cô ấy phát biểu, thực hiện, ăn mặc, tôi đều cố bắt chước chúng."<ref>{{cite news|title=Taylor Swift Style: Singer Won't Take Her Clothes Off, Wants People To Focus On Music|url=http://www.huffingtonpost.com/2012/10/23/taylor-swift-style-wont-take-her-clothes-off_n_2006776.html|accessdate=January 4, 2015|work=The Huffington Post|date=October 23, 2012}}</ref> Swift tôn trọng thái độ khiêu khích và khả năng tự chơi nhạc cụ của Dixie Chicks.<ref name="autogenerated2">{{Chú thích web |url=http://www.instyle.co.uk/news/instyle-meets-country-singing-sensation-taylor-swift-26-10-10 |tiêu đề=InStyle meets country singing sensation Taylor Swift |work=[[InStyle UK]] |ngày tháng=October 26, 2010 |ngày truy cập=May 29, 2012}}</ref> "[[Cowboy Take Me Away]]" của nhóm là bài hát đầu tiên Swift học chơi trên guitar.<ref>{{Chú thích web |họ 1=Bonaguro|tên 1=Alison|url=http://www.cmt.com/news/cmt-offstage/1667840/offstage-taylor-swift-plays-dixie-chicks-for-a-dixie-chick.jhtml |tiêu đề=News: Offstage: Taylor Swift Plays Dixie Chicks for a Dixie Chick |nhà xuất bản=CMT |ngày tháng=July 25, 2011 |ngày truy cập=July 1, 2012}}</ref>
Một trong những kỷ niệm âm nhạc sơ khai nhất của Taylor là lắng nghe bà ngoại Marjorie Finlay hát tại nhà thờ.<ref name=":5" />{{rp|1}} Lúc nhỏ, Taylor yêu thích các bài hát nhạc phim [[Công ty Walt Disney|Disney]]: "Bố mẹ tôi để ý rằng, mỗi khi quên mất lời, tôi lại nghĩ ra nhiều câu của riêng mình."<ref name="theaustralian1">{{cite news |url=http://www.theaustralian.com.au/arts/swift-rise-of-the-anti-diva/story-e6frg8n6-1111119032411 |archiveurl=http://wayback.archive.org/web/20160116064914/http://www.theaustralian.com.au/arts/swift-rise-of-the-anti-diva/story-e6frg8n6-1111119032411 |archivedate=January 16, 2016 |title=Swift rise of the anti-diva |first=Dan |last=Cairns |newspaper=The Australian |date=March 5, 2009 |accessdate=July 2, 2012}}</ref> Mẹ của Taylor là người truyền đạt "niềm yêu thích đến việc sáng tác và kể chuyện"<ref name="sessionsinterview" /> và tạo dựng sự tự tin cho cô, thường giúp cô chuẩn bị trong những buổi thuyết trình ở lớp lúc còn nhỏ.<ref>{{Chú thích web |họ 1=Bream|tên 1=Jon|url=http://www.startribune.com/lifestyle/12149446.html?elr=KArks:DCiU1PciUiD3aPc:_Yyc:aUoaEYY_1Pc_bDaEP7U |tiêu đề=Music: OMG! Taylor's senior year|work=[[Star Tribune]]|ngày tháng=December 7, 2007|ngày truy cập=July 1, 2012}}</ref> Cô nuôi dưỡng niềm yêu thích âm nhạc đồng quê<ref>{{Chú thích web|url=http://www.countrystandardtime.com/news/newsitem.asp?xid=4649|tiêu đề=Swift starts world tour in Asia, pushes "Speak Now' in NY|ngày tháng=October 23, 2007|website=Country Standard Time|ngày truy cập=July 1, 2012}}</ref> cùng "những nữ nghệ sĩ đồng quê vĩ đại của thập niên 90;... [[Shania Twain|Shania]], [[Faith Hill|Faith]], the [[Dixie Chicks]]".<ref name="CMT 2007-11-12">{{Chú thích web|url=http://www.cmt.com/news/20-questions/1574118/20-questions-with-taylor-swift.jhtml|tiêu đề=News: 20 Questions With Taylor Swift|ngày tháng=November 12, 2007|nhà xuất bản=[[Country Music Television|CMT]]|ngày truy cập=April 18, 2012}}</ref><ref name="USAWEEKEND1">{{cite news |first=Dennis |last=McCafferty |title=Taylor's Swift rise |url=http://159.54.226.237/08_issues/080413/080413taylor-swift.html |date=April 13, 2008 |work=[[USA Weekend]] |accessdate=April 17, 2012}}</ref> Twain là nguồn ảnh hưởng lớn nhất đến cô, cả ở cương vị ca sĩ lẫn nhạc sĩ.<ref>{{cite news |url=http://www.time.com/time/magazine/article/0,9171,1893502-1,00.html |title=Interview with Taylor Swift |work=Time |date=April 23, 2009 |accessdate=July 1, 2012}}</ref> Hill là hình mẫu trong tuổi thơ của cô: "Mọi thứ cô ấy phát biểu, thực hiện, ăn mặc, tôi đều cố bắt chước chúng."<ref>{{cite news|title=Taylor Swift Style: Singer Won't Take Her Clothes Off, Wants People To Focus On Music|url=http://www.huffingtonpost.com/2012/10/23/taylor-swift-style-wont-take-her-clothes-off_n_2006776.html|accessdate=January 4, 2015|work=The Huffington Post|date=October 23, 2012}}</ref> Taylor tôn trọng thái độ khiêu khích và khả năng tự chơi nhạc cụ của Dixie Chicks.<ref name="autogenerated2">{{Chú thích web |url=http://www.instyle.co.uk/news/instyle-meets-country-singing-sensation-taylor-swift-26-10-10 |tiêu đề=InStyle meets country singing sensation Taylor Swift |work=[[InStyle UK]] |ngày tháng=October 26, 2010 |ngày truy cập=May 29, 2012}}</ref> "[[Cowboy Take Me Away]]" của nhóm là bài hát đầu tiên Taylor học chơi trên guitar.<ref>{{Chú thích web |họ 1=Bonaguro|tên 1=Alison|url=http://www.cmt.com/news/cmt-offstage/1667840/offstage-taylor-swift-plays-dixie-chicks-for-a-dixie-chick.jhtml |tiêu đề=News: Offstage: Taylor Swift Plays Dixie Chicks for a Dixie Chick |nhà xuất bản=CMT |ngày tháng=July 25, 2011 |ngày truy cập=July 1, 2012}}</ref>


Swift còn tiếp cận đến nhiều ngôi sao đồng quê gạo cội, bao gồm [[Patsy Cline]], [[Loretta Lynn]],<ref name="Rolling Stone 2008-12-08" /> [[Dolly Parton]] và [[Tammy Wynette]].<ref name="Rolling Stone 2008-12-08" /> Cô tin rằng Parton là "một ví dụ hoàn hảo cho tất cả nữ nhạc sĩ".<ref name="billboard2">{{Chú thích web|url=http://www.billboard.com/articles/news/464865/taylor-swift-billboards-woman-of-the-year|tiêu đề=Taylor Swift: Billboard's Woman of the Year|họ 1=Roland|tên 1=Tom|ngày tháng=December 2, 2011|work=Billboard|ngày truy cập=July 1, 2012}}</ref> Những nghệ sĩ [[alt-country]] như [[Ryan Adams]],<ref>{{cite news |url=http://www.ew.com/ew/article/0,,20434320_2,00.html |title=Taylor Swift Goes Record Shopping with EW |work=Entertainment Weekly |accessdate=October 23, 2012}}</ref> [[Patty Griffin]],<ref>{{Chú thích web |url=http://www.oprah.com/entertainment/Taylor-Swifts-Favorite-Music |url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20160116064914/http://www.oprah.com/entertainment/Taylor-Swifts-Favorite-Music |ngày lưu trữ=January 16, 2016 |tiêu đề=Taylor Swift's Favorite Music |work=[[The Oprah Winfrey Show]] |ngày truy cập=October 23, 2012}}</ref> và [[Lori McKenna]] cũng gây ảnh hưởng tới Swift.<ref>{{Chú thích web |họ 1=Widdicombe |tên 1=Lizzie |url=http://www.newyorker.com/reporting/2011/10/10/111010fa_fact_widdicombe?currentPage=all |tiêu đề=Taylor Swift Makes Primness Lucrative |work=The New Yorker |ngày truy cập=October 23, 2012}}</ref> Trước độ tuổi thiếu niên, cô còn yêu thích các nghệ sĩ [[bubblegum pop]] như [[Hanson (ban nhạc)|Hanson]] và [[Britney Spears]], người mà cô "tôn kính một cách trung thành".<ref>{{Chú thích web|tên 1=Jocelyn |họ 1=Vena |url=http://www.mtv.com/news/1603548/taylor-swift-blogs-about-life-changing-cameo-on-csi-britney-spears-poster/ |tiêu đề=Taylor Swift Blogs About 'Life-Changing' Cameo On 'CSI,' Britney Spears Poster |nhà xuất bản=MTV |ngày tháng=January 26, 2009 |ngày truy cập=April 11, 2015}}</ref><ref>{{Chú thích web|url=http://www.fox.com.au/shows/fifi-and-jules/video/taylor-swift-loves-hanson/ |tiêu đề=Taylor Swift Loves Hanson |nhà xuất bản=Fox.com.au |ngày tháng=May 9, 2013 |ngày truy cập=April 11, 2015}}</ref> Ở trường trung học, Swift nghe những ban nhạc rock như [[Dashboard Confessional]],<ref>{{Chú thích web |url=http://tasteofcountry.com/taylor-swift-dashboard-confessional-picture/ |tiêu đề=Taylor Swift Tweets Her Love of Dashboard Confessional |nhà xuất bản=Taste of Country |ngày tháng=April 1, 2011 |ngày truy cập=October 23, 2012}}</ref> [[Fall Out Boy]],<ref>{{Chú thích web |họ 1=Bonaguro|tên 1=Alison|url=http://www.cmt.com/news/cmt-offstage/1668771/offstage-taylor-swift-covers-fall-out-boy.jhtml |tiêu đề=News: Offstage: Taylor Swift Covers Fall Out Boy |nhà xuất bản=CMT |ngày tháng=August 10, 2011 |ngày truy cập=October 23, 2012}}</ref> và [[Jimmy Eat World]].<ref name="amazon.com">{{Chú thích web |url = http://www.amazon.com/gp/richpub/syltguides/fullview/R3KJDDFGLD295R|tiêu đề = See Taylor Swift's List of Music You Should Hear|nhà xuất bản = Amazon.com|ngày truy cập = October 23, 2012|url lưu trữ = https://web.archive.org/web/20141104015243/http://www.amazon.com/gp/richpub/syltguides/fullview/R3KJDDFGLD295R|ngày lưu trữ = November 4, 2014}}</ref> Cô cũng là người hâm mộ của những ca sĩ tự sáng tác đương đại như [[Michelle Branch]],<ref name="amazon.com" /> [[Alanis Morissette]],<ref name="chicagotribune1">{{cite news |url=http://articles.chicagotribune.com/2012-10-18/entertainment/chi-taylor-swift-red-20121018_1_taylor-swift-comfort-zone-songs |title=Taylor Swift talks about Red |work=Chicago Tribune |date=October 18, 2012 |accessdate=October 23, 2012}}</ref> [[Ashlee Simpson]],<ref>Us Weekly: Taylor Swift Inside My World, "What's on my iPod?", page 24</ref> [[Fefe Dobson]]<ref name="amazon.com" /> và [[Justin Timberlake]];<ref>{{cite news|url=http://www.billboard.com/articles/news/7318902/taylor-swift-calls-justin-timberlake-hero-all-time-fav-iheart-radio|title=Taylor Swift Calls Justin Timberlake 'Hero' & 'All Time Fav' After iHeartRadio Music Awards|date=April 4, 2016|work=Billboard|accessdate=April 27, 2016|last=Kaufman|first=Gil}}</ref> cùng những nghệ sĩ thập niên 1960 như [[The Shirelles]], [[Doris Troy]] và [[The Beach Boys]].<ref name="Rolling Stone 2011-08-18">{{chú thích báo|work=Rolling Stone|date=August 18, 2011|p=28|title=Q&A: Taylor Swift by Austin Scaggs|author=Austin Scaggs}}</ref>
Taylor còn tiếp cận đến nhiều ngôi sao đồng quê gạo cội, bao gồm [[Patsy Cline]], [[Loretta Lynn]],<ref name="Rolling Stone 2008-12-08" /> [[Dolly Parton]] và [[Tammy Wynette]].<ref name="Rolling Stone 2008-12-08" /> Cô tin rằng Parton là "một ví dụ hoàn hảo cho tất cả nữ nhạc sĩ".<ref name="billboard2">{{Chú thích web|url=http://www.billboard.com/articles/news/464865/taylor-swift-billboards-woman-of-the-year|tiêu đề=Taylor Swift: Billboard's Woman of the Year|họ 1=Roland|tên 1=Tom|ngày tháng=December 2, 2011|work=Billboard|ngày truy cập=July 1, 2012}}</ref> Những nghệ sĩ [[alt-country]] như [[Ryan Adams]],<ref>{{cite news |url=http://www.ew.com/ew/article/0,,20434320_2,00.html |title=Taylor Swift Goes Record Shopping with EW |work=Entertainment Weekly |accessdate=October 23, 2012}}</ref> [[Patty Griffin]],<ref>{{Chú thích web |url=http://www.oprah.com/entertainment/Taylor-Swifts-Favorite-Music |url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20160116064914/http://www.oprah.com/entertainment/Taylor-Swifts-Favorite-Music |ngày lưu trữ=January 16, 2016 |tiêu đề=Taylor Swift's Favorite Music |work=[[The Oprah Winfrey Show]] |ngày truy cập=October 23, 2012}}</ref> và [[Lori McKenna]] cũng gây ảnh hưởng tới Taylor.<ref>{{Chú thích web |họ 1=Widdicombe |tên 1=Lizzie |url=http://www.newyorker.com/reporting/2011/10/10/111010fa_fact_widdicombe?currentPage=all |tiêu đề=Taylor Swift Makes Primness Lucrative |work=The New Yorker |ngày truy cập=October 23, 2012}}</ref> Trước độ tuổi thiếu niên, cô còn yêu thích các nghệ sĩ [[bubblegum pop]] như [[Hanson (ban nhạc)|Hanson]] và [[Britney Spears]], người mà cô "tôn kính một cách trung thành".<ref>{{Chú thích web|tên 1=Jocelyn |họ 1=Vena |url=http://www.mtv.com/news/1603548/taylor-swift-blogs-about-life-changing-cameo-on-csi-britney-spears-poster/ |tiêu đề=Taylor Swift Blogs About 'Life-Changing' Cameo On 'CSI,' Britney Spears Poster |nhà xuất bản=MTV |ngày tháng=January 26, 2009 |ngày truy cập=April 11, 2015}}</ref><ref>{{Chú thích web|url=http://www.fox.com.au/shows/fifi-and-jules/video/taylor-swift-loves-hanson/ |tiêu đề=Taylor Swift Loves Hanson |nhà xuất bản=Fox.com.au |ngày tháng=May 9, 2013 |ngày truy cập=April 11, 2015}}</ref> Ở trường trung học, Taylor nghe những ban nhạc rock như [[Dashboard Confessional]],<ref>{{Chú thích web |url=http://tasteofcountry.com/taylor-swift-dashboard-confessional-picture/ |tiêu đề=Taylor Swift Tweets Her Love of Dashboard Confessional |nhà xuất bản=Taste of Country |ngày tháng=April 1, 2011 |ngày truy cập=October 23, 2012}}</ref> [[Fall Out Boy]],<ref>{{Chú thích web |họ 1=Bonaguro|tên 1=Alison|url=http://www.cmt.com/news/cmt-offstage/1668771/offstage-taylor-swift-covers-fall-out-boy.jhtml |tiêu đề=News: Offstage: Taylor Swift Covers Fall Out Boy |nhà xuất bản=CMT |ngày tháng=August 10, 2011 |ngày truy cập=October 23, 2012}}</ref> và [[Jimmy Eat World]].<ref name="amazon.com">{{Chú thích web |url = http://www.amazon.com/gp/richpub/syltguides/fullview/R3KJDDFGLD295R|tiêu đề = See Taylor Swift's List of Music You Should Hear|nhà xuất bản = Amazon.com|ngày truy cập = October 23, 2012|url lưu trữ = https://web.archive.org/web/20141104015243/http://www.amazon.com/gp/richpub/syltguides/fullview/R3KJDDFGLD295R|ngày lưu trữ = November 4, 2014}}</ref> Cô cũng là người hâm mộ của những ca sĩ tự sáng tác đương đại như [[Michelle Branch]],<ref name="amazon.com" /> [[Alanis Morissette]],<ref name="chicagotribune1">{{cite news |url=http://articles.chicagotribune.com/2012-10-18/entertainment/chi-taylor-swift-red-20121018_1_taylor-swift-comfort-zone-songs |title=Taylor Swift talks about Red |work=Chicago Tribune |date=October 18, 2012 |accessdate=October 23, 2012}}</ref> [[Ashlee Simpson]],<ref>Us Weekly: Taylor Swift Inside My World, "What's on my iPod?", page 24</ref> [[Fefe Dobson]]<ref name="amazon.com" /> và [[Justin Timberlake]];<ref>{{cite news|url=http://www.billboard.com/articles/news/7318902/taylor-swift-calls-justin-timberlake-hero-all-time-fav-iheart-radio|title=Taylor Swift Calls Justin Timberlake 'Hero' & 'All Time Fav' After iHeartRadio Music Awards|date=April 4, 2016|work=Billboard|accessdate=April 27, 2016|last=Kaufman|first=Gil}}</ref> cùng những nghệ sĩ thập niên 1960 như [[The Shirelles]], [[Doris Troy]] và [[The Beach Boys]].<ref name="Rolling Stone 2011-08-18">{{chú thích báo|work=Rolling Stone|date=August 18, 2011|p=28|title=Q&A: Taylor Swift by Austin Scaggs|author=Austin Scaggs}}</ref>


Swift liệt kê [[Paul McCartney]], [[Bruce Springsteen]], [[Emmylou Harris]], [[Kris Kristofferson]] và Carly Simon là hình mẫu cho sự nghiệp âm nhạc của mình: "Họ biết nắm bắt cơ hội nhưng vẫn luôn là chính mình trong suốt sự nghiệp."<ref name="widdicombe1" /><ref name="usatoday1">{{cite news |last=Mansfield |first=Brian |url=http://www.usatoday.com/life/music/news/2010-10-22-taylorswift22_CV_N.htm |title=Taylor Swift learns to 'Speak Now,' reveal her maturity |work=USA Today |date=October 23, 2010 |accessdate=July 1, 2012}}</ref> McCartney, ở cương vị đơn ca lẫn trong ban nhạc [[The Beatles]], khiến Swift cảm thấy "muốn hiểu được trái tim và trí óc của ông [...] Bất kể một nhạc sĩ nào cũng mơ ước có một di sản như thế."<ref>{{Chú thích web |url=http://www.people.com/people/archive/article/0,,20567076,00.html |tiêu đề=Rolling in the Trophies? – Adele |work=People |ngày tháng=February 6, 2012 |ngày truy cập=July 3, 2012}}</ref> Cô yêu mến Springsteen vì ông "vẫn theo đà xu hướng âm nhạc sau một khoảng thời gian dài".<ref>{{cite news |url=http://www.ew.com/ew/article/0,,20434320_2,00.html |title=Taylor Swift Goes Record Shopping with EW |work=Entertainment Weekly |accessdate=July 1, 2012}}</ref> Cô còn mong muốn giống như Harris khi chín chắn hơn<ref>{{Chú thích web |url=http://www.channelguidemagblog.com/index.php/2008/11/02/our-interview-with-taylor-swift/ |tiêu đề=Our Interview with Taylor Swift |nhà xuất bản=Channelguidemagblog.com |ngày tháng=November 2, 2008 |ngày truy cập=February 25, 2013}}</ref> và cho rằng Kristofferson "tỏa sáng trong vai trò sáng tác".<ref name="single life">{{cite news|last=Van Meter|first=Jonathan |url=http://www.vogue.com/magazine/article/taylor-swift-the-single-life/#1 |title=Taylor Swift: The Single Life |work=Vogue |accessdate=July 3, 2012|date=January 17, 2012}}</ref> Cô trân trọng khả năng "sáng tác và [sự] chân thật" của Simon, "Cô ấy nổi tiếng là một người nhạy cảm nhưng cũng rất mạnh mẽ".<ref name=":3">{{cite news|url=http://www.news.com.au/entertainment/music/taylor-swift-is-happy-to-be-your-break-up-musician/story-e6frfn09-1226644234716|title=Taylor Swift is happy to be your break-up musician|last=Adams|first=Cameron|date=May 16, 2013|publisher=[[News.com.au]]|accessdate=June 10, 2013}}</ref> Album phòng thu thứ năm của Swift, ''1989'' lấy cảm hứng từ nhiều nghệ sĩ pop thập niên 1980 mà cô yêu thích, như [[Annie Lennox]], [[Phil Collins]] và "[[Madonna (ca sĩ)|Madonna]] thời kỳ ''[[Like a Prayer (album)|Like a Prayer]]''".<ref name="likeaprayer">{{Chú thích web |tên 1=Josh |họ 1=Eells |url=http://www.rollingstone.com/music/features/taylor-swift-1989-cover-story-20140908 |tiêu đề=The Reinvention of Taylor Swift |ngày tháng= September 8, 2014 |work=Rolling Stone |ngày truy cập=June 8, 2016}}</ref>
Taylor liệt kê [[Paul McCartney]], [[Bruce Springsteen]], [[Emmylou Harris]], [[Kris Kristofferson]] và Carly Simon là hình mẫu cho sự nghiệp âm nhạc của mình: "Họ biết nắm bắt cơ hội nhưng vẫn luôn là chính mình trong suốt sự nghiệp."<ref name="widdicombe1" /><ref name="usatoday1">{{cite news |last=Mansfield |first=Brian |url=http://www.usatoday.com/life/music/news/2010-10-22-taylorswift22_CV_N.htm |title=Taylor Swift learns to 'Speak Now,' reveal her maturity |work=USA Today |date=October 23, 2010 |accessdate=July 1, 2012}}</ref> McCartney, ở cương vị đơn ca lẫn trong ban nhạc [[The Beatles]], khiến Taylor cảm thấy "muốn hiểu được trái tim và trí óc của ông [...] Bất kể một nhạc sĩ nào cũng mơ ước có một di sản như thế."<ref>{{Chú thích web |url=http://www.people.com/people/archive/article/0,,20567076,00.html |tiêu đề=Rolling in the Trophies? – Adele |work=People |ngày tháng=February 6, 2012 |ngày truy cập=July 3, 2012}}</ref> Cô yêu mến Springsteen vì ông "vẫn theo đà xu hướng âm nhạc sau một khoảng thời gian dài".<ref>{{cite news |url=http://www.ew.com/ew/article/0,,20434320_2,00.html |title=Taylor Swift Goes Record Shopping with EW |work=Entertainment Weekly |accessdate=July 1, 2012}}</ref> Cô còn mong muốn giống như Harris khi chín chắn hơn<ref>{{Chú thích web |url=http://www.channelguidemagblog.com/index.php/2008/11/02/our-interview-with-taylor-swift/ |tiêu đề=Our Interview with Taylor Swift |nhà xuất bản=Channelguidemagblog.com |ngày tháng=November 2, 2008 |ngày truy cập=February 25, 2013}}</ref> và cho rằng Kristofferson "tỏa sáng trong vai trò sáng tác".<ref name="single life">{{cite news|last=Van Meter|first=Jonathan |url=http://www.vogue.com/magazine/article/taylor-swift-the-single-life/#1 |title=Taylor Swift: The Single Life |work=Vogue |accessdate=July 3, 2012|date=January 17, 2012}}</ref> Cô trân trọng khả năng "sáng tác và [sự] chân thật" của Simon, "Cô ấy nổi tiếng là một người nhạy cảm nhưng cũng rất mạnh mẽ".<ref name=":3">{{cite news|url=http://www.news.com.au/entertainment/music/taylor-swift-is-happy-to-be-your-break-up-musician/story-e6frfn09-1226644234716|title=Taylor Swift is happy to be your break-up musician|last=Adams|first=Cameron|date=May 16, 2013|publisher=[[News.com.au]]|accessdate=June 10, 2013}}</ref> Album phòng thu thứ năm của Taylor, ''1989'' lấy cảm hứng từ nhiều nghệ sĩ pop thập niên 1980 mà cô yêu thích, như [[Annie Lennox]], [[Phil Collins]] và "[[Madonna (ca sĩ)|Madonna]] thời kỳ ''[[Like a Prayer (album)|Like a Prayer]]''".<ref name="likeaprayer">{{Chú thích web |tên 1=Josh |họ 1=Eells |url=http://www.rollingstone.com/music/features/taylor-swift-1989-cover-story-20140908 |tiêu đề=The Reinvention of Taylor Swift |ngày tháng= September 8, 2014 |work=Rolling Stone |ngày truy cập=June 8, 2016}}</ref>
{{clear}}
{{clear}}


===Sáng tác===
===Sáng tác===
Swift dùng những trải nghiệm đời thực làm cảm hứng cho tác phẩm của mình,<ref>{{cite news|url=http://online.wsj.com/article/SB10001424052702304510704575562401576663866.html|title=Taylor Swift's Solo Act|last=Farley|first=Christopher John|date=October 22, 2010|newspaper=[[The Wall Street Journal]]|accessdate=May 24, 2012}}</ref> nơi cô thường đề cập đến "những mối tình đơn phương vô danh thời trung học" và người nổi tiếng.<ref name="nytimes1">{{cite news|url=http://www.nytimes.com/2010/10/24/arts/music/24swift.html?pagewanted=all|title=Taylor Swift Is Angry, Darn It|last=Caramanica|first=Jon|date=October 20, 2010|newspaper=The New York Times|accessdate=July 2, 2012}}</ref> Cô cũng nhiều lần nhắc đến những người tình cũ một cách gièm pha.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.rollingstone.com/music/news/john-mayer-taylor-swifts-dear-john-song-humiliated-me-20120606|tiêu đề=John Mayer: Taylor Swift's 'Dear John' Song 'Humiliated Me'|ngày tháng=June 6, 2012|work=Rolling Stone|ngày truy cập=June 24, 2012}}</ref> ''The Village Voice'' bình luận về sáng tác của cô, "tuy không phải lời thú tội, nhưng vô cùng kịch tính."<ref>{{Chú thích web|url=http://www.villagevoice.com/2010-11-03/music/the-iceberg-songs-of-taylor-swift/|tiêu đề=The Iceberg Songs of Taylor Swift – Page 1 – Music – New York|họ 1=Weber|tên 1=Theon|ngày tháng=November 3, 2010|work=The Village Voice|ngày truy cập=July 30, 2012}}</ref> Dù vậy, ''[[New York (tạp chí)|New York]]'' tin rằng sự săm soi của giới truyền thông, muốn cô "tận dụng đời tư cho âm nhạc... là [[phân biệt giới tính]], khi nhiều nam đồng nghiệp khác không bị bắt bẻ bởi những điều tương tự".<ref>{{Chú thích web|url=http://nymag.com/thecut/2012/11/stop-asking-taylor-swift-to-apologize.html|tiêu đề=Stop Asking Taylor Swift to Apologize for Writing Songs About Ex-Boyfriends – The Cut|ngày tháng=November 16, 2012|work=New York|ngày truy cập=February 25, 2013}}</ref> Chính Swift cũng thừa nhận rằng không phải bài hát nào cũng là chuyện có thật mà đôi khi dựa trên quan sát trong cuộc sống để sáng tác.<ref>{{cite news|url=http://voices.washingtonpost.com/postrock/2008/02/her_song_talking_taylor_swift_1.html|title=Her Song: Talking Taylor Swift – Post Rock|work=[[The Washington Post]]|accessdate=July 30, 2012}}</ref> Ngoài những manh mối trên bìa ghi chú, Swift cố gắng không nhắc đến chủ đề bài hát một cách trực tiếp, "vì đây là những người có thật. Bạn phải cố gắng truyền đạt suy nghĩ của mình một cách tế nhị mà không dẫm đạp người khác".<ref>{{cite news|url=http://www.nytimes.com/2012/11/18/magazine/the-many-insecurities-of-taylor-swift.html|title=The Many Insecurities of Taylor Swift|last=Dominus|first=Susan|date=November 16, 2012|work=The New York Times}}</ref>
Taylor dùng những trải nghiệm đời thực làm cảm hứng cho tác phẩm của mình,<ref>{{cite news|url=http://online.wsj.com/article/SB10001424052702304510704575562401576663866.html|title=Taylor Swift's Solo Act|last=Farley|first=Christopher John|date=October 22, 2010|newspaper=[[The Wall Street Journal]]|accessdate=May 24, 2012}}</ref> nơi cô thường đề cập đến "những mối tình đơn phương vô danh thời trung học" và người nổi tiếng.<ref name="nytimes1">{{cite news|url=http://www.nytimes.com/2010/10/24/arts/music/24swift.html?pagewanted=all|title=Taylor Swift Is Angry, Darn It|last=Caramanica|first=Jon|date=October 20, 2010|newspaper=The New York Times|accessdate=July 2, 2012}}</ref> Cô cũng nhiều lần nhắc đến những người tình cũ một cách gièm pha.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.rollingstone.com/music/news/john-mayer-taylor-swifts-dear-john-song-humiliated-me-20120606|tiêu đề=John Mayer: Taylor Swift's 'Dear John' Song 'Humiliated Me'|ngày tháng=June 6, 2012|work=Rolling Stone|ngày truy cập=June 24, 2012}}</ref> ''The Village Voice'' bình luận về sáng tác của cô, "tuy không phải lời thú tội, nhưng vô cùng kịch tính."<ref>{{Chú thích web|url=http://www.villagevoice.com/2010-11-03/music/the-iceberg-songs-of-taylor-swift/|tiêu đề=The Iceberg Songs of Taylor Swift – Page 1 – Music – New York|họ 1=Weber|tên 1=Theon|ngày tháng=November 3, 2010|work=The Village Voice|ngày truy cập=July 30, 2012}}</ref> Dù vậy, ''[[New York (tạp chí)|New York]]'' tin rằng sự săm soi của giới truyền thông, muốn cô "tận dụng đời tư cho âm nhạc... là [[phân biệt giới tính]], khi nhiều nam đồng nghiệp khác không bị bắt bẻ bởi những điều tương tự".<ref>{{Chú thích web|url=http://nymag.com/thecut/2012/11/stop-asking-taylor-swift-to-apologize.html|tiêu đề=Stop Asking Taylor Swift to Apologize for Writing Songs About Ex-Boyfriends – The Cut|ngày tháng=November 16, 2012|work=New York|ngày truy cập=February 25, 2013}}</ref> Chính Taylor cũng thừa nhận rằng không phải bài hát nào cũng là chuyện có thật mà đôi khi dựa trên quan sát trong cuộc sống để sáng tác.<ref>{{cite news|url=http://voices.washingtonpost.com/postrock/2008/02/her_song_talking_taylor_swift_1.html|title=Her Song: Talking Taylor Swift – Post Rock|work=[[The Washington Post]]|accessdate=July 30, 2012}}</ref> Ngoài những manh mối trên bìa ghi chú, Taylor cố gắng không nhắc đến chủ đề bài hát một cách trực tiếp, "vì đây là những người có thật. Bạn phải cố gắng truyền đạt suy nghĩ của mình một cách tế nhị mà không dẫm đạp người khác".<ref>{{cite news|url=http://www.nytimes.com/2012/11/18/magazine/the-many-insecurities-of-taylor-swift.html|title=The Many Insecurities of Taylor Swift|last=Dominus|first=Susan|date=November 16, 2012|work=The New York Times}}</ref>


{{Quote box|width=30em|align=right|quote="Khi một người phụ nữ viết về cảm nhận của bản thân, nhưng lại bị cho là một cô bạn gái rùng rợn, điên rồ, tuyệt vọng, cầu xin bạn để được kết hôn và có con với cô ta, tôi nghĩ điều đó bôi nhọ những gì cần phải được tôn trọng – một người phụ nữ kể về cảm xúc của mình theo một cách tự nhiên – rồi xuyên tạc, biến nó thành một điều gì đó, mà đôi khi rất [[phân biệt giới tính]]."|source=— Swift đáp trả trước sự chỉ trích về tác phẩm của mình<ref name="Zach Johnson">{{cite journal|url=http://www.vanityfair.com/culture/2013/03/taylor-swift-fights-back-tina-fey-amy-poehler|title=Cover Preview: Taylor Swift Fights Back About Her Love Life, the Hyannis Port House—and Has Words for Tina Fey and Amy Poehler|magazine=Vanity Fair|date=March 5, 2013|accessdate=August 3, 2016}}</ref>}}
{{Quote box|width=30em|align=right|quote="Khi một người phụ nữ viết về cảm nhận của bản thân, nhưng lại bị cho là một cô bạn gái rùng rợn, điên rồ, tuyệt vọng, cầu xin bạn để được kết hôn và có con với cô ta, tôi nghĩ điều đó bôi nhọ những gì cần phải được tôn trọng – một người phụ nữ kể về cảm xúc của mình theo một cách tự nhiên – rồi xuyên tạc, biến nó thành một điều gì đó, mà đôi khi rất [[phân biệt giới tính]]."|source=— Swift đáp trả trước sự chỉ trích về tác phẩm của mình<ref name="Zach Johnson">{{cite journal|url=http://www.vanityfair.com/culture/2013/03/taylor-swift-fights-back-tina-fey-amy-poehler|title=Cover Preview: Taylor Swift Fights Back About Her Love Life, the Hyannis Port House—and Has Words for Tina Fey and Amy Poehler|magazine=Vanity Fair|date=March 5, 2013|accessdate=August 3, 2016}}</ref>}}


''The Guardian'' khen ngợi những sáng tác tuổi thiếu niên "với một kiểu tiếc nuối, một nỗi nhớ mang màu sắc [[Nâu đen|sepia]]" trong hai album đầu tiên của Swift.<ref name="guardian1" /> ''New York'' nhận thấy nhiều ca–nhạc sĩ đã thực hiện những bản thu tuyệt vời lúc còn thiếu niên, nhưng "chưa một ai tạo những bản thu tuyệt vời một cách công khai về lứa tuổi thiếu niên của họ." Tạp chí còn so sánh tác phẩm của cô với [[Janis Ian]].<ref name="nymag">{{Chú thích web |url = http://nymag.com/arts/popmusic/features/68796/|tiêu đề = Princess Crossover|work = New York|ngày tháng = October 10, 2010|ngày truy cập = July 1, 2012|họ 1 = Willman|tên 1 = Chris}}</ref> Trong ''Fearless'', Swift sử dụng hình ảnh cổ tích và khám phá sự trái ngược "giữa những câu chuyện cổ tích và thực tế của tình yêu".<ref>{{cite news |last=Kelly |first=James |url=http://www.accessatlanta.com/atlanta-music/taylor-swift-writing-her-124301.html |title=Taylor Swift: Writing her own songs – and rules |work=The Atlanta Journal-Constitution |date=August 26, 2009 |accessdate=July 30, 2012|archiveurl=http://web.archive.org/web/20090929081309/http://www.accessatlanta.com/atlanta-music/taylor-swift-writing-her-124301.html|archivedate=29 Sep 2009}}</ref> Các album sau này của cô chứa đựng nhiều mối quan hệ trưởng thành hơn.<ref name="usatoday1" /> Ngoài tình yêu và sự lãng mạn, các bài hát của Swift cũng bàn luận về mối quan hệ giữa bố mẹ-con cái, tình bạn,<ref>{{Chú thích web |url=http://www.lasvegasweekly.com/news/2009/dec/30/microwaving-tragedy-marriage-romance-and-romantici/ |tiêu đề=Microwaving a tragedy: The marriage of romance and romanticism in '00s pop |work=[[Las Vegas Weekly]]|ngày truy cập=August 17, 2012}}</ref><ref>{{cite news |last=Rotman |first=Natalie |url=http://readingeagle.com/article.aspx?id=154886 |title=Colbie Caillat has 'Breakthrough' with sophomore CD |work=Reading Eagle |date=January 9, 2009 |accessdate=August 17, 2012}}</ref> mối bất hòa, danh vọng và tham vọng sự nghiệp.<ref name="sessionsinterview">{{Chú thích web |url=http://music.aol.com/sessions/taylor-swift-change-sessions/ |url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20121009010116/http://music.aol.com/sessions/taylor-swift-change-sessions/|ngày lưu trữ=October 9, 2012|tiêu đề=Taylor Swift Sessions Interview |tên 1=Melinda |họ 1=Newman |ngày tháng=December 19, 2008 |nhà xuất bản=[[AOL]] |ngày truy cập=March 25, 2011}}</ref> Swift thường đưa vào "một cụm từ bất cần kể về những điều to tát và lớn lao không liên quan đến bài hát, nhằm nhấn mạnh hoặc phá vỡ lối tường thuật chính".<ref name="villagevoice2" />
''The Guardian'' khen ngợi những sáng tác tuổi thiếu niên "với một kiểu tiếc nuối, một nỗi nhớ mang màu sắc [[Nâu đen|sepia]]" trong hai album đầu tiên của Taylor.<ref name="guardian1" /> ''New York'' nhận thấy nhiều ca–nhạc sĩ đã thực hiện những bản thu tuyệt vời lúc còn thiếu niên, nhưng "chưa một ai tạo những bản thu tuyệt vời một cách công khai về lứa tuổi thiếu niên của họ." Tạp chí còn so sánh tác phẩm của cô với [[Janis Ian]].<ref name="nymag">{{Chú thích web |url = http://nymag.com/arts/popmusic/features/68796/|tiêu đề = Princess Crossover|work = New York|ngày tháng = October 10, 2010|ngày truy cập = July 1, 2012|họ 1 = Willman|tên 1 = Chris}}</ref> Trong ''Fearless'', Taylor sử dụng hình ảnh cổ tích và khám phá sự trái ngược "giữa những câu chuyện cổ tích và thực tế của tình yêu".<ref>{{cite news |last=Kelly |first=James |url=http://www.accessatlanta.com/atlanta-music/taylor-swift-writing-her-124301.html |title=Taylor Swift: Writing her own songs – and rules |work=The Atlanta Journal-Constitution |date=August 26, 2009 |accessdate=July 30, 2012|archiveurl=http://web.archive.org/web/20090929081309/http://www.accessatlanta.com/atlanta-music/taylor-swift-writing-her-124301.html|archivedate=29 Sep 2009}}</ref> Các album sau này của cô chứa đựng nhiều mối quan hệ trưởng thành hơn.<ref name="usatoday1" /> Ngoài tình yêu và sự lãng mạn, các bài hát của Taylor cũng bàn luận về mối quan hệ giữa bố mẹ-con cái, tình bạn,<ref>{{Chú thích web |url=http://www.lasvegasweekly.com/news/2009/dec/30/microwaving-tragedy-marriage-romance-and-romantici/ |tiêu đề=Microwaving a tragedy: The marriage of romance and romanticism in '00s pop |work=[[Las Vegas Weekly]]|ngày truy cập=August 17, 2012}}</ref><ref>{{cite news |last=Rotman |first=Natalie |url=http://readingeagle.com/article.aspx?id=154886 |title=Colbie Caillat has 'Breakthrough' with sophomore CD |work=Reading Eagle |date=January 9, 2009 |accessdate=August 17, 2012}}</ref> mối bất hòa, danh vọng và tham vọng sự nghiệp.<ref name="sessionsinterview">{{Chú thích web |url=http://music.aol.com/sessions/taylor-swift-change-sessions/ |url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20121009010116/http://music.aol.com/sessions/taylor-swift-change-sessions/|ngày lưu trữ=October 9, 2012|tiêu đề=Taylor Swift Sessions Interview |tên 1=Melinda |họ 1=Newman |ngày tháng=December 19, 2008 |nhà xuất bản=[[AOL]] |ngày truy cập=March 25, 2011}}</ref> Taylor thường đưa vào "một cụm từ bất cần kể về những điều to tát và lớn lao không liên quan đến bài hát, nhằm nhấn mạnh hoặc phá vỡ lối tường thuật chính".<ref name="villagevoice2" />


''Rolling Stone'' mô tả cô là "một nhạc sĩ uyên bác cùng tài năng nhạy bén với cấu trúc lời chính-điệp khúc-chuyển tiếp cuối bài".<ref name="rollingstone2">{{Chú thích web |họ 1=Rosen|tên 1=Jody|url=http://www.rollingstone.com/music/albumreviews/fearless-20081113 |tiêu đề=Fearless |work=Rolling Stone |ngày tháng=November 13, 2008 |ngày truy cập=July 1, 2012}}</ref> Theo ''The Village Voice'', cô thường xuyên đảo chiều quan điểm ở đoạn thứ ba của mỗi bài hát.<ref name="villagevoice2">{{Chú thích web |họ 1=Weber|tên 1=Theon |url=http://www.villagevoice.com/2010-11-03/music/the-iceberg-songs-of-taylor-swift/ |tiêu đề=The Iceberg Songs of Taylor Swift |vị trí=New York |work=The Village Voice |ngày tháng=November 3, 2010 |ngày truy cập=July 12, 2012}}</ref> Xét về mặt hình ảnh, sự lặp lại thể hiện rõ trong sáng tác của Swift. ''The Guardian'' mỉa mai rằng "cô dành quá nhiều thời gian để hôn dưới mưa, tới nỗi mọi người không hiểu tại sao cô vẫn chưa bị [[cóng chân]]".<ref name="guardian1" /> ''[[Slant Magazine]]'' nói thêm, "để ghi nhận Swift, cô đã khai phá một mô-típ trữ tình mới trong [album thứ tư của mình]".<ref name="slantmagazine.com">{{Chú thích web|url=http://www.slantmagazine.com/music/review/taylor-swift-red|tiêu đề=Taylor Swift: Red &#124; Music Review|work=Slant Magazine|ngày truy cập=February 25, 2013}}</ref> Trong lúc đánh giá các sáng tác của Swift "gần như đồng nhất một cách tích cực", ''The New Yorker'' cho biết cô thường được mô tả như là "một nhạc sĩ có tay nghề nhiều hơn là một người có tầm nhìn kiểu [[Bob Dylan|Dylanesque]]".<ref name="widdicombe1"/>
''Rolling Stone'' mô tả cô là "một nhạc sĩ uyên bác cùng tài năng nhạy bén với cấu trúc lời chính-điệp khúc-chuyển tiếp cuối bài".<ref name="rollingstone2">{{Chú thích web |họ 1=Rosen|tên 1=Jody|url=http://www.rollingstone.com/music/albumreviews/fearless-20081113 |tiêu đề=Fearless |work=Rolling Stone |ngày tháng=November 13, 2008 |ngày truy cập=July 1, 2012}}</ref> Theo ''The Village Voice'', cô thường xuyên đảo chiều quan điểm ở đoạn thứ ba của mỗi bài hát.<ref name="villagevoice2">{{Chú thích web |họ 1=Weber|tên 1=Theon |url=http://www.villagevoice.com/2010-11-03/music/the-iceberg-songs-of-taylor-swift/ |tiêu đề=The Iceberg Songs of Taylor Swift |vị trí=New York |work=The Village Voice |ngày tháng=November 3, 2010 |ngày truy cập=July 12, 2012}}</ref> Xét về mặt hình ảnh, sự lặp lại thể hiện rõ trong sáng tác của Taylor. ''The Guardian'' mỉa mai rằng "cô dành quá nhiều thời gian để hôn dưới mưa, tới nỗi mọi người không hiểu tại sao cô vẫn chưa bị [[cóng chân]]".<ref name="guardian1" /> ''[[Slant Magazine]]'' nói thêm, "để ghi nhận Taylor, cô đã khai phá một mô-típ trữ tình mới trong [album thứ tư của mình]".<ref name="slantmagazine.com">{{Chú thích web|url=http://www.slantmagazine.com/music/review/taylor-swift-red|tiêu đề=Taylor Swift: Red &#124; Music Review|work=Slant Magazine|ngày truy cập=February 25, 2013}}</ref> Trong lúc đánh giá các sáng tác của Taylor "gần như đồng nhất một cách tích cực", ''The New Yorker'' cho biết cô thường được mô tả như là "một nhạc sĩ có tay nghề nhiều hơn là một người có tầm nhìn kiểu [[Bob Dylan|Dylanesque]]".<ref name="widdicombe1"/>


==Hình tượng công chúng==
==Hình tượng công chúng==
Đời sống tình cảm của Swift là chủ đề thu hút giới truyền thông.<ref name=":4">{{Chú thích web|url=http://www.cosmopolitan.co.uk/entertainment/interviews/a30873/taylor-swift-cover-interview-talks-feminism-and-lena-dunham/|ngày tháng=October 31, 2014|tiêu đề=Taylor Swift is our new cover goddess|họ 1=Meddings|tên 1=Jacqui|work=Cosmopolitan|ngày truy cập=August 2, 2016}}</ref> Ben Phelps của ''[[World Book Club]]'' gọi cô là "bộ mặt lẳng lơ của [[ngày tận thế]] [[Mỹ]]" trong khi Abercrombie & Fitch quảng cáo áo phông với slogan chỉ trích đời tư ám chỉ Swift.<ref>{{Chú thích web|url=http://nymag.com/thecut/2013/06/taylor-swift-slut-shaming-continues.html|tiêu đề=The Taylor Swift Slut-Shaming Continues – The Cut|ngày tháng=June 28, 2013|work=New York|ngày truy cập=November 17, 2013}}</ref> Tờ ''[[The New York Times]]'' khẳng định "tình sử của cô bắt đầu khuấy động những gì khiến ta cảm thấy như khởi đầu của một phản ứng dữ dội" và băn khoăn liệu Swift có đang trong "cuộc khủng hoảng nhị tuần."<ref>{{cite news|url=http://www.nytimes.com/2013/03/17/fashion/for-taylor-swifts-image-erosion-is-a-danger.html|title=Taylor Swift Gets Some Mud on Her Boots|last=Chang|first=Bee-Shyuan|date=March 15, 2013|work=The New York Times|accessdate=June 10, 2013}}</ref> Dù vậy, Swift tuyên bố mình chưa sẵn sàng để bàn cãi về đời tư trước công chúng,<ref name=":4" /> điều mà cô tin rằng có thể biến thành "một điểm yếu trong sự nghiệp" của mình.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.vogue.com/9287379/taylor-swift-karlie-kloss-best-friends-march-2015-cover/|tiêu đề=On the Road with Best Friends Taylor Swift and Karlie Kloss|ngày tháng=February 13, 2015|work=Vogue|ngày truy cập=November 10, 2015}}</ref>
Đời sống tình cảm của Taylor là chủ đề thu hút giới truyền thông.<ref name=":4">{{Chú thích web|url=http://www.cosmopolitan.co.uk/entertainment/interviews/a30873/taylor-swift-cover-interview-talks-feminism-and-lena-dunham/|ngày tháng=October 31, 2014|tiêu đề=Taylor Swift is our new cover goddess|họ 1=Meddings|tên 1=Jacqui|work=Cosmopolitan|ngày truy cập=August 2, 2016}}</ref> Ben Phelps của ''[[World Book Club]]'' gọi cô là "bộ mặt lẳng lơ của [[ngày tận thế]] [[Mỹ]]" trong khi Abercrombie & Fitch quảng cáo áo phông với slogan chỉ trích đời tư ám chỉ Taylor.<ref>{{Chú thích web|url=http://nymag.com/thecut/2013/06/taylor-swift-slut-shaming-continues.html|tiêu đề=The Taylor Swift Slut-Shaming Continues – The Cut|ngày tháng=June 28, 2013|work=New York|ngày truy cập=November 17, 2013}}</ref> Tờ ''[[The New York Times]]'' khẳng định "tình sử của cô bắt đầu khuấy động những gì khiến ta cảm thấy như khởi đầu của một phản ứng dữ dội" và băn khoăn liệu Taylor có đang trong "cuộc khủng hoảng nhị tuần."<ref>{{cite news|url=http://www.nytimes.com/2013/03/17/fashion/for-taylor-swifts-image-erosion-is-a-danger.html|title=Taylor Swift Gets Some Mud on Her Boots|last=Chang|first=Bee-Shyuan|date=March 15, 2013|work=The New York Times|accessdate=June 10, 2013}}</ref> Dù vậy, Taylor tuyên bố mình chưa sẵn sàng để bàn cãi về đời tư trước công chúng,<ref name=":4" /> điều mà cô tin rằng có thể biến thành "một điểm yếu trong sự nghiệp" của mình.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.vogue.com/9287379/taylor-swift-karlie-kloss-best-friends-march-2015-cover/|tiêu đề=On the Road with Best Friends Taylor Swift and Karlie Kloss|ngày tháng=February 13, 2015|work=Vogue|ngày truy cập=November 10, 2015}}</ref>


[[File:5.3.10TaylorSwiftByDavidShankbone.jpg|thumb|Swift tại [[Time 100|''Time'' 100]] Gala vào năm 2010, nơi cô được vinh danh]]
[[File:5.3.10TaylorSwiftByDavidShankbone.jpg|thumb|Taylor tại [[Time 100|''Time'' 100]] Gala vào năm 2010, nơi cô được vinh danh]]
''[[Rolling Stone]]'' bình luận về cách cư xử tế nhị của cô: "Nếu đây là trò chơi chủ lực của Swift, cô đã thành công vì điều đó không bao giờ phai nhạt."<ref>{{cite news|last1=Grigoriadis|first1=Vanessa|title=The Very Pink, Very Perfect Life of Taylor Swift|url=http://www.rollingstone.com/music/news/the-very-pink-very-perfect-life-of-taylor-swift-20090305|accessdate=August 12, 2016|work=Rolling Stone|date=March 5, 2009}}</ref> Vào năm 2012, tờ báo này gọi Swift "thân thiện một cách dễ chịu"<ref name="Taylor in Wonderland"/> trong khi ''[[The Hollywood Reporter]]'' mô tả cô là "người tuyệt nhất kể từ [[Bill Clinton]]".<ref>{{cite news |last=Willman|first=Chris |url=http://www.hollywoodreporter.com/news/taylor-swift-tapes-vh1-storytellers-379446 |title=Taylor Swift Tapes VH1 'Storytellers' |work=The Hollywood Reporter |date=October 17, 2012 |accessdate=February 25, 2013}}</ref> Vào năm 2012, Swift được [[Michelle Obama]] ghi nhận công việc thiện nguyện của mình, khen ngợi cô là người "vươn đến ngôi đầu của ngành [[công nghiệp âm nhạc]] nhưng vẫn mang nhận thức rõ ràng, người đã phá vỡ mọi kỳ vọng mà một người ở tuổi 22 có thể đạt được".<ref>{{cite news|url=http://nymag.com/thecut/2012/04/michelle-obama-honors-taylor-swift.html|title=Michelle Obama Honors Taylor Swift, Taylor Swift So Honored|last=Moss|first=Hilary|date=April 2, 2012|work=New York|accessdate=March 6, 2013}}</ref> Swift sau đó gọi bà là "một hình tượng lý tưởng".<ref>{{Chú thích web|url=http://tasteofcountry.com/taylor-swift-michelle-obama/|tiêu đề=Taylor Swift Reflects on Meeting First Lady Michelle Obama|họ 1=Pacella|tên 1=Megan|ngày tháng=April 15, 2012|work=Taste of Country|ngày truy cập=April 15, 2012}}</ref> Swift là một trong những người được theo dõi nhiều nhất trên [[mạng xã hội]] và nổi tiếng bởi những tương tác một cách thân thiện với [[người hâm mộ]].<ref>{{cite news|last1=Berg|first1=Madeline|title=Taylor Swift Vs. Katy Perry: Which Star Rules Social Media?|url=http://www.forbes.com/sites/maddieberg/2015/11/18/taylor-swift-vs-katy-perry-which-star-rules-social-media/|accessdate=July 23, 2016|work=Forbes|date=November 18, 2015}}</ref><ref name="Erin">{{Chú thích web|họ 1=Strecker|tên 1=Erin|tiêu đề=Read Taylor Swift's Sweet Message to Bullied Fan|url=http://www.billboard.com/articles/news/6451041/taylor-swift-sweet-message-bullied-fan-tumblr|work=Billboard|ngày truy cập=January 31, 2015|ngày tháng=January 27, 2015}}</ref> Cô cho rằng mình "có trách nhiệm" ý thức về ảnh hưởng của mình đến cộng đồng người hâm mộ trẻ tuổi<ref>{{cite news|url=http://articles.latimes.com/2011/nov/18/news/la-heb-taylor-swift-role-model-20111118|title=Taylor Swift weighs in on being a role model|date=November 18, 2011|work=Los Angeles Times|last2=For|accessdate=April 18, 2012|first1=Jeannine|last1=Stein}}</ref> và gọi họ là "mối quan hệ đẹp và lâu dài nhất của tôi".<ref>{{cite news|title=Billboard Music Awards: Taylor Swift thanks her fans for being her 'longest and best relationship'|url=http://metro.co.uk/2013/05/20/billboard-music-awards-taylor-swift-thanks-her-fans-for-being-her-longest-and-best-relationship-3801610/|work=[[Metro (British newspaper)|Metro]]|accessdate=April 4, 2015|date=May 20, 2013}}</ref>
''[[Rolling Stone]]'' bình luận về cách cư xử tế nhị của cô: "Nếu đây là trò chơi chủ lực của Taylor, cô đã thành công vì điều đó không bao giờ phai nhạt."<ref>{{cite news|last1=Grigoriadis|first1=Vanessa|title=The Very Pink, Very Perfect Life of Taylor Swift|url=http://www.rollingstone.com/music/news/the-very-pink-very-perfect-life-of-taylor-swift-20090305|accessdate=August 12, 2016|work=Rolling Stone|date=March 5, 2009}}</ref> Vào năm 2012, tờ báo này gọi Taylor "thân thiện một cách dễ chịu"<ref name="Taylor in Wonderland"/> trong khi ''[[The Hollywood Reporter]]'' mô tả cô là "người tuyệt nhất kể từ [[Bill Clinton]]".<ref>{{cite news |last=Willman|first=Chris |url=http://www.hollywoodreporter.com/news/taylor-swift-tapes-vh1-storytellers-379446 |title=Taylor Swift Tapes VH1 'Storytellers' |work=The Hollywood Reporter |date=October 17, 2012 |accessdate=February 25, 2013}}</ref> Vào năm 2012, Taylor được [[Michelle Obama]] ghi nhận công việc thiện nguyện của mình, khen ngợi cô là người "vươn đến ngôi đầu của ngành [[công nghiệp âm nhạc]] nhưng vẫn mang nhận thức rõ ràng, người đã phá vỡ mọi kỳ vọng mà một người ở tuổi 22 có thể đạt được".<ref>{{cite news|url=http://nymag.com/thecut/2012/04/michelle-obama-honors-taylor-swift.html|title=Michelle Obama Honors Taylor Swift, Taylor Swift So Honored|last=Moss|first=Hilary|date=April 2, 2012|work=New York|accessdate=March 6, 2013}}</ref> Taylor sau đó gọi bà là "một hình tượng lý tưởng".<ref>{{Chú thích web|url=http://tasteofcountry.com/taylor-swift-michelle-obama/|tiêu đề=Taylor Swift Reflects on Meeting First Lady Michelle Obama|họ 1=Pacella|tên 1=Megan|ngày tháng=April 15, 2012|work=Taste of Country|ngày truy cập=April 15, 2012}}</ref> Taylor là một trong những người được theo dõi nhiều nhất trên [[mạng xã hội]] và nổi tiếng bởi những tương tác một cách thân thiện với [[người hâm mộ]].<ref>{{cite news|last1=Berg|first1=Madeline|title=Taylor Swift Vs. Katy Perry: Which Star Rules Social Media?|url=http://www.forbes.com/sites/maddieberg/2015/11/18/taylor-swift-vs-katy-perry-which-star-rules-social-media/|accessdate=July 23, 2016|work=Forbes|date=November 18, 2015}}</ref><ref name="Erin">{{Chú thích web|họ 1=Strecker|tên 1=Erin|tiêu đề=Read Taylor Swift's Sweet Message to Bullied Fan|url=http://www.billboard.com/articles/news/6451041/taylor-swift-sweet-message-bullied-fan-tumblr|work=Billboard|ngày truy cập=January 31, 2015|ngày tháng=January 27, 2015}}</ref> Cô cho rằng mình "có trách nhiệm" ý thức về ảnh hưởng của mình đến cộng đồng người hâm mộ trẻ tuổi<ref>{{cite news|url=http://articles.latimes.com/2011/nov/18/news/la-heb-taylor-swift-role-model-20111118|title=Taylor Swift weighs in on being a role model|date=November 18, 2011|work=Los Angeles Times|last2=For|accessdate=April 18, 2012|first1=Jeannine|last1=Stein}}</ref> và gọi họ là "mối quan hệ đẹp và lâu dài nhất của tôi".<ref>{{cite news|title=Billboard Music Awards: Taylor Swift thanks her fans for being her 'longest and best relationship'|url=http://metro.co.uk/2013/05/20/billboard-music-awards-taylor-swift-thanks-her-fans-for-being-her-longest-and-best-relationship-3801610/|work=[[Metro (British newspaper)|Metro]]|accessdate=April 4, 2015|date=May 20, 2013}}</ref>


[[Bloomberg L.P.]] gọi Swift là một [[biểu tượng sex|biểu tượng gợi cảm]]<ref>{{Chú thích web|họ 1=Kessler|tên 1=Zara|tiêu đề=Taylor Swift's Sexual Temptation|url=http://www.bloomberg.com/view/articles/2014-11-05/taylor-swift-s-sexual-temptation|nhà xuất bản=[[Bloomberg L.P.]]|ngày truy cập=July 24, 2016|ngày tháng=November 5, 2014}}</ref> nhưng không giống như những người đương thời, cô xuất hiện một cách khiêm tốn hơn.<ref name="telegraph1" /><ref>{{cite news|last1=Maresca|first1=Rachel|title=Taylor Swift: 'I find it relatively easy to keep my clothes on'|url=http://www.nydailynews.com/entertainment/gossip/taylor-swift-find-easy-clothes-article-1.1601629|accessdate=July 26, 2016|work=Daily News|location=New York |date=February 4, 2014}}</ref> ''[[Vogue]]'' vinh danh cô là "Biểu tượng của phong cách Mỹ" năm 2011.<ref>{{Chú thích web |họ 1=Holt |tên 1=Emily |url=http://www.vogue.com/vogue-daily/article/american-idols-icons-of-stateside-style/ |tiêu đề=American Idols: Icons of Stateside Style – Vogue Daily |work=Vogue |ngày tháng=July 1, 2011 |ngày truy cập=June 15, 2012}}</ref> Vào năm 2014, cô dẫn đầu danh sách ăn mặc đẹp thường niên của tạp chí ''People''.<ref>{{Chú thích web|url=http://stylenews.peoplestylewatch.com/2014/09/17/best-dressed-taylor-swift-jennifer-lopez-style/|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20160220110441/http://stylenews.peoplestylewatch.com/2014/09/17/best-dressed-taylor-swift-jennifer-lopez-style/|ngày lưu trữ=February 20, 2016 |tiêu đề=People's Best Dressed, Taylor Swift Best Dressed 2014 |work=People |ngày tháng=September 17, 2014 |ngày truy cập=December 1, 2015}}</ref> Năm 2015, Swift giành giải [[Elle Style Awards]] cho "Người phụ nữ của năm"<ref>{{Chú thích web|họ 1=Powell|tên 1=Hannah Lyons|url=http://www.elleuk.com/elle-style-awards/taylor-swift-wins-woman-of-the-year-2015 |tiêu đề=Taylor Swift wins Woman Of The Year award – ELLE Style Awards 2015 |work=[[Elle]] |ngày tháng=February 24, 2015 |ngày truy cập=December 1, 2015}}</ref> và ''[[Maxim (tạp chí)|Maxim]]'' xếp cô ở vị trí quán quân trong danh sách Hot 100 của năm.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.maxim.com/entertainment/music/article/taylor-swift-tops-2015-maxim-hot-100 |tiêu đề=Taylor Swift Tops the 2015 Maxim Hot 100 |work=Maxim |ngày tháng=May 18, 2015 |ngày truy cập=December 1, 2015 |họ 1=Roy|tên 1=Jessica}}</ref>
[[Bloomberg L.P.]] gọi Taylor là một [[biểu tượng sex|biểu tượng gợi cảm]]<ref>{{Chú thích web|họ 1=Kessler|tên 1=Zara|tiêu đề=Taylor Swift's Sexual Temptation|url=http://www.bloomberg.com/view/articles/2014-11-05/taylor-swift-s-sexual-temptation|nhà xuất bản=[[Bloomberg L.P.]]|ngày truy cập=July 24, 2016|ngày tháng=November 5, 2014}}</ref> nhưng không giống như những người đương thời, cô xuất hiện một cách khiêm tốn hơn.<ref name="telegraph1" /><ref>{{cite news|last1=Maresca|first1=Rachel|title=Taylor Swift: 'I find it relatively easy to keep my clothes on'|url=http://www.nydailynews.com/entertainment/gossip/taylor-swift-find-easy-clothes-article-1.1601629|accessdate=July 26, 2016|work=Daily News|location=New York |date=February 4, 2014}}</ref> ''[[Vogue]]'' vinh danh cô là "Biểu tượng của phong cách Mỹ" năm 2011.<ref>{{Chú thích web |họ 1=Holt |tên 1=Emily |url=http://www.vogue.com/vogue-daily/article/american-idols-icons-of-stateside-style/ |tiêu đề=American Idols: Icons of Stateside Style – Vogue Daily |work=Vogue |ngày tháng=July 1, 2011 |ngày truy cập=June 15, 2012}}</ref> Vào năm 2014, cô dẫn đầu danh sách ăn mặc đẹp thường niên của tạp chí ''People''.<ref>{{Chú thích web|url=http://stylenews.peoplestylewatch.com/2014/09/17/best-dressed-taylor-swift-jennifer-lopez-style/|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20160220110441/http://stylenews.peoplestylewatch.com/2014/09/17/best-dressed-taylor-swift-jennifer-lopez-style/|ngày lưu trữ=February 20, 2016 |tiêu đề=People's Best Dressed, Taylor Swift Best Dressed 2014 |work=People |ngày tháng=September 17, 2014 |ngày truy cập=December 1, 2015}}</ref> Năm 2015, Taylor giành giải [[Elle Style Awards]] cho "Người phụ nữ của năm"<ref>{{Chú thích web|họ 1=Powell|tên 1=Hannah Lyons|url=http://www.elleuk.com/elle-style-awards/taylor-swift-wins-woman-of-the-year-2015 |tiêu đề=Taylor Swift wins Woman Of The Year award – ELLE Style Awards 2015 |work=[[Elle]] |ngày tháng=February 24, 2015 |ngày truy cập=December 1, 2015}}</ref> và ''[[Maxim (tạp chí)|Maxim]]'' xếp cô ở vị trí quán quân trong danh sách Hot 100 của năm.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.maxim.com/entertainment/music/article/taylor-swift-tops-2015-maxim-hot-100 |tiêu đề=Taylor Swift Tops the 2015 Maxim Hot 100 |work=Maxim |ngày tháng=May 18, 2015 |ngày truy cập=December 1, 2015 |họ 1=Roy|tên 1=Jessica}}</ref>


Swift xuất hiện trong [[Time 100|danh sách 100 người gây ảnh hưởng nhất thế giới]] của tạp chí ''[[Time (tạp chí)|Time]]'' vào năm 2010 và 2015.<ref name="autogenerated4">{{cite news|last=Nicks|first=Stevie|title=The 2010 Time 100: Taylor Swift|url=http://www.time.com/time/specials/packages/article/0,28804,1984685_1984940_1985536,00.html|work=[[Time (magazine)|Time]]|accessdate=April 22, 2012|date=April 29, 2010}}</ref><ref>{{cite journal | url=http://www.billboard.com/articles/news/6538486/taylor-swift-kanye-west-kim-kardashian-time-100-most-influential-people-list | title=Taylor Swift, Kanye West, Kim Kardashian Make Time's 100 Most Influential People List | author=Vena, Jocelyn | journal=Billboard | date=April 16, 2015 | accessdate=September 1, 2016}}</ref> Từ 2011–15, cô nằm trong top 3 những người phụ nữ bội thu trong âm nhạc của tạp chí ''[[Forbes]]'', với thu nhập lần lượt là 45 triệu, 57 triệu, 55 triệu, 64 triệu và 80 triệu [[đô-la Mỹ]].<ref>{{cite journal|last=Greenburg|first=Zack O'Malley|title=The Top-Earning Women In Music 2011|url=http://www.forbes.com/sites/zackomalleygreenburg/2011/12/14/the-top-earning-women-in-music-lady-gaga-taylor-swift-katy-parry-alicia-keys/|magazine=Forbes|accessdate=August 3, 2016|date=December 14, 2011}}<br />{{cite journal|last=Greenburg|first=Zack O'Malley|title=The Top-Earning Women In Music 2012|url=http://www.forbes.com/sites/zackomalleygreenburg/2012/12/12/the-top-earning-women-in-music-2012/|magazine=Forbes|accessdate=August 3, 2016|date=December 12, 2012}}<br />{{cite journal|last=Greenburg|first=Zack O'Malley|title=The Top-Earning Women In Music 2013|url=http://www.forbes.com/sites/zackomalleygreenburg/2013/12/11/the-top-earning-women-in-music-2013/|magazine=Forbes|accessdate=August 3, 2016|date=December 11, 2013}}<br />{{cite journal|last=Greenburg|first=Zack O'Malley|title=The Top-Earning Women In Music 2014|url=http://www.forbes.com/sites/zackomalleygreenburg/2014/11/04/the-top-earning-women-in-music-2014/|magazine=Forbes|accessdate=August 3, 2016|date=November 4, 2014}}<br />{{cite journal|last=Greenburg|first=Zack O'Malley|title=The World's Highest-Paid Women In Music 2015|journal=Forbes|date=November 4, 2015|url=http://www.forbes.com/sites/zackomalleygreenburg/2015/11/04/the-worlds-highest-paid-women-in-music-2015/|accessdate=November 5, 2015}}</ref> Năm 2015, cô là nhân vật trẻ nhất góp mặt trong danh sách 100 người phụ nữ quyền lực nhất của ''[[Forbes]]'', ở vị trí thứ 64.<ref>{{cite news|url=http://www.forbes.com/profile/taylor-swift/|title=#8 Taylor Swift|work=Forbes|accessdate=July 27, 2015}}</ref> Trong năm 2016, cô dẫn đầu danh sách 100 người nổi tiếng được trả thù lao cao nhất của ''[[Forbes]]'', với 170 triệu [[đô-la Mỹ]] cô lọt vào top 10 trong các năm 2011, 2013 và 2015.<ref>{{cite news|url=http://www.forbes.com/lists/2012/celebrities/celebrity-100_2011.html|title=Celebrity 100 2011|work=Forbes|accessdate=September 1, 2016}}<br />{{cite news|url=http://www.ibtimes.com/forbes-lists-top-100-most-powerful-celebrities-2013-oprah-winfrey-takes-number-one-spot-full-list|title=Forbes Lists Top 100 Most Powerful Celebrities in 2013: Oprah Winfrey Takes Number One Spot [Full list]|work=International Business Times|date=May 26, 2013|accessdate=September 1, 2016|author=Schumann, Rebecka}}<br />{{cite news|url=http://www.forbes.com/sites/zackomalleygreenburg/2015/06/29/celebrity-100-the-worlds-highest-paid-superstars-of-2015/|title=Celebrity 100: The World's Highest-Paid Superstars Of 2015|author= Greenburg, Zack O'Malley|work=Forbes|date=June 29, 2015|accessdate=September 1, 2016}}<br />{{cite news|last1=Greenburg|first1=Zack O'Malley|title=Taylor Swift Is The World's Top-Earning Celebrity With $170 Million In 2016|url=http://www.forbes.com/sites/zackomalleygreenburg/2016/07/11/taylor-swift-is-the-worlds-top-earning-celebrity-with-170-million-in-2016/|accessdate=August 3, 2016|work=Forbes|date=July 11, 2016}}</ref> Tháng 6 năm 2017, ''[[Forbes]]'' ước tính tổng tài sản của Swift đạt 280 triệu đô-la Mỹ.<ref>{{cite news|url=https://www.forbes.com/sites/zackomalleygreenburg/2017/06/05/taylor-swifts-net-worth-280-million-in-2017/|title=Taylor Swift's Net Worth: $280 Million In 2017|date=June 5, 2017|work=Forbes|last1=Greenburg|first1=Zack O'Malley|access-date=June 24, 2017}}</ref> Vào năm 2019, Swift một lần nữa dẫn đầu danh sách 100 người nổi tiếng được trả thù lao cao nhất của [[Forbes]] với 185 triệu [[đô-la Mỹ]], qua đó tự phá kỷ lục của chính mình về số tiền thu được nhiều nhất trong một năm và cũng qua đây cô trở thành người nổi tiếng duy nhất dẫn đầu danh sách trên trong một thập kỷ với 2 lần (2016 và 2019). Đến tháng 6 năm 2019, [[Forbes]] ước tính tổng tài sản của Swift trong [[âm nhạc]] đạt 360 triệu [[đô-la Mỹ]].
Taylor xuất hiện trong [[Time 100|danh sách 100 người gây ảnh hưởng nhất thế giới]] của tạp chí ''[[Time (tạp chí)|Time]]'' vào năm 2010 và 2015.<ref name="autogenerated4">{{cite news|last=Nicks|first=Stevie|title=The 2010 Time 100: Taylor Swift|url=http://www.time.com/time/specials/packages/article/0,28804,1984685_1984940_1985536,00.html|work=[[Time (magazine)|Time]]|accessdate=April 22, 2012|date=April 29, 2010}}</ref><ref>{{cite journal | url=http://www.billboard.com/articles/news/6538486/taylor-swift-kanye-west-kim-kardashian-time-100-most-influential-people-list | title=Taylor Swift, Kanye West, Kim Kardashian Make Time's 100 Most Influential People List | author=Vena, Jocelyn | journal=Billboard | date=April 16, 2015 | accessdate=September 1, 2016}}</ref> Từ 2011–15, cô nằm trong top 3 những người phụ nữ bội thu trong âm nhạc của tạp chí ''[[Forbes]]'', với thu nhập lần lượt là 45 triệu, 57 triệu, 55 triệu, 64 triệu và 80 triệu [[đô-la Mỹ]].<ref>{{cite journal|last=Greenburg|first=Zack O'Malley|title=The Top-Earning Women In Music 2011|url=http://www.forbes.com/sites/zackomalleygreenburg/2011/12/14/the-top-earning-women-in-music-lady-gaga-taylor-swift-katy-parry-alicia-keys/|magazine=Forbes|accessdate=August 3, 2016|date=December 14, 2011}}<br />{{cite journal|last=Greenburg|first=Zack O'Malley|title=The Top-Earning Women In Music 2012|url=http://www.forbes.com/sites/zackomalleygreenburg/2012/12/12/the-top-earning-women-in-music-2012/|magazine=Forbes|accessdate=August 3, 2016|date=December 12, 2012}}<br />{{cite journal|last=Greenburg|first=Zack O'Malley|title=The Top-Earning Women In Music 2013|url=http://www.forbes.com/sites/zackomalleygreenburg/2013/12/11/the-top-earning-women-in-music-2013/|magazine=Forbes|accessdate=August 3, 2016|date=December 11, 2013}}<br />{{cite journal|last=Greenburg|first=Zack O'Malley|title=The Top-Earning Women In Music 2014|url=http://www.forbes.com/sites/zackomalleygreenburg/2014/11/04/the-top-earning-women-in-music-2014/|magazine=Forbes|accessdate=August 3, 2016|date=November 4, 2014}}<br />{{cite journal|last=Greenburg|first=Zack O'Malley|title=The World's Highest-Paid Women In Music 2015|journal=Forbes|date=November 4, 2015|url=http://www.forbes.com/sites/zackomalleygreenburg/2015/11/04/the-worlds-highest-paid-women-in-music-2015/|accessdate=November 5, 2015}}</ref> Năm 2015, cô là nhân vật trẻ nhất góp mặt trong danh sách 100 người phụ nữ quyền lực nhất của ''[[Forbes]]'', ở vị trí thứ 64.<ref>{{cite news|url=http://www.forbes.com/profile/taylor-swift/|title=#8 Taylor Swift|work=Forbes|accessdate=July 27, 2015}}</ref> Trong năm 2016, cô dẫn đầu danh sách 100 người nổi tiếng được trả thù lao cao nhất của ''[[Forbes]]'', với 170 triệu [[đô-la Mỹ]] cô lọt vào top 10 trong các năm 2011, 2013 và 2015.<ref>{{cite news|url=http://www.forbes.com/lists/2012/celebrities/celebrity-100_2011.html|title=Celebrity 100 2011|work=Forbes|accessdate=September 1, 2016}}<br />{{cite news|url=http://www.ibtimes.com/forbes-lists-top-100-most-powerful-celebrities-2013-oprah-winfrey-takes-number-one-spot-full-list|title=Forbes Lists Top 100 Most Powerful Celebrities in 2013: Oprah Winfrey Takes Number One Spot [Full list]|work=International Business Times|date=May 26, 2013|accessdate=September 1, 2016|author=Schumann, Rebecka}}<br />{{cite news|url=http://www.forbes.com/sites/zackomalleygreenburg/2015/06/29/celebrity-100-the-worlds-highest-paid-superstars-of-2015/|title=Celebrity 100: The World's Highest-Paid Superstars Of 2015|author= Greenburg, Zack O'Malley|work=Forbes|date=June 29, 2015|accessdate=September 1, 2016}}<br />{{cite news|last1=Greenburg|first1=Zack O'Malley|title=Taylor Swift Is The World's Top-Earning Celebrity With $170 Million In 2016|url=http://www.forbes.com/sites/zackomalleygreenburg/2016/07/11/taylor-swift-is-the-worlds-top-earning-celebrity-with-170-million-in-2016/|accessdate=August 3, 2016|work=Forbes|date=July 11, 2016}}</ref> Tháng 6 năm 2017, ''[[Forbes]]'' ước tính tổng tài sản của Taylor đạt 280 triệu đô-la Mỹ.<ref>{{cite news|url=https://www.forbes.com/sites/zackomalleygreenburg/2017/06/05/taylor-swifts-net-worth-280-million-in-2017/|title=Taylor Swift's Net Worth: $280 Million In 2017|date=June 5, 2017|work=Forbes|last1=Greenburg|first1=Zack O'Malley|access-date=June 24, 2017}}</ref> Vào năm 2019, Taylor một lần nữa dẫn đầu danh sách 100 người nổi tiếng được trả thù lao cao nhất của [[Forbes]] với 185 triệu [[đô-la Mỹ]], qua đó tự phá kỷ lục của chính mình về số tiền thu được nhiều nhất trong một năm và cũng qua đây cô trở thành người nổi tiếng duy nhất dẫn đầu danh sách trên trong một thập kỷ với 2 lần (2016 và 2019). Đến tháng 6 năm 2019, [[Forbes]] ước tính tổng tài sản của Taylor trong [[âm nhạc]] đạt 360 triệu [[đô-la Mỹ]].


==Hoạt động khác==
==Hoạt động khác==
===Từ thiện===
===Từ thiện===
[[Do Something Awards|Tổ chức Do Something]] và Dịch vụ Thiên tai Tennessee đã công nhận nhiều nỗ lực từ thiện của Swift.<ref>{{cite news|last=Couch|first=Robbie|date=March 2, 2015|url=http://www.huffingtonpost.com/2014/12/30/taylor-swift-charitable-celebrity_n_6391984.html|title=Taylor Swift Named Most Charitable Celeb For Supporting Feminist Causes, Education, More|work=The Huffington Post|accessdate=August 2, 2016}}</ref><ref>{{Chú thích web |url = http://tasteofcountry.com/taylor-swift-star-of-compassion-award/|tiêu đề = Taylor Swift Receives Star of Compassion Award|nhà xuất bản = Taste Of Country|ngày tháng = June 13, 2012|ngày truy cập = November 27, 2015|họ 1 = Pacella|tên 1 = Megan}}</ref> Cô được trao tặng giải thưởng Big Help vì những "cống hiến giúp đỡ người khác" và "tạo cảm hứng cho mọi người thông qua hành động",<ref>{{Chú thích web |url=http://tasteofcountry.com/taylor-swift-kids-choice-awards-michelle-obama/ |tiêu đề=Taylor Swift to Receive 'Big' Honor From Michelle Obama at Kids' Choice Awards |nhà xuất bản=Taste of Country |ngày tháng=March 27, 2012 |ngày truy cập=August 30, 2012}}</ref> cùng giải Ripple of Hope vì "những cống hiến tích cực ở độ tuổi trẻ như vậy [..] Taylor là mẫu người mà chúng tôi muốn con gái của mình noi theo."<ref>{{cite news |url=http://www.prnewswire.com/news-releases/taylor-swift-honored-with-rfk-centers-ripple-of-hope-award-182081831.html |title=Taylor Swift Honored With RFK Center's Ripple of Hope Award|date=December 4, 2012|agency=PR Newswire |accessdate=February 25, 2013}}</ref> Năm 2008, cô ủng hộ 100.000 đô-la Mỹ cho [[Hội chữ Thập Đỏ]] để giúp đỡ các nạn nhân trong trận lụt ở bang Iowa.<ref>{{Chú thích web |url=http://www.people.com/people/article/0,,20218079,00.html |tiêu đề=Taylor Swift donates $100,000 to victims of Iowa Flood |ngày tháng=August 9, 2009 |work=People |ngày truy cập=September 9, 2009}}</ref> Nữ ca sĩ trình diễn ở nhiều chương trình gây quỹ từ thiện như buổi hòa nhạc Sound Relife tổ chức tại Sydney vào năm 2009.<ref>{{cite news|url=http://www.dailytelegraph.com.au/kylie-leads-mega-star-mercy-mission/story-e6freuy9-1111119064914|archiveurl=http://www.webcitation.org/6kliTEckz|archivedate=September 24, 2016 |title=Kylie to play at Sound Relief with Coldplay, Midnight Oil |work=[[The Daily Telegraph|The Daily Telegraph {{noitalics|(Úc)}}]] |date=March 8, 2009 |accessdate=December 30, 2009}}</ref> Cô cũng thu âm một bài hát cho album ''[[Hope for Haiti Now]]''.<ref>{{Chú thích web |họ 1=Vena |tên 1=Jocelyn |url=http://www.mtv.com/news/1630485/better-than-ezra-honored-by-taylor-swifts-performance-of-breathless-at-haiti-telethon/ |tiêu đề=Better Than Ezra 'Honored' By Taylor Swift's Performance Of 'Breathless' At Haiti Telethon – Music, Celebrity, Artist News |nhà xuất bản=MTV |ngày tháng=January 26, 2010 |ngày truy cập=August 30, 2012}}</ref> Swift gửi 500.000 đô-la Mỹ cho một chương trình từ thiện do [[WSMV]] tổ chức để giúp đỡ các nạn nhân trong trận lụt ở bang Tennessee vào tháng 5 năm 2010.<ref name="Talbottflood">{{Chú thích web|url=http://cnsnews.com/news/article/taylor-swift-donates-500000-nashville-flood-relief|ngày tháng=May 7, 2010|họ 1=Talbott|tên 1=Chris|tiêu đề=Taylor Swift Donates $500,000 to Nashville Flood Relief|nhà xuất bản=[[CNS News]]}}</ref> Trong năm 2011, Swift dùng buổi diễn tập cùng trang phục trong chuyến lưu diễn [[Speak Now World Tour]] để gây quỹ hỗ trợ cho các nạn nhân bị ảnh hưởng bởi vòi rồng ở nhiều bang đông nam Hoa Kỳ, quyên góp được hơn 750.000 đô-la Mỹ.<ref>{{cite news |last=Lewis |first=Randy |title=Taylor Swift benefit concert raises more than $750,000 for tornado victims |url=http://latimesblogs.latimes.com/music_blog/2011/05/taylor-swift-benefit-tornado-nashville.html |work=Los Angeles Times|type=Blog|accessdate=April 18, 2012 |date=May 23, 2011}}</ref> Năm 2012, cô hỗ trợ chương trình từ thiện Restore the Shore MTV do tổ chức Architecture for Humanity khởi xướng nhằm khắc phục những hậu quả do cơn [[bão Sandy]] để lại.<ref>{{Chú thích web |url=http://tasteofcountry.com/taylor-swift-hurricane-sandy-restore-the-shore/ |tiêu đề=Taylor Swift Sends 'Love and Support' to Hurricane Sandy Victims, Asks Fans to Help 'Restore the Shore' |nhà xuất bản=Taste of Country |ngày tháng=November 13, 2012 |ngày truy cập=April 21, 2014}}</ref> Năm 2016, cô ủng hộ 1 triệu đô-la Mỹ cho các nạn nhân bị ảnh hưởng bởi trận lụt ở bang Louisiana.<ref>{{cite news|title=Taylor Swift gives $1m to help Louisiana flood relief efforts|url=https://www.theguardian.com/music/2016/aug/17/taylor-swift-gives-1m-to-help-louisiana-flood-relief-efforts|accessdate=August 17, 2016|work=The Guardian|date=August 17, 2016}}</ref>
[[Do Something Awards|Tổ chức Do Something]] và Dịch vụ Thiên tai Tennessee đã công nhận nhiều nỗ lực từ thiện của Taylor.<ref>{{cite news|last=Couch|first=Robbie|date=March 2, 2015|url=http://www.huffingtonpost.com/2014/12/30/taylor-swift-charitable-celebrity_n_6391984.html|title=Taylor Swift Named Most Charitable Celeb For Supporting Feminist Causes, Education, More|work=The Huffington Post|accessdate=August 2, 2016}}</ref><ref>{{Chú thích web |url = http://tasteofcountry.com/taylor-swift-star-of-compassion-award/|tiêu đề = Taylor Swift Receives Star of Compassion Award|nhà xuất bản = Taste Of Country|ngày tháng = June 13, 2012|ngày truy cập = November 27, 2015|họ 1 = Pacella|tên 1 = Megan}}</ref> Cô được trao tặng giải thưởng Big Help vì những "cống hiến giúp đỡ người khác" và "tạo cảm hứng cho mọi người thông qua hành động",<ref>{{Chú thích web |url=http://tasteofcountry.com/taylor-swift-kids-choice-awards-michelle-obama/ |tiêu đề=Taylor Swift to Receive 'Big' Honor From Michelle Obama at Kids' Choice Awards |nhà xuất bản=Taste of Country |ngày tháng=March 27, 2012 |ngày truy cập=August 30, 2012}}</ref> cùng giải Ripple of Hope vì "những cống hiến tích cực ở độ tuổi trẻ như vậy [..] Taylor là mẫu người mà chúng tôi muốn con gái của mình noi theo."<ref>{{cite news |url=http://www.prnewswire.com/news-releases/taylor-swift-honored-with-rfk-centers-ripple-of-hope-award-182081831.html |title=Taylor Swift Honored With RFK Center's Ripple of Hope Award|date=December 4, 2012|agency=PR Newswire |accessdate=February 25, 2013}}</ref> Năm 2008, cô ủng hộ 100.000 đô-la Mỹ cho [[Hội chữ Thập Đỏ]] để giúp đỡ các nạn nhân trong trận lụt ở bang Iowa.<ref>{{Chú thích web |url=http://www.people.com/people/article/0,,20218079,00.html |tiêu đề=Taylor Swift donates $100,000 to victims of Iowa Flood |ngày tháng=August 9, 2009 |work=People |ngày truy cập=September 9, 2009}}</ref> Nữ ca sĩ trình diễn ở nhiều chương trình gây quỹ từ thiện như buổi hòa nhạc Sound Relife tổ chức tại Sydney vào năm 2009.<ref>{{cite news|url=http://www.dailytelegraph.com.au/kylie-leads-mega-star-mercy-mission/story-e6freuy9-1111119064914|archiveurl=http://www.webcitation.org/6kliTEckz|archivedate=September 24, 2016 |title=Kylie to play at Sound Relief with Coldplay, Midnight Oil |work=[[The Daily Telegraph|The Daily Telegraph {{noitalics|(Úc)}}]] |date=March 8, 2009 |accessdate=December 30, 2009}}</ref> Cô cũng thu âm một bài hát cho album ''[[Hope for Haiti Now]]''.<ref>{{Chú thích web |họ 1=Vena |tên 1=Jocelyn |url=http://www.mtv.com/news/1630485/better-than-ezra-honored-by-taylor-swifts-performance-of-breathless-at-haiti-telethon/ |tiêu đề=Better Than Ezra 'Honored' By Taylor Swift's Performance Of 'Breathless' At Haiti Telethon – Music, Celebrity, Artist News |nhà xuất bản=MTV |ngày tháng=January 26, 2010 |ngày truy cập=August 30, 2012}}</ref> Taylor gửi 500.000 đô-la Mỹ cho một chương trình từ thiện do [[WSMV]] tổ chức để giúp đỡ các nạn nhân trong trận lụt ở bang Tennessee vào tháng 5 năm 2010.<ref name="Talbottflood">{{Chú thích web|url=http://cnsnews.com/news/article/taylor-swift-donates-500000-nashville-flood-relief|ngày tháng=May 7, 2010|họ 1=Talbott|tên 1=Chris|tiêu đề=Taylor Swift Donates $500,000 to Nashville Flood Relief|nhà xuất bản=[[CNS News]]}}</ref> Trong năm 2011, Taylor dùng buổi diễn tập cùng trang phục trong chuyến lưu diễn [[Speak Now World Tour]] để gây quỹ hỗ trợ cho các nạn nhân bị ảnh hưởng bởi vòi rồng ở nhiều bang đông nam Hoa Kỳ, quyên góp được hơn 750.000 đô-la Mỹ.<ref>{{cite news |last=Lewis |first=Randy |title=Taylor Swift benefit concert raises more than $750,000 for tornado victims |url=http://latimesblogs.latimes.com/music_blog/2011/05/taylor-swift-benefit-tornado-nashville.html |work=Los Angeles Times|type=Blog|accessdate=April 18, 2012 |date=May 23, 2011}}</ref> Năm 2012, cô hỗ trợ chương trình từ thiện Restore the Shore MTV do tổ chức Architecture for Humanity khởi xướng nhằm khắc phục những hậu quả do cơn [[bão Sandy]] để lại.<ref>{{Chú thích web |url=http://tasteofcountry.com/taylor-swift-hurricane-sandy-restore-the-shore/ |tiêu đề=Taylor Swift Sends 'Love and Support' to Hurricane Sandy Victims, Asks Fans to Help 'Restore the Shore' |nhà xuất bản=Taste of Country |ngày tháng=November 13, 2012 |ngày truy cập=April 21, 2014}}</ref> Năm 2016, cô ủng hộ 1 triệu đô-la Mỹ cho các nạn nhân bị ảnh hưởng bởi trận lụt ở bang Louisiana.<ref>{{cite news|title=Taylor Swift gives $1m to help Louisiana flood relief efforts|url=https://www.theguardian.com/music/2016/aug/17/taylor-swift-gives-1m-to-help-louisiana-flood-relief-efforts|accessdate=August 17, 2016|work=The Guardian|date=August 17, 2016}}</ref>


Vào năm 2010, Swift gửi 75.000 đô-la Mỹ cho Trường trung học Hendersonville của Nashville để giúp trường tân trang lại thính phòng.<ref>{{cite news |url = http://blogs.tennessean.com/tunein/2010/09/23/taylor-swift-becomes-namesake-of-hendersonville-high-school-auditorium/|title = Taylor Swift becomes namesake of Hendersonville High School auditorium|work = The Tennessean|type=Blog|date = September 23, 2010|accessdate = May 29, 2011|archiveurl = https://web.archive.org/web/20150712025238/http://blogs.tennessean.com/tunein/2010/09/23/taylor-swift-becomes-namesake-of-hendersonville-high-school-auditorium/|archivedate = July 12, 2015}}</ref> Cô cam kết tài trợ 4 triệu đô-la Mỹ để xây dựng một trung tâm giáo dục mới tại Bảo tàng Country Music Hall of Fame and Museum ở Nashville vào năm 2012.<ref>{{cite news |last=Mckinley |first=James C. |url=http://artsbeat.blogs.nytimes.com/2012/05/17/taylor-swift-donating-4-million-to-country-music-hall-of-fame-and-museum/ |title=Taylor Swift to Donate $4 Million to the Country Hall of Fame |work=The New York Times|type=Blog|date=May 17, 2012 |accessdate=July 1, 2012}}</ref> Cũng trong năm này, Swift hợp tác với công ty cho thuê sách giáo khoa Chegg nhằm ủng hộ 60.000 đô-la Mỹ cho các khoa âm nhạc thuộc sáu trường cao đẳng ở Hoa Kỳ.<ref>{{Chú thích web |họ 1=Golden |tên 1=Zara |url=http://www.vh1.com/music/tuner/2012-10-01/taylor-swift-vh1-storytellers-harvey-mudd-college/|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20150712144643/http://www.vh1.com/music/tuner/2012-10-01/taylor-swift-vh1-storytellers-harvey-mudd-college/|ngày lưu trữ=July 12, 2015 |tiêu đề=And The Taylor Swift VH1 Storytellers Contest Winner Is&nbsp;... Harvey Mudd College! – &#124; VH1 Tuner |nhà xuất bản=VH1 |ngày tháng=October 1, 2012 |ngày truy cập=April 21, 2014}}</ref> Swift cũng khuyến khích việc nâng cao trình độ học vấn của trẻ em. Năm 2009, cô gửi tặng 250.000 đô-la Mỹ đến nhiều trường học khác nhau khắp Hoa Kỳ để cải thiện giáo dục.<ref>{{Chú thích web |họ 1=Sanz |tên 1=Cynthia |url=http://www.people.com/people/article/0,,20326948,00.html |tiêu đề=Taylor Swift Gives Big as She Turns 20 – Good Deeds, Taylor Swift |work=People |ngày tháng=December 14, 2009 |ngày truy cập=May 29, 2012}}</ref> Nữ ca sĩ còn ủng hộ 6.000 sách Scholastic đến Thư viện công cộng Reading ở bang Pennsylvania,<ref>{{Chú thích web |url=http://readingeagle.com/article.aspx?id=339089 |tiêu đề=Taylor Swift donates 6,000 books to Reading Library |nhà xuất bản=Reading Eagle |ngày tháng=October 14, 2011 |ngày truy cập=May 29, 2012}}</ref> 14.000 sách cho Thư viện công cộng Nashville,<ref name="tasteofcountry1">{{Chú thích web |url=http://tasteofcountry.com/taylor-swifts-donates-14000-books-nashville-public-library/ |tiêu đề=Taylor Swift Donates 14,000 Books to Nashville Public Library |nhà xuất bản=Taste of Country |ngày tháng=February 2, 2012 |ngày truy cập=May 29, 2012}}</ref> 2.000 sách cho chương trình học chữ tại Trung tâm Chăm sóc Sức khỏe trẻ em của Bệnh viện Reading,<ref>{{Chú thích web |url=http://www.wfmz.com/news/news-regional-berks/Taylor-Swift-Scholastic-donate-books-to-Reading-Hospital/-/121418/18185568/-/6m2plgz/-/index.html |tiêu đề=Taylor Swift, Scholastic donate books to Reading Hospital &#124; Regional: Berks – Home |nhà xuất bản=Wfmz.com |ngày tháng=January 18, 2013 |ngày truy cập=February 25, 2013}}</ref> và 25.000 sách đến các trường học trong thành phố New York.<ref>{{cite news|url=http://www.ew.com/article/2015/11/17/taylor-swift-scholastic-donate-25000-books|title=Taylor Swift partners with Scholastic to donate 25,000 books|work=Entertainment Weekly|date=November 17, 2015|last=Zhu|first=Danielle|accessdate=August 3, 2016}}</ref>
Vào năm 2010, Taylor gửi 75.000 đô-la Mỹ cho Trường trung học Hendersonville của Nashville để giúp trường tân trang lại thính phòng.<ref>{{cite news |url = http://blogs.tennessean.com/tunein/2010/09/23/taylor-swift-becomes-namesake-of-hendersonville-high-school-auditorium/|title = Taylor Swift becomes namesake of Hendersonville High School auditorium|work = The Tennessean|type=Blog|date = September 23, 2010|accessdate = May 29, 2011|archiveurl = https://web.archive.org/web/20150712025238/http://blogs.tennessean.com/tunein/2010/09/23/taylor-swift-becomes-namesake-of-hendersonville-high-school-auditorium/|archivedate = July 12, 2015}}</ref> Cô cam kết tài trợ 4 triệu đô-la Mỹ để xây dựng một trung tâm giáo dục mới tại Bảo tàng Country Music Hall of Fame and Museum ở Nashville vào năm 2012.<ref>{{cite news |last=Mckinley |first=James C. |url=http://artsbeat.blogs.nytimes.com/2012/05/17/taylor-swift-donating-4-million-to-country-music-hall-of-fame-and-museum/ |title=Taylor Swift to Donate $4 Million to the Country Hall of Fame |work=The New York Times|type=Blog|date=May 17, 2012 |accessdate=July 1, 2012}}</ref> Cũng trong năm này, Taylor hợp tác với công ty cho thuê sách giáo khoa Chegg nhằm ủng hộ 60.000 đô-la Mỹ cho các khoa âm nhạc thuộc sáu trường cao đẳng ở Hoa Kỳ.<ref>{{Chú thích web |họ 1=Golden |tên 1=Zara |url=http://www.vh1.com/music/tuner/2012-10-01/taylor-swift-vh1-storytellers-harvey-mudd-college/|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20150712144643/http://www.vh1.com/music/tuner/2012-10-01/taylor-swift-vh1-storytellers-harvey-mudd-college/|ngày lưu trữ=July 12, 2015 |tiêu đề=And The Taylor Swift VH1 Storytellers Contest Winner Is&nbsp;... Harvey Mudd College! – &#124; VH1 Tuner |nhà xuất bản=VH1 |ngày tháng=October 1, 2012 |ngày truy cập=April 21, 2014}}</ref> Taylor cũng khuyến khích việc nâng cao trình độ học vấn của trẻ em. Năm 2009, cô gửi tặng 250.000 đô-la Mỹ đến nhiều trường học khác nhau khắp Hoa Kỳ để cải thiện giáo dục.<ref>{{Chú thích web |họ 1=Sanz |tên 1=Cynthia |url=http://www.people.com/people/article/0,,20326948,00.html |tiêu đề=Taylor Swift Gives Big as She Turns 20 – Good Deeds, Taylor Swift |work=People |ngày tháng=December 14, 2009 |ngày truy cập=May 29, 2012}}</ref> Nữ ca sĩ còn ủng hộ 6.000 sách Scholastic đến Thư viện công cộng Reading ở bang Pennsylvania,<ref>{{Chú thích web |url=http://readingeagle.com/article.aspx?id=339089 |tiêu đề=Taylor Swift donates 6,000 books to Reading Library |nhà xuất bản=Reading Eagle |ngày tháng=October 14, 2011 |ngày truy cập=May 29, 2012}}</ref> 14.000 sách cho Thư viện công cộng Nashville,<ref name="tasteofcountry1">{{Chú thích web |url=http://tasteofcountry.com/taylor-swifts-donates-14000-books-nashville-public-library/ |tiêu đề=Taylor Swift Donates 14,000 Books to Nashville Public Library |nhà xuất bản=Taste of Country |ngày tháng=February 2, 2012 |ngày truy cập=May 29, 2012}}</ref> 2.000 sách cho chương trình học chữ tại Trung tâm Chăm sóc Sức khỏe trẻ em của Bệnh viện Reading,<ref>{{Chú thích web |url=http://www.wfmz.com/news/news-regional-berks/Taylor-Swift-Scholastic-donate-books-to-Reading-Hospital/-/121418/18185568/-/6m2plgz/-/index.html |tiêu đề=Taylor Swift, Scholastic donate books to Reading Hospital &#124; Regional: Berks – Home |nhà xuất bản=Wfmz.com |ngày tháng=January 18, 2013 |ngày truy cập=February 25, 2013}}</ref> và 25.000 sách đến các trường học trong thành phố New York.<ref>{{cite news|url=http://www.ew.com/article/2015/11/17/taylor-swift-scholastic-donate-25000-books|title=Taylor Swift partners with Scholastic to donate 25,000 books|work=Entertainment Weekly|date=November 17, 2015|last=Zhu|first=Danielle|accessdate=August 3, 2016}}</ref>


Vào năm 2007, Swift khởi động một chiến dịch bảo vệ trẻ em khỏi những mối nguy trực tuyến cùng Hiệp hội Các trưởng Cảnh sát bang Tennessee.<ref name="swift">{{Chú thích web|url=http://www.countryweekly.com/news/taylor-swift-helps-%E2%80%9Cdelete-online-predators%E2%80%9D-campaign|url lưu trữ=http://wayback.archive.org/web/20160116064915/http://www.countryweekly.com/news/taylor-swift-helps-%E2%80%9Cdelete-online-predators%E2%80%9D-campaign|ngày lưu trữ=January 16, 2016|tiêu đề=Taylor Swift Helps With 'Delete Online Predators' Campaign|ngày tháng=September 18, 2007|work=Nash Country Weekly|ngày truy cập=November 29, 2015}}</ref> Năm 2009, cô thu âm một thông báo cộng đồng của Sound Matters để giúp các thính giả nhận biết được tầm quan trọng của việc lắng nghe "có ý thức" nhằm ngăn chặn sự suy giảm thính giác.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.soundmatters.org/taylorswift.php|tiêu đề=Sound Matters – Taylor Swift|website=Sound Matters|ngày truy cập=November 29, 2015|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20120820005821/http://www.soundmatters.org/taylorswift.php|ngày lưu trữ=August 20, 2012}}</ref> Swift đã tặng nhiều vật dụng cho các cuộc bán đấu giá do nhiều tổ chức từ thiện khởi xướng như Quỹ Elton John AIDS, Dự án nước sạch cho trẻ em của [[UNICEF]], MusiCares, và Feeding America.<ref>Nguồn
Vào năm 2007, Taylor khởi động một chiến dịch bảo vệ trẻ em khỏi những mối nguy trực tuyến cùng Hiệp hội Các trưởng Cảnh sát bang Tennessee.<ref name="swift">{{Chú thích web|url=http://www.countryweekly.com/news/taylor-swift-helps-%E2%80%9Cdelete-online-predators%E2%80%9D-campaign|url lưu trữ=http://wayback.archive.org/web/20160116064915/http://www.countryweekly.com/news/taylor-swift-helps-%E2%80%9Cdelete-online-predators%E2%80%9D-campaign|ngày lưu trữ=January 16, 2016|tiêu đề=Taylor Swift Helps With 'Delete Online Predators' Campaign|ngày tháng=September 18, 2007|work=Nash Country Weekly|ngày truy cập=November 29, 2015}}</ref> Năm 2009, cô thu âm một thông báo cộng đồng của Sound Matters để giúp các thính giả nhận biết được tầm quan trọng của việc lắng nghe "có ý thức" nhằm ngăn chặn sự suy giảm thính giác.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.soundmatters.org/taylorswift.php|tiêu đề=Sound Matters – Taylor Swift|website=Sound Matters|ngày truy cập=November 29, 2015|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20120820005821/http://www.soundmatters.org/taylorswift.php|ngày lưu trữ=August 20, 2012}}</ref> Taylor đã tặng nhiều vật dụng cho các cuộc bán đấu giá do nhiều tổ chức từ thiện khởi xướng như Quỹ Elton John AIDS, Dự án nước sạch cho trẻ em của [[UNICEF]], MusiCares, và Feeding America.<ref>Nguồn


*{{cite news|url=http://www.prnewswire.com/news-releases/19th-annual-elton-john-aids-foundation-academy-awards-viewing-party-hosted-by-sir-elton-john-and-david-furnish-raised-nearly-4-million-for-the-fight-against-hivaids-117047448.html|title=19th Annual Elton John AIDS Foundation Academy Awards Viewing Party|agency=PR Newswire|accessdate=November 10, 2015}}
*{{cite news|url=http://www.prnewswire.com/news-releases/19th-annual-elton-john-aids-foundation-academy-awards-viewing-party-hosted-by-sir-elton-john-and-david-furnish-raised-nearly-4-million-for-the-fight-against-hivaids-117047448.html|title=19th Annual Elton John AIDS Foundation Academy Awards Viewing Party|agency=PR Newswire|accessdate=November 10, 2015}}
*{{Chú thích web|url=http://tasteofcountry.com/taylor-swift-unicef-tap-project-initiative/|tiêu đề=Taylor Swift Teams Up With UNICEF Tap Project Initiative|ngày tháng=March 17, 2011|nhà xuất bản=Taste of Country|ngày truy cập=August 7, 2012}}
*{{Chú thích web|url=http://tasteofcountry.com/taylor-swift-unicef-tap-project-initiative/|tiêu đề=Taylor Swift Teams Up With UNICEF Tap Project Initiative|ngày tháng=March 17, 2011|nhà xuất bản=Taste of Country|ngày truy cập=August 7, 2012}}
*{{Chú thích web|url=http://www.rttnews.com/1677082/taylor-swift-among-participants-in-musicares-back-to-school-charity-auction.aspx|tiêu đề=Taylor Swift Among Participants in MusiCares Back To School Charity Auction|ngày tháng=July 28, 2011|nhà xuất bản=Rttnews.com|ngày truy cập=August 7, 2012}}
*{{Chú thích web|url=http://www.rttnews.com/1677082/taylor-swift-among-participants-in-musicares-back-to-school-charity-auction.aspx|tiêu đề=Taylor Swift Among Participants in MusiCares Back To School Charity Auction|ngày tháng=July 28, 2011|nhà xuất bản=Rttnews.com|ngày truy cập=August 7, 2012}}
*{{Chú thích web|url=http://www.looktothestars.org/news/1664-feed-america-with-george-clooneys-bowl|tiêu đề=Feed America With George Clooney's Bowl|nhà xuất bản=Looktothestars.org|ngày truy cập=August 7, 2012}}</ref> Sau khi nhận giải Nghệ sĩ của năm của Viện Hàn lâm nhạc Đồng quê, Swift tặng 25.000 đô-la Mỹ đến Bệnh viện Nghiên cứu của Trẻ em St. Jude.<ref>{{Chú thích web |url = http://blogs.tennessean.com/tunein/2011/06/13/taylor-swift-and-acm-lifting-lives-present-50000-to-st-jude/|tiêu đề = Taylor Swift and ACM Lifting Lives present $50,000 donation to St. Jude|work = The Tennessean|kiểu=Blog|ngày tháng = June 13, 2011|ngày truy cập = May 29, 2012|url lưu trữ = https://web.archive.org/web/20150712053711/http://blogs.tennessean.com/tunein/2011/06/13/taylor-swift-and-acm-lifting-lives-present-50000-to-st-jude/|ngày lưu trữ = July 12, 2015}}</ref> Trong năm 2012, nữ ca sĩ tham gia chương trình từ thiện Stand Up to Cancer và trình diễn "[[Ronan (bài hát)|Ronan]]", một bài hát do chính cô sáng tác nhằm tưởng nhớ đến một cậu bé bốn tuổi đã mất vì căn bệnh u nguyên bào thần kinh. Swift phát hành bài hát này dưới dạng kĩ thuật số và toàn bộ số tiền thu về đã được gửi đến các tổ chức từ thiện chống ung thư.<ref>{{Chú thích web |url=http://www.rollingstone.com/music/videos/taylor-swift-debuts-ronan-at-stand-up-to-cancer-benefit-20120908 |tiêu đề=New and Hot Video: Taylor Swift Debuts 'Ronan' at Stand Up To Cancer Benefit |work=Rolling Stone |ngày tháng=September 8, 2012 |ngày truy cập=September 14, 2012}}</ref> Năm 2014, cô ủng hộ 100.000 đô-la Mỹ đến Quỹ Nghiên cứu Ung thư V,<ref>{{Chú thích web |url=http://www.tampabay.com/sports/basketball/college/dick-vitale-holds-annual-fundraiser-for-pediatric-cancer/2180291 |tiêu đề=Dick Vitale holds annual fundraiser for pediatric cancer |work=[[Tampa Bay Times]] |ngày tháng=May 17, 2014 |ngày truy cập=July 30, 2014}}</ref> và 50.000 đô-la Mỹ đến Bệnh viện Nhi Philadelphia.<ref>{{cite news |url=http://www.bizjournals.com/philadelphia/blog/health-care/2014/06/taylor-swift-donates-50k-to-chop-to-help-teens.html |archiveurl=https://web.archive.org/web/20150712164028/http://www.bizjournals.com/philadelphia/blog/health-care/2014/06/taylor-swift-donates-50k-to-chop-to-help-teens.html |archivedate=July 12, 2015 |title=Taylor Swift donates $50K to CHOP to help teens with cancer |work=[[The Business Journals]]|type=Blog|accessdate=June 5, 2014}}</ref> Nữ ca sĩ cũng đến nhiều bệnh viện để thăm hỏi các bệnh nhân và hỗ trợ cho họ.<ref>Nguồn
*{{Chú thích web|url=http://www.looktothestars.org/news/1664-feed-america-with-george-clooneys-bowl|tiêu đề=Feed America With George Clooney's Bowl|nhà xuất bản=Looktothestars.org|ngày truy cập=August 7, 2012}}</ref> Sau khi nhận giải Nghệ sĩ của năm của Viện Hàn lâm nhạc Đồng quê, Taylor tặng 25.000 đô-la Mỹ đến Bệnh viện Nghiên cứu của Trẻ em St. Jude.<ref>{{Chú thích web |url = http://blogs.tennessean.com/tunein/2011/06/13/taylor-swift-and-acm-lifting-lives-present-50000-to-st-jude/|tiêu đề = Taylor Swift and ACM Lifting Lives present $50,000 donation to St. Jude|work = The Tennessean|kiểu=Blog|ngày tháng = June 13, 2011|ngày truy cập = May 29, 2012|url lưu trữ = https://web.archive.org/web/20150712053711/http://blogs.tennessean.com/tunein/2011/06/13/taylor-swift-and-acm-lifting-lives-present-50000-to-st-jude/|ngày lưu trữ = July 12, 2015}}</ref> Trong năm 2012, nữ ca sĩ tham gia chương trình từ thiện Stand Up to Cancer và trình diễn "[[Ronan (bài hát)|Ronan]]", một bài hát do chính cô sáng tác nhằm tưởng nhớ đến một cậu bé bốn tuổi đã mất vì căn bệnh u nguyên bào thần kinh. Taylor phát hành bài hát này dưới dạng kĩ thuật số và toàn bộ số tiền thu về đã được gửi đến các tổ chức từ thiện chống ung thư.<ref>{{Chú thích web |url=http://www.rollingstone.com/music/videos/taylor-swift-debuts-ronan-at-stand-up-to-cancer-benefit-20120908 |tiêu đề=New and Hot Video: Taylor Swift Debuts 'Ronan' at Stand Up To Cancer Benefit |work=Rolling Stone |ngày tháng=September 8, 2012 |ngày truy cập=September 14, 2012}}</ref> Năm 2014, cô ủng hộ 100.000 đô-la Mỹ đến Quỹ Nghiên cứu Ung thư V,<ref>{{Chú thích web |url=http://www.tampabay.com/sports/basketball/college/dick-vitale-holds-annual-fundraiser-for-pediatric-cancer/2180291 |tiêu đề=Dick Vitale holds annual fundraiser for pediatric cancer |work=[[Tampa Bay Times]] |ngày tháng=May 17, 2014 |ngày truy cập=July 30, 2014}}</ref> và 50.000 đô-la Mỹ đến Bệnh viện Nhi Philadelphia.<ref>{{cite news |url=http://www.bizjournals.com/philadelphia/blog/health-care/2014/06/taylor-swift-donates-50k-to-chop-to-help-teens.html |archiveurl=https://web.archive.org/web/20150712164028/http://www.bizjournals.com/philadelphia/blog/health-care/2014/06/taylor-swift-donates-50k-to-chop-to-help-teens.html |archivedate=July 12, 2015 |title=Taylor Swift donates $50K to CHOP to help teens with cancer |work=[[The Business Journals]]|type=Blog|accessdate=June 5, 2014}}</ref> Nữ ca sĩ cũng đến nhiều bệnh viện để thăm hỏi các bệnh nhân và hỗ trợ cho họ.<ref>Nguồn
*{{Chú thích web |url=http://www.pennlive.com/midstate/index.ssf/2011/12/south_middleton_girl_buys_toys.html |tiêu đề=South Middleton girl gets toys for fellow patients at St. Jude Children's Research Hospital |work=[[The Patriot-News]] |ngày truy cập=August 30, 2012}}
*{{Chú thích web |url=http://www.pennlive.com/midstate/index.ssf/2011/12/south_middleton_girl_buys_toys.html |tiêu đề=South Middleton girl gets toys for fellow patients at St. Jude Children's Research Hospital |work=[[The Patriot-News]] |ngày truy cập=August 30, 2012}}
*{{Chú thích web |url=http://www.politico.com/click/stories/1006/swifts_soldier_visit.html |tiêu đề=Swift's soldier visit |họ 1=Ryan|tên 1=Kiki|nhà xuất bản=Politico |ngày tháng=August 27, 2010 |ngày truy cập=August 30, 2012}}
*{{Chú thích web |url=http://www.politico.com/click/stories/1006/swifts_soldier_visit.html |tiêu đề=Swift's soldier visit |họ 1=Ryan|tên 1=Kiki|nhà xuất bản=Politico |ngày tháng=August 27, 2010 |ngày truy cập=August 30, 2012}}
*{{Chú thích web |tiêu đề = Taylor Swift performs at Vanderbilt children's hospital, in pictures|url = http://blogs.tennessean.com/tunein/2009/12/25/taylor-swift-performs-at-vanderbilt-childrens-hospital-in-pictures/?repeat=w3tc|work = [[The Tennessean]]|kiểu=Blog|ngày truy cập = June 10, 2013|ngày tháng = December 25, 2009|url lưu trữ = https://web.archive.org/web/20150712021948/http://blogs.tennessean.com/tunein/2009/12/25/taylor-swift-performs-at-vanderbilt-childrens-hospital-in-pictures/?repeat=w3tc|ngày lưu trữ = July 12, 2015}}</ref> Swift còn khuyến khích những người trẻ tuổi tham gia vào các hoạt động cộng đồng tại địa phương nhằm hưởng ứng Ngày Thanh niên Phục vụ Toàn cầu.<ref name="Hardiman 2007-04-07">{{Chú thích web |họ 1=Hardiman|tên 1=Tim|url=http://www.cmt.com/news/country-music/1557662/taylor-swift-encourages-teen-volunteers.jhtml |tiêu đề=Taylor Swift Encourages Teen Volunteers |nhà xuất bản=CMT |ngày tháng=April 20, 2007 |ngày truy cập=July 1, 2012}}</ref> Tháng 9 năm 2017 Taylor Swift đã âm thầm ủng hộ 1,5 triệu đô la mĩ cho quĩ Houston Food Bank, vinh danh mẹ cô- người từng tốt nghiệp trường đại học Houston nhằm quyên góp cho nạn nhân của siêu bão Harvey đã đổ bộ vào Mỹ
*{{Chú thích web |tiêu đề = Taylor Swift performs at Vanderbilt children's hospital, in pictures|url = http://blogs.tennessean.com/tunein/2009/12/25/taylor-swift-performs-at-vanderbilt-childrens-hospital-in-pictures/?repeat=w3tc|work = [[The Tennessean]]|kiểu=Blog|ngày truy cập = June 10, 2013|ngày tháng = December 25, 2009|url lưu trữ = https://web.archive.org/web/20150712021948/http://blogs.tennessean.com/tunein/2009/12/25/taylor-swift-performs-at-vanderbilt-childrens-hospital-in-pictures/?repeat=w3tc|ngày lưu trữ = July 12, 2015}}</ref> Taylor còn khuyến khích những người trẻ tuổi tham gia vào các hoạt động cộng đồng tại địa phương nhằm hưởng ứng Ngày Thanh niên Phục vụ Toàn cầu.<ref name="Hardiman 2007-04-07">{{Chú thích web |họ 1=Hardiman|tên 1=Tim|url=http://www.cmt.com/news/country-music/1557662/taylor-swift-encourages-teen-volunteers.jhtml |tiêu đề=Taylor Swift Encourages Teen Volunteers |nhà xuất bản=CMT |ngày tháng=April 20, 2007 |ngày truy cập=July 1, 2012}}</ref> Tháng 9 năm 2017 Taylor Swift đã âm thầm ủng hộ 1,5 triệu đô la mĩ cho quĩ Houston Food Bank, vinh danh mẹ cô- người từng tốt nghiệp trường đại học Houston nhằm quyên góp cho nạn nhân của siêu bão Harvey đã đổ bộ vào Mỹ


===Chính trị===
===Chính trị===
Trong [[Bầu cử tổng thống Hoa Kỳ, 2008|cuộc bầu cử Tổng thống 2008]], Swift ủng hộ chiến dịch Every Woman Counts, mang mục tiêu đưa phụ nữ vào quá trình chính trị và là một trong nhiều ngôi sao nhạc đồng quê xuất hiện trong sự kiện thông báo công khai cho chiến dịch Vote (For Your) Country.<ref>{{Chú thích web |tác giả 1=Stephen L. Betts |url=http://www.theboot.com/2008/10/10/reba-martina-taylor-making-sure-every-woman-counts/ |tiêu đề=Reba, Martina,Taylor Making Sure Every Woman Counts |nhà xuất bản=The Boot |ngày tháng=October 10, 2008}}</ref> Cô phát biểu: "Tôi không nghĩ mình có khả năng cố gắng và gây ảnh hưởng đến cách mà mọi người nên bỏ phiếu."<ref name="Rolling Stone 2008-12-08" /> Sau khi Tổng thống [[Barack Obama]] nhậm chức, cô chia sẻ trên ''Rolling Stone'': "Tôi chưa từng thấy quốc gia này hạnh phúc về một quyết định chính trị nhiều đến thế. Tôi rất vui mừng vì đây là lần bầu cử đầu tiên của tôi."<ref>{{Chú thích web|url=http://www.rollingstone.com/music/news/the-very-pink-very-perfect-life-of-taylor-swift-20090305|tiêu đề=The Very Pink, Very Perfect Life of Taylor Swift|họ 1=Grigoriadis|tên 1=Vanessa|ngày tháng=March 5, 2009|work=Rolling Stone|ngày truy cập=August 2, 2016}}</ref>
Trong [[Bầu cử tổng thống Hoa Kỳ, 2008|cuộc bầu cử Tổng thống 2008]], Taylor ủng hộ chiến dịch Every Woman Counts, mang mục tiêu đưa phụ nữ vào quá trình chính trị và là một trong nhiều ngôi sao nhạc đồng quê xuất hiện trong sự kiện thông báo công khai cho chiến dịch Vote (For Your) Country.<ref>{{Chú thích web |tác giả 1=Stephen L. Betts |url=http://www.theboot.com/2008/10/10/reba-martina-taylor-making-sure-every-woman-counts/ |tiêu đề=Reba, Martina,Taylor Making Sure Every Woman Counts |nhà xuất bản=The Boot |ngày tháng=October 10, 2008}}</ref> Cô phát biểu: "Tôi không nghĩ mình có khả năng cố gắng và gây ảnh hưởng đến cách mà mọi người nên bỏ phiếu."<ref name="Rolling Stone 2008-12-08" /> Sau khi Tổng thống [[Barack Obama]] nhậm chức, cô chia sẻ trên ''Rolling Stone'': "Tôi chưa từng thấy quốc gia này hạnh phúc về một quyết định chính trị nhiều đến thế. Tôi rất vui mừng vì đây là lần bầu cử đầu tiên của tôi."<ref>{{Chú thích web|url=http://www.rollingstone.com/music/news/the-very-pink-very-perfect-life-of-taylor-swift-20090305|tiêu đề=The Very Pink, Very Perfect Life of Taylor Swift|họ 1=Grigoriadis|tên 1=Vanessa|ngày tháng=March 5, 2009|work=Rolling Stone|ngày truy cập=August 2, 2016}}</ref>


Trong một bài phỏng vấn vào năm 2012, Swift khẳng định mình không "bàn chuyện chính trị vì có thể gây ảnh hưởng đến người khác".<ref>{{cite news|last=Macsai|first=Dan|date=October 19, 2012|url=http://entertainment.time.com/2012/10/19/taylor-swift-on-going-pop-ignoring-the-gossip-and-the-best-worst-nickname-shes-ever-had/?iid=ent-main-lede|title=Taylor Swift on Going Pop, Ignoring the Gossip and the Best (Worst) Nickname She's Ever Had|work=Time|accessdate=August 2, 2016}}</ref> Swift có thời gian gần gũi với [[gia tộc Kennedy]]<ref>{{Chú thích web|url=http://www.eonline.com/news/334846/taylor-swift-kennedys-should-be-so-lucky-to-have-her-in-the-family-says-boyfriend-conor-s-grandmother|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20151102061702/http://www.eonline.com/news/334846/taylor-swift-kennedys-should-be-so-lucky-to-have-her-in-the-family-says-boyfriend-conor-s-grandmother|ngày lưu trữ=November 2, 2015|tiêu đề=Taylor Swift: Kennedys Should Be So Lucky to Have Her in the Family, Says Boyfriend Conor's Grandmother|nhà xuất bản=E!|ngày truy cập=November 10, 2015}}</ref> và thể hiện lòng mến mộ đến [[Ethel Kennedy]].<ref name="single life" /> Swift còn là một nhà hoạt động theo [[chủ nghĩa nữ quyền]].<ref>{{Chú thích web|url=https://www.theguardian.com/music/2014/aug/23/taylor-swift-shake-it-off|tiêu đề=Taylor Swift: 'Sexy? Not on my radar'|họ 1=Hoby|tên 1=Hermione|ngày tháng=August 23, 2014|work=[[The Guardian]]|ngày truy cập=May 29, 2015}}</ref> Swift phản đối [[Ghê sợ đồng tính luyến ái|nạn phân biệt đối xử với người đồng tính luyến ái]]. Sau [[vụ sát hại Larry King]] vào năm 2008, cô thu âm một thông báo cộng đồng của [[Gay, Lesbian and Straight Education Network]] nhằm chống lại tội ác căm thù.<ref name="eonline1">{{Chú thích web|url=http://uk.eonline.com/news/59855/portia-joins-ellen-to-stop-the-hate|tiêu đề=Portia Joins Ellen To Stop The Hate|ngày tháng=March 10, 2010|nhà xuất bản=E!|ngày truy cập=July 12, 2012}}</ref> Trong kỷ niệm 1 năm ngày mất của King, Swift chia sẻ với ''Seventeen'' rằng cha mẹ cô dạy "không bao giờ được đánh giá người khác dựa trên bất kỳ tình cảm, màu da hay tín ngưỡng nào".<ref>{{Chú thích web|url=http://www.seventeen.com/college/advice/mission-taylor-swift|tiêu đề=Taylor Swift's Mission: Take a Stand Against Hate! – Seventeen|họ 1=Koday|tên 1=Dan|work=Seventeen|ngày truy cập=August 30, 2012}}</ref> Vào năm 2011, Swift thực hiện video âm nhạc "Mean" nhằm thể hiện nạn ghê sợ đồng tính luyến ái ở trường trung học; video được đề cử "Giải thưởng hoạt động xã hội" tại [[giải Video âm nhạc của MTV]].<ref name="Hawgood 2010-11-05">{{cite news|url=http://www.nytimes.com/2010/11/07/fashion/07ANTHEM.html|title=For Gays, New Songs of Survival|last=Hawgood|first=Alex|date=November 5, 2010|work=The New York Times|accessdate=August 7, 2012}}</ref><ref>{{cite news|url=http://in.reuters.com/article/2011/08/04/idINIndia-58624620110804|title=MTV adds social activism category to VMAs|date=August 4, 2011|agency=Reuters|accessdate=August 30, 2012}}</ref> ''The New York Times'' tin rằng cô là một phần trong "làn sóng phụ nữ trẻ tuổi (và hầu hết là [[người dị tính]]) ngày nay, đang xây dựng một thế hệ người hâm mộ là người đồng tính nhằm giữ gìn nhận dạng bản thân trong thời điểm của nhiều thông điệp văn hóa gây hỗn loạn và khó hiểu".<ref name="Hawgood 2010-11-05" />
Trong một bài phỏng vấn vào năm 2012, Taylor khẳng định mình không "bàn chuyện chính trị vì có thể gây ảnh hưởng đến người khác".<ref>{{cite news|last=Macsai|first=Dan|date=October 19, 2012|url=http://entertainment.time.com/2012/10/19/taylor-swift-on-going-pop-ignoring-the-gossip-and-the-best-worst-nickname-shes-ever-had/?iid=ent-main-lede|title=Taylor Swift on Going Pop, Ignoring the Gossip and the Best (Worst) Nickname She's Ever Had|work=Time|accessdate=August 2, 2016}}</ref> Taylor có thời gian gần gũi với [[gia tộc Kennedy]]<ref>{{Chú thích web|url=http://www.eonline.com/news/334846/taylor-swift-kennedys-should-be-so-lucky-to-have-her-in-the-family-says-boyfriend-conor-s-grandmother|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20151102061702/http://www.eonline.com/news/334846/taylor-swift-kennedys-should-be-so-lucky-to-have-her-in-the-family-says-boyfriend-conor-s-grandmother|ngày lưu trữ=November 2, 2015|tiêu đề=Taylor Swift: Kennedys Should Be So Lucky to Have Her in the Family, Says Boyfriend Conor's Grandmother|nhà xuất bản=E!|ngày truy cập=November 10, 2015}}</ref> và thể hiện lòng mến mộ đến [[Ethel Kennedy]].<ref name="single life" /> Taylor còn là một nhà hoạt động theo [[chủ nghĩa nữ quyền]].<ref>{{Chú thích web|url=https://www.theguardian.com/music/2014/aug/23/taylor-swift-shake-it-off|tiêu đề=Taylor Swift: 'Sexy? Not on my radar'|họ 1=Hoby|tên 1=Hermione|ngày tháng=August 23, 2014|work=[[The Guardian]]|ngày truy cập=May 29, 2015}}</ref> Taylor phản đối [[Ghê sợ đồng tính luyến ái|nạn phân biệt đối xử với người đồng tính luyến ái]]. Sau [[vụ sát hại Larry King]] vào năm 2008, cô thu âm một thông báo cộng đồng của [[Gay, Lesbian and Straight Education Network]] nhằm chống lại tội ác căm thù.<ref name="eonline1">{{Chú thích web|url=http://uk.eonline.com/news/59855/portia-joins-ellen-to-stop-the-hate|tiêu đề=Portia Joins Ellen To Stop The Hate|ngày tháng=March 10, 2010|nhà xuất bản=E!|ngày truy cập=July 12, 2012}}</ref> Trong kỷ niệm 1 năm ngày mất của King, Taylor chia sẻ với ''Seventeen'' rằng cha mẹ cô dạy "không bao giờ được đánh giá người khác dựa trên bất kỳ tình cảm, màu da hay tín ngưỡng nào".<ref>{{Chú thích web|url=http://www.seventeen.com/college/advice/mission-taylor-swift|tiêu đề=Taylor Swift's Mission: Take a Stand Against Hate! – Seventeen|họ 1=Koday|tên 1=Dan|work=Seventeen|ngày truy cập=August 30, 2012}}</ref> Vào năm 2011, Taylor thực hiện video âm nhạc "Mean" nhằm thể hiện nạn ghê sợ đồng tính luyến ái ở trường trung học; video được đề cử "Giải thưởng hoạt động xã hội" tại [[giải Video âm nhạc của MTV]].<ref name="Hawgood 2010-11-05">{{cite news|url=http://www.nytimes.com/2010/11/07/fashion/07ANTHEM.html|title=For Gays, New Songs of Survival|last=Hawgood|first=Alex|date=November 5, 2010|work=The New York Times|accessdate=August 7, 2012}}</ref><ref>{{cite news|url=http://in.reuters.com/article/2011/08/04/idINIndia-58624620110804|title=MTV adds social activism category to VMAs|date=August 4, 2011|agency=Reuters|accessdate=August 30, 2012}}</ref> ''The New York Times'' tin rằng cô là một phần trong "làn sóng phụ nữ trẻ tuổi (và hầu hết là [[người dị tính]]) ngày nay, đang xây dựng một thế hệ người hâm mộ là người đồng tính nhằm giữ gìn nhận dạng bản thân trong thời điểm của nhiều thông điệp văn hóa gây hỗn loạn và khó hiểu".<ref name="Hawgood 2010-11-05" />


===Quảng bá nhãn hiệu===
===Quảng bá nhãn hiệu===
Trong khi quảng bá album đầu tay, Swift là gương mặt của chiến dịch Mobile Music do hãng [[Verizon Wireless]] tổ chức.<ref>{{Chú thích web |url =http://www.gactv.com/gac/nw_headlines/article/0,,GAC_26063_5677660,00.html|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20131221003110/http://www.gactv.com/gac/nw_headlines/article/0,,GAC_26063_5677660,00.html|ngày lưu trữ=December 21, 2013|tiêu đề = Taylor Swift at Top for Fourth Week|nhà xuất bản = Great American Country|ngày tháng = August 20, 2007|ngày truy cập = July 3, 2012}}</ref> Trong kỷ nguyên ''Fearless'', cô quảng cáo loại đầm dây cho hãng L.e.i. tại [[Wal-Mart]],<ref>{{cite news|url=http://www.wwd.com/markets-news/ready-to-wear-sportswear/taylor-swift-does-dresses-1955844 |title=Taylor Swift Launches Sundress Line – Ready-to-Wear and Sportswear – Media |work=[[Women's Wear Daily]] |date=January 29, 2009 |accessdate=August 7, 2012}}</ref> thiết kế thiệp [[American Greetings]] và búp bê [[Jakks Pacific]].<ref>{{cite news |url=http://www.usatoday.com/life/people/2009-11-18-swift-greeting-cards_N.htm |title=Taylor Swift to have greeting card line |work=USA Today |date=November 18, 2009 |accessdate=August 7, 2012}}</ref><ref>{{Chú thích web |tên 1=Gina |họ 1=Serpe |url=http://www.eonline.com/uberblog/b66141_taylor_swift_gets_all_dolled_up.html |tiêu đề=Taylor Swift Gets All Dolled Up |nhà xuất bản=E! |ngày tháng=October 29, 2008 |ngày truy cập=September 20, 2010}}</ref> Cô là đại sứ cho nhãn hàng [[Nashville Predators]] của NHL và máy chụp ảnh kỹ thuật số [[Cyber-shot|Sony Cyber-shot]].<ref>{{Chú thích web|url=http://nhl.fanhouse.com/2009/02/03/taylor-swift-is-the-newest-nhl-celebrity-spokesperson/ |tiêu đề=Taylor Swift: NHL's New Spokesperson |nhà xuất bản=AOL|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20090207070135/http://nhl.fanhouse.com/2009/02/03/taylor-swift-is-the-newest-nhl-celebrity-spokesperson|ngày lưu trữ=February 7, 2009 |ngày tháng=February 3, 2009 |ngày truy cập=September 20, 2010}}</ref><ref>{{Chú thích web |url=https://news.sel.sony.com/en/press_room/consumer/digital_imaging/digital_cameras/cyber-shot/archive/57135.html?archive=1 |tiêu đề=Sony Electronics News and Information |nhà xuất bản=[[Sony]] |ngày tháng=April 26, 2010 |ngày truy cập=August 7, 2012}}</ref> Cô trình bày trong quảng cáo trò chơi điện tử [[Band Hero]], cùng [[Rivers Cuomo]], [[Pete Wentz]] và [[Travis Barker]] trong ban nhạc hỗ trợ.<ref>{{Chú thích web |họ 1=Vena |tên 1=Jocelyn |url=http://www.mtv.com/news/articles/1617571/taylor-swift-shares-her-rock-star-life-band-hero.jhtml |tiêu đề=Taylor Swift Shares Her Rock-Star Life In 'Band Hero' |nhà xuất bản=MTV |ngày tháng=August 4, 2009 |ngày truy cập=August 7, 2012}}</ref><ref>{{Chú thích web|url = http://www.people.com/people/article/0,,20315749,00.html|tiêu đề = Photo: Taylor Swift Rocks Out for Band Hero|ngày tháng = October 27, 2009|website = People|họ 1 = Garcia|tên 1 = Jennifer|ngày truy cập=August 11, 2016}}</ref> Trong kỷ nguyên ''Speak Now'', cô phát hành một phiên bản đặc biệt của album này thông qua [[Target Corporation|Target]].<ref>{{cite news |url=http://www.bizjournals.com/twincities/stories/2010/09/13/daily35.html |archiveurl=http://wayback.archive.org/web/20160304040654/http://www.bizjournals.com/twincities/stories/2010/09/13/daily35.html |archivedate=March 4, 2016 |title=Target lands Taylor Swift exclusive – Minneapolis / St. Paul Business Journal |work=The Business Journals |accessdate=August 7, 2012}}</ref> Swift trở thành đại sứ của nhãn hàng [[CoverGirl]],<ref>{{Chú thích web |họ 1=Bratskeir|tên 1=Anne|url = http://www.newsday.com/lifestyle/fashion-and-shopping/shop-talk-1.811931/taylor-swift-a-new-covergirl-1.1893202?qr=1|tiêu đề = Taylor Swift, a new CoverGirl|work = [[Newsday]]|ngày tháng = May 3, 2010|ngày truy cập = August 7, 2012|url lưu trữ = https://web.archive.org/web/20141028020139/http://www.newsday.com/lifestyle/fashion-and-shopping/shop-talk-1.811931/taylor-swift-a-new-covergirl-1.1893202?qr=1|ngày lưu trữ = October 28, 2014}}</ref> ra mắt hai nhãn hiệu nước hoa [[Elizabeth Arden#Elizabeth Arden today|Elizabeth Arden]], [[Wonderstruck (nước hoa)|''Wonderstruck'']] và ''Wonderstruck Enchanted''.<ref>{{cite news|last=Nika |first=Colleen |url=http://www.rollingstone.com/culture/news/taylor-swift-to-launch-second-fragrance-wonderstruck-enchanted-20120703 |title=Taylor Swift to Launch Second Fragrance, 'Wonderstruck Enchanted' |work=Rolling Stone |date=July 3, 2012 |accessdate=December 3, 2015}}</ref>
Trong khi quảng bá album đầu tay, Taylor là gương mặt của chiến dịch Mobile Music do hãng [[Verizon Wireless]] tổ chức.<ref>{{Chú thích web |url =http://www.gactv.com/gac/nw_headlines/article/0,,GAC_26063_5677660,00.html|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20131221003110/http://www.gactv.com/gac/nw_headlines/article/0,,GAC_26063_5677660,00.html|ngày lưu trữ=December 21, 2013|tiêu đề = Taylor Swift at Top for Fourth Week|nhà xuất bản = Great American Country|ngày tháng = August 20, 2007|ngày truy cập = July 3, 2012}}</ref> Trong kỷ nguyên ''Fearless'', cô quảng cáo loại đầm dây cho hãng L.e.i. tại [[Wal-Mart]],<ref>{{cite news|url=http://www.wwd.com/markets-news/ready-to-wear-sportswear/taylor-swift-does-dresses-1955844 |title=Taylor Swift Launches Sundress Line – Ready-to-Wear and Sportswear – Media |work=[[Women's Wear Daily]] |date=January 29, 2009 |accessdate=August 7, 2012}}</ref> thiết kế thiệp [[American Greetings]] và búp bê [[Jakks Pacific]].<ref>{{cite news |url=http://www.usatoday.com/life/people/2009-11-18-swift-greeting-cards_N.htm |title=Taylor Swift to have greeting card line |work=USA Today |date=November 18, 2009 |accessdate=August 7, 2012}}</ref><ref>{{Chú thích web |tên 1=Gina |họ 1=Serpe |url=http://www.eonline.com/uberblog/b66141_taylor_swift_gets_all_dolled_up.html |tiêu đề=Taylor Swift Gets All Dolled Up |nhà xuất bản=E! |ngày tháng=October 29, 2008 |ngày truy cập=September 20, 2010}}</ref> Cô là đại sứ cho nhãn hàng [[Nashville Predators]] của NHL và máy chụp ảnh kỹ thuật số [[Cyber-shot|Sony Cyber-shot]].<ref>{{Chú thích web|url=http://nhl.fanhouse.com/2009/02/03/taylor-swift-is-the-newest-nhl-celebrity-spokesperson/ |tiêu đề=Taylor Swift: NHL's New Spokesperson |nhà xuất bản=AOL|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20090207070135/http://nhl.fanhouse.com/2009/02/03/taylor-swift-is-the-newest-nhl-celebrity-spokesperson|ngày lưu trữ=February 7, 2009 |ngày tháng=February 3, 2009 |ngày truy cập=September 20, 2010}}</ref><ref>{{Chú thích web |url=https://news.sel.sony.com/en/press_room/consumer/digital_imaging/digital_cameras/cyber-shot/archive/57135.html?archive=1 |tiêu đề=Sony Electronics News and Information |nhà xuất bản=[[Sony]] |ngày tháng=April 26, 2010 |ngày truy cập=August 7, 2012}}</ref> Cô trình bày trong quảng cáo trò chơi điện tử [[Band Hero]], cùng [[Rivers Cuomo]], [[Pete Wentz]] và [[Travis Barker]] trong ban nhạc hỗ trợ.<ref>{{Chú thích web |họ 1=Vena |tên 1=Jocelyn |url=http://www.mtv.com/news/articles/1617571/taylor-swift-shares-her-rock-star-life-band-hero.jhtml |tiêu đề=Taylor Swift Shares Her Rock-Star Life In 'Band Hero' |nhà xuất bản=MTV |ngày tháng=August 4, 2009 |ngày truy cập=August 7, 2012}}</ref><ref>{{Chú thích web|url = http://www.people.com/people/article/0,,20315749,00.html|tiêu đề = Photo: Taylor Swift Rocks Out for Band Hero|ngày tháng = October 27, 2009|website = People|họ 1 = Garcia|tên 1 = Jennifer|ngày truy cập=August 11, 2016}}</ref> Trong kỷ nguyên ''Speak Now'', cô phát hành một phiên bản đặc biệt của album này thông qua [[Target Corporation|Target]].<ref>{{cite news |url=http://www.bizjournals.com/twincities/stories/2010/09/13/daily35.html |archiveurl=http://wayback.archive.org/web/20160304040654/http://www.bizjournals.com/twincities/stories/2010/09/13/daily35.html |archivedate=March 4, 2016 |title=Target lands Taylor Swift exclusive – Minneapolis / St. Paul Business Journal |work=The Business Journals |accessdate=August 7, 2012}}</ref> Taylor trở thành đại sứ của nhãn hàng [[CoverGirl]],<ref>{{Chú thích web |họ 1=Bratskeir|tên 1=Anne|url = http://www.newsday.com/lifestyle/fashion-and-shopping/shop-talk-1.811931/taylor-swift-a-new-covergirl-1.1893202?qr=1|tiêu đề = Taylor Swift, a new CoverGirl|work = [[Newsday]]|ngày tháng = May 3, 2010|ngày truy cập = August 7, 2012|url lưu trữ = https://web.archive.org/web/20141028020139/http://www.newsday.com/lifestyle/fashion-and-shopping/shop-talk-1.811931/taylor-swift-a-new-covergirl-1.1893202?qr=1|ngày lưu trữ = October 28, 2014}}</ref> ra mắt hai nhãn hiệu nước hoa [[Elizabeth Arden#Elizabeth Arden today|Elizabeth Arden]], [[Wonderstruck (nước hoa)|''Wonderstruck'']] và ''Wonderstruck Enchanted''.<ref>{{cite news|last=Nika |first=Colleen |url=http://www.rollingstone.com/culture/news/taylor-swift-to-launch-second-fragrance-wonderstruck-enchanted-20120703 |title=Taylor Swift to Launch Second Fragrance, 'Wonderstruck Enchanted' |work=Rolling Stone |date=July 3, 2012 |accessdate=December 3, 2015}}</ref>


Trong khi quảng bá album phòng thu thứ 4 ''Red'', Swift thực hiện quảng bá độc quyền thông qua Target,<ref>{{Chú thích web |url=http://uk.eonline.com/news/344779/first-look-taylor-swift-flies-high-in-new-target-commercial |tiêu đề=First Look Taylor Swift Flies High in New Target Commercial |nhà xuất bản=E! |ngày truy cập=September 14, 2012}}</ref> [[Papa John's Pizza]]<ref name="haruch1">{{cite news|url = http://www.prnewswire.com/news-releases/taylor-swift-plans-tv-appearances-for-1022-launch-of-red-album-paid-song-downloads-top-38-million-in-advance-of-release-174609791.html|title = Taylor Swift Plans TV Appearances For 10/22 Launch Of "Red" Album, Paid Song Downloads Top 3.8 Million In Advance Of Release|date = October 17, 2012|agency = PR Newswire|accessdate=August 2, 2016}}</ref> và [[Walgreens]].<ref>{{Chú thích web |họ 1=Hampp |tên 1=Andrew |url=http://www.billboard.com/biz/articles/news/branding/1083475/taylor-swift-teams-with-walgreens-for-exclusive-store-to-promote |tiêu đề=Taylor Swift Teams With Walgreens For Exclusive Store To Promote 'Red' |work=Billboard |ngày tháng=October 9, 2012 |ngày truy cập=October 23, 2012}}</ref> Cô là đại diện cho nhãn hàng [[Diet Coke]] và giày thể thao [[Keds (giày)|Keds]],<ref>{{Chú thích web|url=http://adage.com/article/news/diet-coke-signs-taylor-swift-brand-ambassador/239418/ |tiêu đề=Diet Coke Signs Taylor Swift As Brand Ambassador |work=[[Advertising Age]] |ngày tháng=January 25, 2013 |ngày truy cập=November 10, 2015}}</ref> ra mắt dòng nước hoa Elizabeth Arden thứ 3 mang tên ''Taylor by Taylor Swift'',<ref>{{Chú thích web|họ 1=DelliCarpini Jr.|tên 1=Gregory|url=http://www.billboard.com/articles/columns/the-hook/1565046/taylor-swift-reveals-third-fragrance-taylor-by-taylor-swift |tiêu đề=Taylor Swift Reveals Third Fragrance: Taylor by Taylor Swift |work=Billboard |ngày tháng=May 29, 2013 |ngày truy cập=December 3, 2015}}</ref> và tiếp tục hợp tác cùng Sony Electronics và American Greetings.<ref>{{Chú thích web|họ 1=Sciarretto|tên 1=Amy|url=http://tasteofcountry.com/taylor-swift-sony-camera-commercial/ |tiêu đề=Taylor Swift Is Photogenic in Sony Camera Commercial |nhà xuất bản=Taste Of Country |ngày tháng=December 24, 2012 |ngày truy cập=December 3, 2015}}</ref><ref>{{cite news|url=http://www.prnewswire.com/news-releases/american-greetings-sends-taylor-swift-greeting-card-mobile-app-abroad-225014942.html |title=American Greetings Sends Taylor Swift Greeting Card Mobile App Abroad |agency=PR Newswire |date=September 24, 2013 |accessdate=December 3, 2015}}</ref> Swift cũng hợp tác với [[AirAsia]]<ref>{{Chú thích web|url=http://www.pharpartnerships.com/airasia-unveiled-as-the-official-airline-of-taylor-swifts-red-tour-throughout-south-east-asia/|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20160116064914/http://www.pharpartnerships.com/airasia-unveiled-as-the-official-airline-of-taylor-swifts-red-tour-throughout-south-east-asia/|ngày lưu trữ=January 16, 2016 |tiêu đề=AirAsia unveiled as the official airline of Taylor Swift's Red Tour throughout South East Asia |nhà xuất bản=PHAR Partnerships |ngày tháng=June 17, 2014 |họ 1=Corosu|tên 1=Irene|ngày truy cập=December 3, 2015}}</ref> và [[Qantas]]<ref>{{Chú thích web|url=http://www.qantasnewsroom.com.au/media-releases/qantas-named-exclusive-official-airline-for-australia-and-new-zealand-leg-of-taylor-swifts-the-red-tour/ |tiêu đề=Qantas named exclusive official airline for Australia and New Zealand leg of Taylor Swift's The Red Tour |nhà xuất bản=[[Qantas]] |ngày tháng=August 21, 2013 |ngày truy cập=December 3, 2015}}</ref> trong vai trò hãng hàng không chính thức trong chặng lưu diễn Red Tour tại Úc và châu Á, trong khi [[Cornetto (kem)|Cornetto]] quảng bá cô trong chặng lưu diễn tại châu Á.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.campaignasia.com/BlogEntry/383987,Taylor+Swift+melts+Cornettos+brand+image+in+Asia.aspx |tiêu đề=Taylor Swift melts Cornetto's brand image in Asia |nhà xuất bản=Campaign Asia |họ 1=Reed|tên 1=Chris|ngày tháng=November 25, 2015 |ngày truy cập=December 3, 2015}}</ref> Trong lúc quảng bá ''1989'', Swift xuất hiện trong nhiều quảng cáo của Subway, Keds, Target và Diet Coke.<ref>{{Chú thích web |url=http://www.billboard.com/articles/columns/pop-shop/6266355/meet-taylor-swift-subway-campaign |tiêu đề=Taylor Swift |work=Billboard |ngày truy cập=November 20, 2014}}</ref> Vào năm 2014, Swift phát hành nhãn hiệu nước hoa thứ 4 ''Incredible Things''.<ref>{{Chú thích web|họ 1=Mychaskiw|tên 1=Marianne|url=http://news.instyle.com/2014/10/01/taylor-swift-fragrance-incredible-things/ |tiêu đề=Taylor Swift Is Launching Her Fourth Fragrance! |work=[[InStyle]] |ngày tháng=October 1, 2014 |ngày truy cập=December 3, 2015}}</ref>
Trong khi quảng bá album phòng thu thứ 4 ''Red'', Taylor thực hiện quảng bá độc quyền thông qua Target,<ref>{{Chú thích web |url=http://uk.eonline.com/news/344779/first-look-taylor-swift-flies-high-in-new-target-commercial |tiêu đề=First Look Taylor Swift Flies High in New Target Commercial |nhà xuất bản=E! |ngày truy cập=September 14, 2012}}</ref> [[Papa John's Pizza]]<ref name="haruch1">{{cite news|url = http://www.prnewswire.com/news-releases/taylor-swift-plans-tv-appearances-for-1022-launch-of-red-album-paid-song-downloads-top-38-million-in-advance-of-release-174609791.html|title = Taylor Swift Plans TV Appearances For 10/22 Launch Of "Red" Album, Paid Song Downloads Top 3.8 Million In Advance Of Release|date = October 17, 2012|agency = PR Newswire|accessdate=August 2, 2016}}</ref> và [[Walgreens]].<ref>{{Chú thích web |họ 1=Hampp |tên 1=Andrew |url=http://www.billboard.com/biz/articles/news/branding/1083475/taylor-swift-teams-with-walgreens-for-exclusive-store-to-promote |tiêu đề=Taylor Swift Teams With Walgreens For Exclusive Store To Promote 'Red' |work=Billboard |ngày tháng=October 9, 2012 |ngày truy cập=October 23, 2012}}</ref> Cô là đại diện cho nhãn hàng [[Diet Coke]] và giày thể thao [[Keds (giày)|Keds]],<ref>{{Chú thích web|url=http://adage.com/article/news/diet-coke-signs-taylor-swift-brand-ambassador/239418/ |tiêu đề=Diet Coke Signs Taylor Swift As Brand Ambassador |work=[[Advertising Age]] |ngày tháng=January 25, 2013 |ngày truy cập=November 10, 2015}}</ref> ra mắt dòng nước hoa Elizabeth Arden thứ 3 mang tên ''Taylor by Taylor Swift'',<ref>{{Chú thích web|họ 1=DelliCarpini Jr.|tên 1=Gregory|url=http://www.billboard.com/articles/columns/the-hook/1565046/taylor-swift-reveals-third-fragrance-taylor-by-taylor-swift |tiêu đề=Taylor Swift Reveals Third Fragrance: Taylor by Taylor Swift |work=Billboard |ngày tháng=May 29, 2013 |ngày truy cập=December 3, 2015}}</ref> và tiếp tục hợp tác cùng Sony Electronics và American Greetings.<ref>{{Chú thích web|họ 1=Sciarretto|tên 1=Amy|url=http://tasteofcountry.com/taylor-swift-sony-camera-commercial/ |tiêu đề=Taylor Swift Is Photogenic in Sony Camera Commercial |nhà xuất bản=Taste Of Country |ngày tháng=December 24, 2012 |ngày truy cập=December 3, 2015}}</ref><ref>{{cite news|url=http://www.prnewswire.com/news-releases/american-greetings-sends-taylor-swift-greeting-card-mobile-app-abroad-225014942.html |title=American Greetings Sends Taylor Swift Greeting Card Mobile App Abroad |agency=PR Newswire |date=September 24, 2013 |accessdate=December 3, 2015}}</ref> Taylor cũng hợp tác với [[AirAsia]]<ref>{{Chú thích web|url=http://www.pharpartnerships.com/airasia-unveiled-as-the-official-airline-of-taylor-swifts-red-tour-throughout-south-east-asia/|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20160116064914/http://www.pharpartnerships.com/airasia-unveiled-as-the-official-airline-of-taylor-swifts-red-tour-throughout-south-east-asia/|ngày lưu trữ=January 16, 2016 |tiêu đề=AirAsia unveiled as the official airline of Taylor Swift's Red Tour throughout South East Asia |nhà xuất bản=PHAR Partnerships |ngày tháng=June 17, 2014 |họ 1=Corosu|tên 1=Irene|ngày truy cập=December 3, 2015}}</ref> và [[Qantas]]<ref>{{Chú thích web|url=http://www.qantasnewsroom.com.au/media-releases/qantas-named-exclusive-official-airline-for-australia-and-new-zealand-leg-of-taylor-swifts-the-red-tour/ |tiêu đề=Qantas named exclusive official airline for Australia and New Zealand leg of Taylor Swift's The Red Tour |nhà xuất bản=[[Qantas]] |ngày tháng=August 21, 2013 |ngày truy cập=December 3, 2015}}</ref> trong vai trò hãng hàng không chính thức trong chặng lưu diễn Red Tour tại Úc và châu Á, trong khi [[Cornetto (kem)|Cornetto]] quảng bá cô trong chặng lưu diễn tại châu Á.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.campaignasia.com/BlogEntry/383987,Taylor+Swift+melts+Cornettos+brand+image+in+Asia.aspx |tiêu đề=Taylor Swift melts Cornetto's brand image in Asia |nhà xuất bản=Campaign Asia |họ 1=Reed|tên 1=Chris|ngày tháng=November 25, 2015 |ngày truy cập=December 3, 2015}}</ref> Trong lúc quảng bá ''1989'', Taylor xuất hiện trong nhiều quảng cáo của Subway, Keds, Target và Diet Coke.<ref>{{Chú thích web |url=http://www.billboard.com/articles/columns/pop-shop/6266355/meet-taylor-swift-subway-campaign |tiêu đề=Taylor Swift |work=Billboard |ngày truy cập=November 20, 2014}}</ref> Vào năm 2014, Taylor phát hành nhãn hiệu nước hoa thứ 4 ''Incredible Things''.<ref>{{Chú thích web|họ 1=Mychaskiw|tên 1=Marianne|url=http://news.instyle.com/2014/10/01/taylor-swift-fragrance-incredible-things/ |tiêu đề=Taylor Swift Is Launching Her Fourth Fragrance! |work=[[InStyle]] |ngày tháng=October 1, 2014 |ngày truy cập=December 3, 2015}}</ref>


==Giải thưởng và thành tựu==
==Giải thưởng và thành tựu==
{{Main|Danh sách giải thưởng và đề cử của Taylor Swift}}
{{Main|Danh sách giải thưởng và đề cử của Taylor Swift}}
[[Tập tin:Taylor Swift Speak Now Tour 2011 4.jpg|thumb|upright|Swift trình diễn trong [[Speak Now World Tour]] tại [[Heinz Field, Pittsburgh]] năm 2011]]
[[Tập tin:Taylor Swift Speak Now Tour 2011 4.jpg|thumb|upright|Taylor trình diễn trong [[Speak Now World Tour]] tại [[Heinz Field, Pittsburgh]] năm 2011]]
Trong xuyên suốt sự nghiệp, Swift đã giành 10 [[giải Grammy]],<ref>{{Chú thích web|tiêu đề=Taylor Swift|url=http://www.grammy.com/artist/taylor-swift|nhà xuất bản=[[Viện hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Thu âm Quốc gia]]|ngày truy cập=August 3, 2016}}</ref> 29 [[giải thưởng Âm nhạc Mỹ]],<ref>{{Chú thích web | url=http://taylorswift.com/news/263633 | tiêu đề=Winners of 3 American Music Awards | nhà xuất bản=taylorswift.com | ngày tháng=November 22, 2015 | ngày truy cập=August 3, 2016}}</ref> 23 [[Billboard Music Award|giải thưởng Âm nhạc ''Billboard'']] (nghệ sĩ giành nhiều giải nhất),<ref>{{Cite news |url=http://www.billboard.com/articles/news/bbma/7386047/top-billboard-music-award-winners-all-time-1990-2016 |title=Top Billboard Music Award Winners of All Time (1990-2016) |last=Caulfield |first=Keith |date=May 31, 2016 |work=Billboard |access-date=May 1, 2017}}</ref> 11 giải [[Country Music Association Awards|Hiệp hội nhạc đồng quê]], 8 giải [[Academy of Country Music Awards|Viện hàn lâm nhạc Đồng quê]]<ref>{{Chú thích web|tiêu đề=Taylor Swift Nashville Tickets|url=http://www.excite.com/events/concert-tickets/Taylor-Swift/Taylor-Swift-Nashville-TN/index.php|nhà xuất bản=[[Excite]]|ngày truy cập=February 2, 2015}}</ref> 1 [[giải Brit]]<ref name="Jonze" /> và 1 [[giải Emmy]].<ref>{{cite news|last1=Friedlander|first1=Whitney|title=Taylor Swift, Jimmy Fallon Among Juried Emmy Award Winners|url=http://variety.com/2015/tv/news/taylor-swift-jimmy-fallon-chris-hardwick-emmy-winners-1201589918/|accessdate=August 3, 2016|work=Variety|date=September 10, 2015}}</ref> Ở vai trò nhạc sĩ, cô từng 7 lần được vinh danh là "Nhạc sĩ/ca sĩ của năm" bởi [[Nashville Songwriters Association International|Hiệp hội tác giả Nashville]]<ref name=":2">{{Chú thích web|url=http://www.gactv.com/gac/nw_headlines/article/0,,GAC_26063_5723533,00.html|tiêu đề=Taylor Swift Youngest Winner of Songwriter/Artist Award|ngày tháng=October 16, 2007|nhà xuất bản=Great American Country|ngày truy cập=February 2, 2015|url lưu trữ=http://archive.is/9GbHc|ngày lưu trữ=March 17, 2015}}</ref><ref>{{Chú thích web|ngày tháng=October 18, 2010|họ 1=Shelburne|tên 1=Craig|url=http://www.cmt.com/news/country-music/1650268/taylor-swift-named-nsais-songwriter-artist-of-the-year.jhtml |tiêu đề=Taylor Swift Named NSAI's Songwriter-Artist of the Year|nhà xuất bản=CMT|ngày truy cập=February 2, 2015}}</ref> và xuất hiện trong [[Đại sảnh Danh vọng Sáng tác]].<ref>{{Chú thích web|url=http://www.songwritershalloffame.org/ceremony/entry/C6029/207943|tiêu đề=Songwriters Hall of Fame|nhà xuất bản=Songwriters Hall of Fame|ngày truy cập=February 2, 2015}}</ref>
Trong xuyên suốt sự nghiệp, Taylor đã giành 10 [[giải Grammy]],<ref>{{Chú thích web|tiêu đề=Taylor Swift|url=http://www.grammy.com/artist/taylor-swift|nhà xuất bản=[[Viện hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Thu âm Quốc gia]]|ngày truy cập=August 3, 2016}}</ref> 29 [[giải thưởng Âm nhạc Mỹ]],<ref>{{Chú thích web | url=http://taylorswift.com/news/263633 | tiêu đề=Winners of 3 American Music Awards | nhà xuất bản=taylorswift.com | ngày tháng=November 22, 2015 | ngày truy cập=August 3, 2016}}</ref> 23 [[Billboard Music Award|giải thưởng Âm nhạc ''Billboard'']] (nghệ sĩ giành nhiều giải nhất),<ref>{{Cite news |url=http://www.billboard.com/articles/news/bbma/7386047/top-billboard-music-award-winners-all-time-1990-2016 |title=Top Billboard Music Award Winners of All Time (1990-2016) |last=Caulfield |first=Keith |date=May 31, 2016 |work=Billboard |access-date=May 1, 2017}}</ref> 11 giải [[Country Music Association Awards|Hiệp hội nhạc đồng quê]], 8 giải [[Academy of Country Music Awards|Viện hàn lâm nhạc Đồng quê]]<ref>{{Chú thích web|tiêu đề=Taylor Swift Nashville Tickets|url=http://www.excite.com/events/concert-tickets/Taylor-Swift/Taylor-Swift-Nashville-TN/index.php|nhà xuất bản=[[Excite]]|ngày truy cập=February 2, 2015}}</ref> 1 [[giải Brit]]<ref name="Jonze" /> và 1 [[giải Emmy]].<ref>{{cite news|last1=Friedlander|first1=Whitney|title=Taylor Swift, Jimmy Fallon Among Juried Emmy Award Winners|url=http://variety.com/2015/tv/news/taylor-swift-jimmy-fallon-chris-hardwick-emmy-winners-1201589918/|accessdate=August 3, 2016|work=Variety|date=September 10, 2015}}</ref> Ở vai trò nhạc sĩ, cô từng 7 lần được vinh danh là "Nhạc sĩ/ca sĩ của năm" bởi [[Nashville Songwriters Association International|Hiệp hội tác giả Nashville]]<ref name=":2">{{Chú thích web|url=http://www.gactv.com/gac/nw_headlines/article/0,,GAC_26063_5723533,00.html|tiêu đề=Taylor Swift Youngest Winner of Songwriter/Artist Award|ngày tháng=October 16, 2007|nhà xuất bản=Great American Country|ngày truy cập=February 2, 2015|url lưu trữ=http://archive.is/9GbHc|ngày lưu trữ=March 17, 2015}}</ref><ref>{{Chú thích web|ngày tháng=October 18, 2010|họ 1=Shelburne|tên 1=Craig|url=http://www.cmt.com/news/country-music/1650268/taylor-swift-named-nsais-songwriter-artist-of-the-year.jhtml |tiêu đề=Taylor Swift Named NSAI's Songwriter-Artist of the Year|nhà xuất bản=CMT|ngày truy cập=February 2, 2015}}</ref> và xuất hiện trong [[Đại sảnh Danh vọng Sáng tác]].<ref>{{Chú thích web|url=http://www.songwritershalloffame.org/ceremony/entry/C6029/207943|tiêu đề=Songwriters Hall of Fame|nhà xuất bản=Songwriters Hall of Fame|ngày truy cập=February 2, 2015}}</ref>


Đến đầu năm 2016, Swift đã bán hơn 40 triệu album, 130 triệu đĩa đơn kỹ thuật số và là một trong 5 nghệ sĩ âm nhạc có lượng đĩa kỹ thuật số lớn nhất thế giới.<ref name="best selling artist 2014 IFPI"/> Tại Hoa Kỳ, mỗi album phòng thu của Swift đều vượt 4 triệu bản: ''Taylor Swift'' (5,5 triệu), ''Fearless'' (7,0 triệu),<ref>{{Chú thích web|url=http://www.billboard.com/articles/columns/chart-beat/6820858/billboard-200-chart-moves-taylor-swift-fearless-surpasses-7-million|ngày tháng=December 23, 2015|họ 1=Caulfield|tên 1=Keith|tiêu đề=Taylor Swift's 'Fearless' Surpasses 7 Million Sold in U.S.: Billboard 200 Chart Moves|work=Billboard|ngày truy cập=August 2, 2016}}</ref> ''Speak Now'' (4,5 triệu), ''Red'' (4,1 triệu), ''1989'' (6,11 triệu) <ref>{{cite news |url=http://www.billboard.com/articles/news/grammys/6867207/taylor-swift-1989-grammy-album-of-the-year-spotlight |title=Taylor Swift's '1989': Grammy Album of the Year Spotlight |last=Partridge |first=Kenneth |work=Billboard |date=February 11, 2016 |accessdate=February 17, 2016}}</ref>.Ngày 8 tháng 6 năm 2017, Swift vượt mốc 100 triệu đĩa chứng nhận của [[Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Hoa Kỳ]].<ref>{{cite news |url=http://www.billboard.com/articles/news/7825472/taylor-swift-100-million-singles-sold|title=Taylor Swift Passes RIAA 100 Million Songs Certification|last= Cirisano|first=Tatiana |work=Billboard |date=June 8, 2017 |accessdate=June 8, 2017}}</ref> Cô ấy là nghệ sĩ bán chạy đĩa kỹ thuật số thứ ba ở Hoa Kỳ với tổng số 106,5 triệu đơn vị chứng nhận theo Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Hoa Kỳ (Recording Industry Association of America)
Đến đầu năm 2016, Taylor đã bán hơn 40 triệu album, 130 triệu đĩa đơn kỹ thuật số và là một trong 5 nghệ sĩ âm nhạc có lượng đĩa kỹ thuật số lớn nhất thế giới.<ref name="best selling artist 2014 IFPI"/> Tại Hoa Kỳ, mỗi album phòng thu của Taylor đều vượt 4 triệu bản: ''Taylor Swift'' (5,5 triệu), ''Fearless'' (7,0 triệu),<ref>{{Chú thích web|url=http://www.billboard.com/articles/columns/chart-beat/6820858/billboard-200-chart-moves-taylor-swift-fearless-surpasses-7-million|ngày tháng=December 23, 2015|họ 1=Caulfield|tên 1=Keith|tiêu đề=Taylor Swift's 'Fearless' Surpasses 7 Million Sold in U.S.: Billboard 200 Chart Moves|work=Billboard|ngày truy cập=August 2, 2016}}</ref> ''Speak Now'' (4,5 triệu), ''Red'' (4,1 triệu), ''1989'' (6,11 triệu) <ref>{{cite news |url=http://www.billboard.com/articles/news/grammys/6867207/taylor-swift-1989-grammy-album-of-the-year-spotlight |title=Taylor Swift's '1989': Grammy Album of the Year Spotlight |last=Partridge |first=Kenneth |work=Billboard |date=February 11, 2016 |accessdate=February 17, 2016}}</ref>.Ngày 8 tháng 6 năm 2017, Taylor vượt mốc 100 triệu đĩa chứng nhận của [[Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Hoa Kỳ]].<ref>{{cite news |url=http://www.billboard.com/articles/news/7825472/taylor-swift-100-million-singles-sold|title=Taylor Swift Passes RIAA 100 Million Songs Certification|last= Cirisano|first=Tatiana |work=Billboard |date=June 8, 2017 |accessdate=June 8, 2017}}</ref> Cô ấy là nghệ sĩ bán chạy đĩa kỹ thuật số thứ ba ở Hoa Kỳ với tổng số 106,5 triệu đơn vị chứng nhận theo Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Hoa Kỳ (Recording Industry Association of America)


== Danh sách đĩa nhạc ==
== Danh sách đĩa nhạc ==

Phiên bản lúc 09:09, ngày 27 tháng 1 năm 2020

Taylor Swift
Taylor Swift trên thảm đỏ của lễ trao giải iHeartRadio Music Awards năm 2019.
SinhTaylor Alison Swift
13 tháng 12, 1989 (34 tuổi)
Reading, Pennsylvania, Hoa Kỳ
Quốc tịch Hoa Kỳ
Nghề nghiệp
Năm hoạt động2004-nay
Tài sản360 triệu đô-la Mỹ (ước tính năm 2019)
Chiều cao178 cm (5 ft 10 in)
Cha mẹ
  • Scott Swift (cha)
  • Andrea Swift (mẹ)
Sự nghiệp âm nhạc
Thể loại
Nhạc cụ
Năm hoạt động2004–nay
Hãng đĩa
Websitetaylorswift.com
Chữ ký
Chữ ký của Taylor Swift

Taylor Alison Swift (sinh ngày 13 tháng 12 năm 1989) là nữ ca sĩ kiêm sáng tác nhạc người Mỹ. Sinh ra và lớn lên tại Wyomissing, Pennsylvania, cô dời đến Nashville năm 14 tuổi để theo đuổi sự nghiệp âm nhạc đồng quê. Cô ký kết một hợp đồng cùng hãng thu âm độc lập Big Machine Records và trở thành nhạc sĩ trẻ tuổi nhất từng hợp tác với Sony/ATV Music Publishing. Vào năm 2006, Taylor phát hành album đầu tay cùng tên với đĩa đơn "Our Song" giúp cô là nghệ sĩ tự sáng tác trẻ tuổi nhất có bài hát đạt quán quân bảng xếp hạng Hot Country Songs. Album thứ hai của Taylor là Fearless đã được ra mắt năm 2008.

Album phòng thu thứ hai của Taylor, Fearless (2008), mang về thành công cùng các đĩa đơn "Love Story" và "You Belong with Me", trở thành album bán chạy nhất năm 2009 tại Hoa Kỳ. Fearless giành 4 giải Grammy và giúp Taylor là nghệ sĩ trẻ nhất đoạt giải "Album của năm" (Sau này là Billie Ellish với when we all fall asleep, where do we go?). Cô tự sáng tác toàn bộ các bài hát trong album Speak Now (2010) và phát hành Red (2012) cùng hai đĩa đơn đạt thành công trên toàn cầu, "We Are Never Ever Getting Back Together" và "I Knew You Were Trouble". Album phòng thu thứ 5, 1989 (2014) mang thể loại pop chủ đạo, giúp Taylor trở thành nghệ sĩ đầu tiên có 3 album bán hơn 1 triệu bản trong tuần đầu và lần thứ 2 đoạt giải Grammy cho "Album của năm". Các đĩa đơn "Shake It Off", "Blank Space" và "Bad Blood" đều dẫn đầu Billboard Hot 100. Chuyến lưu diễn cùng tên năm 2015 lọt vào danh sách doanh thu cao nhất thập niên. Ngày 27 tháng 8 năm 2017, MV "Look What You Made Me Do" đã trở thành video ca nhạc có lượt xem trong ngày đầu phát hành cao nhất thế giới vào thời điểm bấy giờ với 43.2 triệu lượt xem. Vào ngày 26 tháng 4 năm 2019, MV "ME!" trở thành MV có lượt xem cao nhất thế giới trong ngày đầu phát hành đối với một nữ nghệ sĩ và một nghệ sĩ solo với 65,2 triệu lượt xem.

Taylor nổi tiếng vì những bài hát tường thuật lại trải nghiệm cá nhân, thu hút nhiều sự quan tâm của công chúng. Ở vai trò nhạc sĩ, cô từng được vinh danh bởi Hiệp hội tác giả NashvilleĐại sảnh Danh vọng Sáng tác. Các thành tựu khác của Taylor bao gồm 10 giải Grammy, 6 kỷ lục Guinness thế giới, 1 giải Emmy, 23 giải thưởng Âm nhạc Billboard, 11 giải thưởng Hiệp hội nhạc đồng quê, 8 giải Viện hàn lâm nhạc Đồng quê và 1 giải Brit. Cô là một trong những nghệ sĩ bán đĩa chạy nhất mọi thời đại, với hơn 40 triệu album—bao gồm 32,7 triệu bản tại Hoa Kỳ—và 130 triệu đĩa đơn kỹ thuật số đã được tiêu thụ. Cô xuất hiện trong danh sách 100 người gây ảnh hưởng nhất thế giới của tạp chí Time (2010 và 2015); những người phụ nữ bội thu trong âm nhạc (2011–15), 100 người phụ nữ quyền lực nhất (2015) và Celebrity 100 (2016) của tạp chí Forbes. Cô còn tham gia trong loạt phim truyền hình CSI: Crime Scene Investigation và chương trình đêm khuya Saturday Night Live trong năm 2009, cùng bộ phim Valentine's Day (2010). Cô có quan hệ mật thiết với Mariska Hargitay (người đóng vai thám tử Olivia Benson trong series yêu thích của Taylor "Law & Order").

Cuộc đời và sự nghiệp

1989–2003: Thời thơ ấu

Taylor Swift sinh ngày 13 tháng 12 năm 1989 tại Reading, Pennsylvania.[1] Cha cô là Scott Kingsley Taylor, làm nghề môi giới chứng khoán và mẹ cô là Andrea Gardner (Finlay) Taylor, làm nội trợ, từng là giám đốc tài chính cho quỹ hỗ trợ.[2] Taylor còn có một người em trai tên là Austin.[3] Taylor có một thời gian sống tại đồn điền cây thông Giáng sinh ở Cumru Township, Pennsylvania.[4] Cô bắt đầu đi nhà trẻ tại Trường Alvernia Montessori do những nữ tu sĩ dòng Fran-xít điều hành,[5] sau đó vào học Trường tư Wyndcroft.[6] Cả gia đình cô sau đó chuyển đến khu ngoại ô Wyomissing, Pennsylvania,[7] nơi cô theo học Trường Trung học Cơ sở/ Phổ thông Vùng Wyomissing.[8]

Năm lên 9, Taylor trở nên thích thú trước sân khấu kịch nghệ và trình bày trong 4 chương trình của Học viện sân khấu Berks Youth.[9] Cô cũng thường xuyên đến thành phố New York để tham gia lớp luyện giọng và diễn xuất.[10] Taylor sau đó bộc lộ đam mê đến dòng nhạc đồng quê bởi những bài hát của Shania Twain cứ khiến cô "muốn chạy nhảy quanh khu phố và mơ mộng về mọi thứ".[11] Cô dành thời gian cuối tuần để trình diễn tại hội chợ địa phương và các sự kiện khác.[12][13] Sau khi xem một đoạn phim tư liệu về Faith Hill, Taylor quyết định đến Nashville, Tennessee để theo đuổi sự nghiệp âm nhạc.[14] Năm 11 tuổi, cô cùng mẹ đến Nashville để gửi băng thu thử đến các hãng thu âm, bao gồm các bản trình diễn karaoke bài hát của Dolly PartonDixie Chicks.[15] Sau khi bị nhiều nơi từ chối, cô nhận ra "mọi người ở đó đều có mục tiêu giống như tôi. Thế nên, tôi tự hỏi chính mình, tôi cần phải nghĩ ra một hướng đi khác biệt".[16]

Khi Taylor 12 tuổi, một người thợ máy tính đã dạy cô chơi 3 hợp âm đàn guitar, giúp cô sáng tác nên bài hát đầu tiên "Lucky You".[17] Vào năm 2003, Taylor và cha mẹ cô bắt đầu hợp tác cùng nhà quản lý âm nhạc Dan Dymtrow. Với sự hỗ trợ của Dymtrow, Taylor làm người mẫu cho hãng Abercrombie & Fitch trong chiến dịch "Rising Stars", có một bài hát gốc xuất hiện trong CD tổng hợp của nhãn hàng Maybelline và tham gia nhiều cuộc họp cùng các hãng thu âm lớn.[18] Sau khi trình bày nhiều bài hát tự sáng tác cho RCA Records, hãng quyết định giữ cô trong một thỏa thuận phát triển nghệ sĩ và Taylor bắt đầu thực hiện nhiều chuyến đi đến Nashville cùng mẹ.[19][20]

Nhằm giúp Taylor thâm nhập vào ngành âm nhạc đồng quê, cha cô chuyển về văn phòng tại Nashville khi cô 14 tuổi và gia đình cô định cư tại một căn nhà bên hồ ở Hendersonville, Tennessee.[21][22] Tại Tennessee, Taylor nhập học tại Trường trung học Hendersonville trong hai năm đầu.[23] Sau đó, cô chuyển về Aaron Academy, một ngôi trường Công giáo cho phép học tại nhà, để cùng lúc dàn xếp lịch lưu diễn. Cô đạt điểm trung bình 4.0 và hoàn tất 2 năm học cuối cấp trong vòng 12 tháng.[24]

2004–08: Khởi nghiệp và Taylor Swift

Tại Nashville, Taylor làm việc cùng những tác giả nhiều kinh nghiệm từ Music Row như Troy Verges, Brett Beavers, Brett James, Mac McAnallyThe Warren Brothers.[25][26] Sau cùng, cô bắt tay với cộng tác viên lâu dài Liz Rose.[27] Cả hai gặp gỡ trong một buổi luyện sáng tác kéo dài 2 tiếng vào mỗi buổi chiều thứ Ba sau giờ học.[28] Rose chia sẻ một vài buổi tập luyện "là điều dễ dàng nhất tôi từng thực hiện. Tôi chỉ là người biên tập lại cho cô ấy. Cô bé viết về những gì diễn ra ở trường mỗi ngày. Cô có một tầm nhìn sáng sủa về những gì mình cố truyền đạt. Và cô ấy nghĩ ra những đoạn hook tuyệt vời." Taylor ký kết với nhà xuất bản Sony/ATV Tree[29] nhưng rời khỏi RCA Records năm 14 tuổi.[13] Taylor nhớ lại: "Tôi cảm thấy như mình sắp hết thời gian. Tôi muốn ghi dấu 3 năm cuộc đời bằng một album trong lúc chúng vẫn còn thể hiện những gì tôi đã trải qua."[30]

Taylor Swift, mặc một chiếc đầm trắng và đeo kính râm, chơi guitar cạnh bục microphone.
Taylor trình diễn tại trụ sở Yahoo!Sunnyvale, California vào năm 2007

Trong một đêm diễn tại Bluebird Cafe, Nashville năm 2005, Taylor thu hút sự chú ý của Scott Borchetta, giám đốc hãng DreamWorks Records, lúc ông chuẩn bị thành lập hãng thu âm độc lập Big Machine Records. Cô trở thành một trong những người đầu tiên ký kết cùng hãng, trong khi cha cô mua lại 3% cổ phần trong công ty còn non trẻ này với giá tiền ước tính 120.000 đô-la Mỹ.[31][32] Taylor bắt đầu thực hiện album cùng tên đầu tay không lâu sau khi ký hợp đồng. Cô thuyết phục hãng Big Machine thuê lại nhà sản xuất các bản thu thử của cô, Nathan Chapman vì cảm thấy cả hai làm việc một cách "ăn ý".[13] Taylor tự sáng tác 3 bài hát trong album, trong đó có 2 đĩa đơn và đồng sáng tác 8 bài hát còn lại cùng Rose, Robert Ellis Orrall, Brian Maher và Angelo Petraglia.[33] Taylor Swift ra mắt ngày 24 tháng 10 năm 2006.[34] Jon Caramanica từ The New York Times mô tả album là "một kiệt tác nhỏ bé của dòng nhạc đồng quê mang hơi hướng pop" cùng chất giọng "rắn chắc và truyền cảm" của Taylor.[35] Tính đến tháng 8 năm 2016, album đã bán hơn 7,75 triệu bản trên toàn cầu.[36]

Hãng Big Machine Records vẫn còn trong giai đoạn hình thành trong lúc phát hành đĩa đơn đầu tay của Taylor, "Tim McGraw" vào tháng 6 năm 2006, lúc cô và mẹ phải giúp "gói CD đĩa đơn vào phong bì để gửi đến trạm phát thanh".[37] Cô dành hầu hết năm 2006 để quảng bá Taylor Swift tại các trạm phát thanh và nhiều chương trình truyền hình.[38][39] Borchetta cho rằng quyết định hợp tác cùng một ca sĩ tự sáng tác mới 16 tuổi ban đầu gây nhiều sự tò mò từ giới thu âm nhưng Taylor lại bước chân vào một thị trường chưa từng được khai thác trước đây: những cô gái thiếu niên thích nghe nhạc đồng quê.[21] Theo sau "Tim McGraw", 4 đĩa đơn khác cũng được phát hành trong năm 2007 và 2008 gồm "Teardrops on My Guitar", "Our Song", "Picture to Burn" và "Should've Said No". Tất cả đều đạt thành công trên bảng xếp hạng Billboard Hot Country Songs, riêng "Our Song" và "Should've Said No" giành được ngôi quán quân. "Our Song" giúp Taylor trở thành người trẻ tuổi nhất có bài hát tự sáng tác vươn đến vị trí số 1 tại bảng xếp hạng này.[40] "Teardrops on My Guitar" trở thành bài hát pop ăn khách; vươn đến vị trí thứ 13 trên Billboard Hot 100.[41] Taylor cũng phát hành một album Giáng sinh, Sounds of the Season: The Taylor Swift Holiday Collection vào tháng 10 năm 2007 và EP Beautiful Eyes vào tháng 7 năm 2008.[42][43] Cô còn quảng bá cho album này tại nhiều buổi hòa nhạc của nghệ sĩ khác.[44]

Taylor Swift mang về cho Taylor nhiều giải thưởng. Cô là một trong hai người nhận giải "Tác giả/Nghệ sĩ của năm" do Hiệp hội nhạc sĩ Nashville trao tặng vào năm 2007, trở thành người trẻ tuổi nhất giành được danh hiệu này.[45] Cô cũng giành giải Kinh nghiệm cho "Nghệ sĩ mới xuất sắc nhất" bởi Hiệp hội Âm nhạc đồng quê,[46] giải "Ca sĩ nữ mới hàng đầu" của Viện Hàn lâm Nhạc đồng quê[47] và "Nữ nghệ sĩ đồng quê được yêu thích" tại giải thưởng Âm nhạc Mỹ.[48] Năm 2008, cô được đề cử giải Grammy cho "Nghệ sĩ mới xuất sắc nhất".[49] Taylor có mối quan hệ ngắn ngủi cùng Joe Jonas từ tháng 7 đến tháng 10 năm 2008.[50][51]

2008–10: Fearless và diễn xuất

Album phòng thu thứ hai của Taylor, Fearless phát hành ngày 11 tháng 11 năm 2008.[34] Đĩa đơn đầu tiên, "Love Story" phát hành vào tháng 9 năm 2008, vươn đến vị trí thứ 4 trên Billboard Hot 100[52] và hạng nhất tại Úc.[53] Có 4 đĩa đơn khác được ra mắt trong năm 2008 và 2009 gồm "White Horse", "You Belong with Me", "Fifteen" và "Fearless". "You Belong with Me" là đĩa đơn xếp hạng cao nhất của album này, chạm đến vị trí thứ 2 trên Billboard Hot 100.[54] Fearless đạt vị trí số 1 trên Billboard 200, trở thành album bán chạy nhất năm 2009 tại Mỹ.[55] Để quảng bá cho album, Taylor thực hiện chuyến lưu diễn đầu tiên mang tên Fearless Tour,[56] thu về 63 triệu đô-la Mỹ.[57] Bộ phim tài liệu lưu diễn Taylor Swift: Journey to Fearless lên sóng truyền hình và được ra mắt trên định dạng DVD và Blu-ray.[58] Ngoài ra, cô cũng trình diễn tại Escape Together World Tour của Keith Urban.[59]

Taylor tại buổi công chiếu Hannah Montana: The Movie vào năm 2009

Tại mùa giải Video âm nhạc của MTV năm 2009, "You Belong with Me" giành giải "Video xuất sắc nhất của nữ ca sĩ".[60] Bài phát biểu nhận giải của cô bị rapper Kanye West cắt ngang.[61] Vụ việc nhận được sự chú ý của giới truyền thông và là hiện tượng lan truyền trên mạng xã hội.[62] James Montgomery của MTV cho rằng chính sự cố này và phản ứng của giới truyền thông biến Taylor trở thành "một người nổi tiếng đầy thiện ý".[63]

Tại giải Grammy lần thứ 52, Fearless thắng giải "Album nhạc đồng quê của năm" và giúp Taylor trở thành nghệ sĩ trẻ tuổi nhất giành giải "Album của năm", trong khi "White Horse" giành thêm 2 giải cho "Bài hát nhạc đồng quê xuất sắc nhất" và "Trình diễn nhạc đồng quê giọng nữ xuất sắc nhất".[64] Trong buổi trao giải, cô trình bày "You Belong with Me" và "Rhiannon" cùng Stevie Nicks. Giọng hát của cô nhận nhiều phản hồi tiêu cực và bị giới truyền thông chỉ trích.[63][65][66] Taylor là nghệ sĩ trẻ nhất đoạt giải Hiệp hội âm nhạc đồng quê cho "Nhà giải trí của năm",[67] trong khi Fearless giành giải "Album của năm".[68] Giải thưởng Âm nhạc Mỹ vinh danh Taylor trong hạng mục "Nghệ sĩ của năm" và "Album đồng quê được yêu thích nhất".[69] Billboard trao cho Taylor giải "Nghệ sĩ của năm" 2009.[70]

Cô xuất hiện trong đĩa đơn "Half of My Heart" cùng John Mayer trong album phòng thu Battle Studies.[71] Cô đồng sáng tác và thu âm "Best Days of Your Life" với Kellie Pickler,[72] trong khi góp giọng trong đĩa đơn "Two Is Better Than One" của Boys Like Girls.[73] Taylor cũng đồng sáng tác hai bài hát nữa cho nhạc phim Hannah Montana: The Movie—"You'll Always Find Your Way Back Home" và "Crazier"—lần lượt với Martin Johnson và Robert Ellis Orrall.[74] Cô đóng góp 2 bài hát—bao gồm "Today Was a Fairytale", đĩa đơn quán quân đầu tiên của cô tại Canadian Hot 100—trong album nhạc phim Valentine's Day.[75][76]

Taylor chuyển sang truyền hình trong một tập phim năm 2009 của CSI: Crime Scene Investigation, vào vai một thiếu niên nổi loạn. The New York Times nhận thấy nhân vật này cho phép cô trở nên "nghịch ngợm đôi chút".[77] Cuối năm đó, cô chủ trì và trình diễn với vai trò khách mời trong một tập Saturday Night Live.[78] Entertainment Weekly gọi cô là "nhà chủ trì tuyệt nhất Saturday Night Live mùa này".[79] Trong lúc ghi hình cho Valentine's Day vào tháng 10 năm 2009—vai diễn điện ảnh đầu tiên của Taylor—cô hẹn hò cùng nam diễn viên Taylor Lautner. Họ chia tay vào cuối năm đó.[80][81] Trong bộ phim hài lãng mạn này, Taylor hóa thân vào một cô bạn gái thiếu niên ngốc nghếch, vai diễn mà Los Angeles Times cảm thấy "có tiềm năng hài hước rất lớn",[82] trong khi tờ Variety lại chỉ trích "diễn xuất hoàn toàn vô hướng" của cô.[83] Cuối năm 2010, cô hẹn hò với Jake Gyllenhaal.[84]

2010–14: Speak NowRed

Tháng 8 năm 2010, Taylor phát hành "Mine", mở đầu tại Hoa Kỳ ở vị trí thứ 3, giúp Taylor là nữ nghệ sĩ thứ hai trong lịch sử Hot 100 (sau Mariah Carey) có nhiều bài hát mở màn top 5 trong cùng một năm, cùng với "Today Was a Fairytale".[85] Bài hát này là đĩa đơn đầu tiên trích từ album phòng thu thứ ba, Speak Now bao gồm toàn bộ bài hát do cô tự sáng tác mà không có đồng tác giả.[86] Album phát hành ngày 25 tháng 10 năm 2010,[34] dẫn đầu Billboard 200 với doanh số mở màn 1 triệu bản, là album thứ 16 làm được điều này.[87] Sau đó, đây là album kỹ thuật số bán chạy nhất bởi một nữ nghệ sĩ với 278.000 lượt tải trong một tuần lễ. Với thành tích này, Taylor góp mặt vào Sách Kỷ lục Guinness Thế giới 2010; cô còn xuất hiện trong quyển sách khi 10 bài hát của Speak Now lọt vào Billboard Hot 100, giúp cô là nữ nghệ sĩ đầu tiên nắm giữ danh hiệu này.[88][89] 3 trong số các đĩa đơn của album—"Mine", "Back to December" và "Mean"—vươn đến top 10 ở Canada.[76]

Tại giải Grammy lần thứ 54, "Mean" mang về cho Taylor giải "Bài hát đồng quê xuất sắc nhất" và "Trình diễn đơn ca đồng quê xuất sắc nhất".[90] Cô cũng trình bày bài hát này trong lễ trao giải,[91] nơi Jayme Deerwester từ USA Today cảm thấy những lời chỉ trích từ năm 2010 dường như đã giúp cô "trở thành một nhạc sĩ và nhà trình diễn tốt hơn".[92] Taylor còn giành nhiều giải thưởng khác cho Speak Now, được vinh danh là "Nhạc sĩ/Nghệ sĩ của năm" bởi Hiệp hội tác giả Nashville (2010 và 2011),[93][94] "Người phụ nữ của năm" bởi Billboard (2011),[95] "Nhà giải trí của năm" bởi Học viện Âm nhạc đồng quê (2011 và 2012)[96] và Hiệp hội Âm nhạc đồng quê (2011).[97] Tại giải thưởng Âm nhạc Mỹ năm 2011, Taylor thắng giải "Nghệ sĩ của năm" và "Album đồng quê được yêu thích nhất".[98]

Taylor trình diễn trong Speak Now World Tour tại Sydney vào năm 2012

Taylor lưu diễn trong Speak Now World Tour từ tháng 2 năm 2011 đến tháng 3 năm 2012, thu về 123 triệu đô-la Mỹ.[99] Album trực tiếp đầu tiên của Taylor, Speak Now World Tour: Live phát hành vào tháng 11 năm 2011.[100] Tháng sau, Taylor đóng góp 2 bài hát cho album nhạc phim The Hunger Games "—"Safe & Sound" và "Eyes Open". "Safe & Sound", do cô đồng sáng tác và thu âm cùng The Civil WarsT-Bone Burnett, giành chiến thắng ở hạng mục "Bài hát sáng tác cho phương tiện truyền thông xuất sắc nhất" tại giải Grammy lần thứ 55[101] và mang về một đề cử giải Quả cầu vàng cho "Ca khúc trong phim hay nhất".[102] Sau khi góp giọng trong đĩa đơn "Both of Us" của B.o.B,[103] Taylor hẹn hò với Conor Kennedy từ tháng 7 đến tháng 9 năm 2012.[104] Tháng 8, Taylor ra mắt "We Are Never Ever Getting Back Together"—đĩa đơn đầu tiên từ album phòng thu thứ tư, Red. Bài hát gặt hái thành công trên toàn cầu, đánh dấu vị trí quán quân đầu tiên của Taylor ở Hoa Kỳ và New Zealand,[105][106] đồng thời đạt hạng nhất trên bảng xếp hạng iTunes chỉ sau 50 phút ra mắt, trở thành "Đĩa đơn bán chạy nhanh nhất lịch sử kỹ thuật số" trong quyển Sách Kỷ lục Guinness Thế giới.[107] Taylor công bố đĩa đơn thứ hai, "Begin Again" vào tháng 10, đạt hạng 7 trên Billboard Hot 100.[108] Các đĩa đơn khác trích từ album bao gồm: "I Knew You Were Trouble", "22", "Everything Has Changed", "The Last Time" và "Red". "I Knew You Were Trouble" cũng là một thành công,[109] khi vươn đến hạng hai ở Hoa Kỳ.[108]

Red phát hành ngày 22 tháng 10 năm 2012.[34] Album đạt thành công về thương mại lẫn chuyên môn, sáp nhập nhiều thể loại mới, bao gồm heartland rock, dubstepdance-pop.[11] Red mở đầu tại vị trí quán quân Billboard 200 với 1,21 triệu bản, lượng doanh số ở tuần ra mắt cao nhất trong một thập niên, giúp Taylor là nữ nghệ sĩ đầu tiên có hai album bán trên một triệu bản trong tuần lên kệ, một kỷ lục được ghi nhận trong Sách Kỷ lục Guinness Thế giới.[110][111] Để quảng bá cho album, cô thực hiện chuyến lưu diễn The Red Tour, kéo dài từ tháng 3 năm 2013 đến tháng 6 năm 2014, thu về 150 triệu đô-la Mỹ.[112] Red mang về nhiều giải thưởng, bao gồm 4 đề cử tại giải Grammy lần thứ 55.[113] "I Knew You Were Trouble" thắng giải "Video xuất sắc nhất của nữ nghệ sĩ" tại Giải Video âm nhạc của MTV năm 2013.[114] Giải thưởng Âm nhạc Mỹ vinh danh cô là "Nữ nghệ sĩ đồng quê xuất sắc nhất" vào năm 2012 và "Nghệ sĩ của năm" tại lễ trao giải năm 2013.[115][116] Taylor thắng giải "Nhạc sĩ/Nghệ sĩ của năm" của Hiệp hội tác giả Nashville lần thứ 5 và 6 liên tiếp vào năm 2012 và 2013.[117] Hiệp hội còn trao Taylor giải Pinnacle bởi những thành công "độc nhất" của cô, giúp cô trở thành người thứ hai nhận giải sau Garth Brooks.[118]

Trong năm 2013, Taylor đồng sáng tác "Sweeter Than Fiction" cùng Jack Antonoff cho nhạc phim One Chance và giành một đề cử "Bài hát trong phim hay nhất" tại mùa giải Quả cầu vàng lần thứ 71.[119] Cô góp giọng trong bài hát "Highway Don't Care" của Tim McGraw cùng phần guitar của Urban.[120] Taylor trình bày "As Tears Go By" với The Rolling Stones tại Chicago trong chuyến lưu diễn 50 & Counting.[121] Cô còn tham gia cùng Florida Georgia Line trên sân khấu Country Radio Seminar 2013 để trình diễn ca khúc "Cruise".[122] Bên cạnh âm nhạc, Taylor lồng tiếng cho nhân vật Audrey trong The Lorax (2012),[123] xuất hiện trong loạt phim hài kịch tình huống New Girl (2013)[124] và tham gia bộ phim The Giver (2014).[125] Cô có mối quan hệ tình cảm cùng Harry Styles từ tháng 10 năm 2012 đến tháng 1 năm 2013.[126]

2014–2015: 1989

Vào tháng 3 năm 2014, Taylor chuyển đến Thành phố New York.[127] Trong thời gian này, cô thực hiện album phòng thu thứ 5, 1989 với các đồng sự Antonoff, Martin, Shellback, Imogen Heap, Ryan Tedder và Ali Payami.[128] Cô quảng bá album này trong nhiều chiến dịch, bao gồm những buổi nghe album dành cho người hâm mộ, mang tên "1989 Secret Sessions".[129] Được Taylor mô tả là "album mang tư liệu pop chính thức đầu tiên", 1989 đánh dấu sự thay đổi so với những album nhạc đồng quê trước đây.[130] 1989 ra mắt ngày 27 tháng 12 năm 2014 cùng những đánh giá tích cực.[34][131]

Taylor trình diễn trong The 1989 World Tour vào tháng 6 năm 2015

1989 bán được 1.287 triệu bản trong tuần đầu tại Hoa Kỳ và mở màn ở vị trí đầu tiên trên Billboard 200—giúp Taylor là nghệ sĩ đầu tiên có 3 album bán hơn 1 triệu bản trong tuần lên kệ, xuất hiện trong Sách Kỷ lục Guinness Thế giới.[132][133] Tính đến tháng 2 năm 2015, 1989 tiêu thụ hơn 8,6 triệu bản trên toàn cầu.[134] Đĩa đơn đầu tiên, "Shake It Off" phát hành vào tháng 8 năm 2014 và mở đầu tại ngôi quán quân Billboard Hot 100.[135] Các đĩa đơn khác bao gồm "Blank Space" và "Bad Blood" (hợp tác với Kendrick Lamar) cùng giành được ngôi vị cao nhất tại Hoa Kỳ;[136] "Style" và "Wildest Dreams" đạt đến top 10 Billboard Hot 100;[137] "Out of the Woods" và "New Romantics".[138] "Shake It Off", "Blank Space" và "Bad Blood" cũng dẫn đầu tại ÚcCanada.[53][76] Video âm nhạc của "Blank Space" trở thành video đạt 1 tỷ lượt xem nhanh nhất trên hệ thống Vevo.[139] Video âm nhạc của "Bad Blood" thắng giải Grammy cho "Video âm nhạc xuất sắc nhất"[140] và 4 giải Video âm nhạc của MTV năm 2015, bao gồm hạng mục "Video của năm".[141] Từ tháng 5 đến tháng 12 năm 2015, Taylor thực hiện chuyến lưu diễn The 1989 World Tour, thu về 250 triệu đô-la Mỹ và lọt vào danh sách đạt doanh thu cao nhất thập niên.[142]

Vào năm 2014, Taylor là nghệ sĩ đầu tiên 2 lần giành giải "Người phụ nữ của năm" của tạp chí Billboard[143] và được vinh danh giải Dick Clark for Excellence tại Giải thưởng Âm nhạc Mỹ.[144] "Shake It Off" mang về 3 đề cử tại giải Grammy lần thứ 57, trong đó có "Thu âm của năm" và "Bài hát của năm".[145] Tại giải Brit 2015, Taylor thắng giải "Nữ nghệ sĩ quốc tế".[146] Cô cũng là một trong 8 nghệ sĩ được vinh danh Giải cột mốc 50 năm tại Giải thưởng Hàn lâm nhạc Đồng quê 2015.[147] Tại giải Grammy lần thứ 58, Taylor thắng 3 giải cho 1989, trong đó có "Album của năm" và "Album giọng pop xuất sắc nhất". Cô trở thành người phụ nữ đầu tiên—và là người thứ năm trong lịch sử—thắng giải "Album của năm" hai lần.[148]

Đầu năm 2016, công ty cổ phần và quản lý quyền sở hữu trí tuệ của Taylor, TAS Rights Management, công chứng 73 thương hiệu liên quan đến cô và 1989.[149] Trước khi ra mắt 1989, Taylor nhấn mạnh tầm quan trọng của album đến nghệ sĩ và người hâm mộ.[150] Tháng 11 năm 2014, cô thu hồi lại toàn bộ các đĩa nhạc trên hệ thống Spotify, cho rằng dịch vụ streaming miễn phí có quảng cáo của hãng này làm tổn hại đến dịch vụ trả phí, cung cấp hoa hồng cao hơn cho các tác giả.[151] Vào tháng 6 năm 2015, Taylor chỉ trích hãng Apple Music vì hãng không trả tiền khoan hồng cho nghệ sĩ trong thời gian 3 tháng dùng thử của khách hàng và khẳng định sẽ rút album 1989 ra khỏi hệ thống này.[152] Một ngày sau, Apple thông báo sẽ trả đầy đủ phí đến nghệ sĩ trong thời gian dùng thử[153] và Taylor đồng ý đưa 1989 vào dịch vụ này.[154] Ngày 9 tháng 6 năm 2017, Taylor tái phát hành toàn bộ đĩa nhạc tại các hệ thống âm nhạc streaming, bao gồm Spotify, Tidal, AmazonPandora, sau nhiều năm thu hồi.[155] Trong tuần trở lại đầu tiên, 4 trong số các album phòng thu của cô trở lại Billboard 200;[156] các bài hát đạt 47,51 triệu lượt nghe trực tuyến, thu về lợi nhuận tác quyền 400.000 đô-la Mỹ.[157]

Trong bữa tiệc Saturday Night Live 40th Anniversary Special, Taylor trình bày "I Saw Her Standing There" và "Shake It Off" cùng với Paul McCartney[158] và cùng Kenny Chesney hát "Big Star" trong đêm mở màn chuyến lưu diễn Big Revival Tour tại Nashville.[159] Tháng 3 năm 2015, Taylor hẹn hò cùng DJ và nhà sản xuất người Scotland Calvin Harris.[160] Đến tháng 6 năm 2015, đây là cặp đôi người nổi tiếng được trả thù lao cao nhất năm do Forbes tổng hợp, với số tiền vượt 146 triệu đô-la Mỹ.[161] Tháng 8, Taylor công bố về căn bệnh ung thư của mẹ mình và khuyến khích mọi người thực hiện kiểm tra sức khỏe.[162] Trước khi Taylor và Harris chia tay vào tháng 6 năm 2016,[163] họ đồng sáng tác "This Is What You Came For", nơi cô tham gia dưới nghệ danh Nils Sjöberg.[164] Tháng 10, cô sáng tác "Better Man" cho album thứ bảy của nhóm Little Big Town, The Breaker.[165] Hai tháng sau, Taylor và Zayn Malik cùng nhau phát hành đĩa đơn "I Don't Wanna Live Forever", nằm trong album nhạc phim Fifty Shades Darker (2017).[166]

2017 – 2019: Reputation

Vào tháng 8 năm 2017, Taylor đã kiện và giành phần thắng trong một vụ kiện dân sự với David Mueller, người từng là một dẫn chương trình cho đài KYGO-FMDenver. Bốn năm trước đó, Taylor đã thông báo với những người chủ của Muller rằng anh ta đã có hành vi tấn công tình dục với cô bằng cách đụng chạm vào người cô. Trước khi bị đuổi việc, Mueller đã tố cáo Taylor là kẻ dối trá và kiện cô vì khiến anh ta mất việc. Một thời gian ngắn sau đó, Taylor kiện ngược lại Muller vì tội tấn công tình dục. Ban bồi thẩm đã bác bỏ những thanh minh từ phía Muller và thay vào đó nghiêng về phía Taylor.[167] Sau đó cô xóa toàn bộ nội dung trên các tài khoản mạng xã hội của mình[168] và phát hành "Look What You Made Me Do" dưới dạng đĩa đơn mở đường cho album phòng thu thứ sáu, Reputation.[169] Đĩa đơn đạt vị trí đầu bảng tại Úc, Ireland, New Zealand, Anh Quốc và Hoa Kỳ.[170][171] Video âm nhạc cho bài hát đạt 43.2 triệu views trong ngày đầu tiên được ra mắt trên YouTube, phá kỉ lục của trang web về video âm nhạc có lượng lượt xem trong 24 giờ đầu cao nhất.[172] Vào tháng 10, Taylor phát hành đĩa đơn thứ hai từ album, "...Ready for It?",[173] đạt hạng ba tại Úc và hạng bốn tại Hoa Kỳ.[171][174]

Hai đĩa đơn quảng bá đã được phát hành từ Reputation, "Gorgeous" và "Call It What You Want"; trong đó "Gorgeous" được phát hành làm đĩa đơn thứ năm từ album, nhưng chỉ được phát hành ở châu Âu.[175] Album ra mắt ngày 10 tháng 11 năm 2017, tiêu thụ đạt 1.216 triệu bản trong tuần đầu phát hành tại Hoa Kỳ—trở thành album có lượng tiêu thụ cao nhất (doanh số thuần) tại nước này trong năm 2017—và 2 triệu bản trong tuần đấu phát hành trên toàn thế giới.[176] Album đứng đầu bảng xếp hạng tại rất nhiều nước, trong đó có Hoa Kỳ, Anh Quốc, Úc và Canada.[177][178] Cuối tháng đó, Taylor đã trình diễn "...Ready for It?" và "Call It What You Want" trên Saturday Night Live.[179] "End Game", hợp tác với Ed Sheeran đạt vị trí thứ 18 tại Hoa Kỳ.[180] Các đĩa đơn tiếp theo trong album được phát hành là "New Year's Day" và "Delicate"; riêng "New Year's Day" chỉ được phát hành trên các đài radio nhạc đồng quê.[181]

Để quảng bá cho Reputation, Taylor đã tham gia chuyến lưu diễn Taylor Swift's Reputation Stadium Tour trong năm 2018.[182] Vào tháng 4 năm 2018, Taylor đã hợp tác cùng ban nhạc Sugarland cho đĩa đơn "Babe" từ album Bigger của họ.[a]

2019: Lover, Thắng lớn tại American Music Awards 2019

Đĩa đơn mở đầu "Me!" (hợp tác cùng Brendon Urie từ Panic! at the Disco) nằm trong album phòng thu thứ bảy, Lover, đã phát hành vào ngày 26 tháng 4 năm 2019 và đánh dấu lần đầu tiên cô làm việc với Republic Records.[184] MV của ca khúc trên đã trở thành video ca nhạc có lượng xem nhiều nhất trong 24h đầu tiên đối với một nghệ sĩ nữ hoặc là một nghệ sĩ solo với 65,2 triệu lượt xem. MV trên đã cán mốc 100 triệu lượt xem trên YouTube trong 79 giờ, từ đó giúp Taylor phá kỷ lục MV nhanh nhất cán mốc 100 triệu lượt xem trên hệ thống VEVO.

Ngày 17 tháng 6 năm 2019, Taylor Swift đã chính thức cho ra mắt MV You Need To Calm Down và tạo nên hiệu ứng lan tỏa rất lớn trên toàn thế giới. Trước đó, ngày 14 tháng 6, nữ ca sĩ cũng đã tung bản lyrics video cho ca khúc mới này. Đây là single thứ hai nằm trong album phòng thu thứ bảy sắp ra mắt của cô. MV này gây ra rất nhiều tranh cãi vì liên quan đến việc ủng hộ cộng đồng LGBT. Hiện tại, You Need To Calm Down đã bị cấm chiếu ở hơn 30 quốc gia và vùng lãnh thổ.

Trưa ngày 16 tháng 8 (theo giờ Việt Nam), Taylor Swift đã cho ra mắt ca khúc "Lover", ca khúc chủ đề cùng tên với album phòng thu sắp tới của cô.

Sáng ngày 25 tháng 11 (giờ Việt Nam), lễ trao giải American Music Awards diễn ra tại nhà hát Microsoft ở Los Angeles quy tụ nhiều nghệ sĩ lớn tham gia. Taylor Swift một lần nữa được vinh danh ở các hạng mục quan trọng, với Album Pop/Rock được yêu thích nhất cho Lover, và giải Nghệ sĩ của thập kỷ. Giọng ca sinh năm 1989 đã xúc động khi được xướng tên, cô phát biểu trên sân khấu[185]:

Phong cách nghệ thuật

Phong cách âm nhạc

Taylor Swift biểu diễn tại Reputation Stadium Tour vào tháng 5 năm 2018.

Âm nhạc của Taylor hòa trộn các yếu tố nhạc pop, pop rockđồng quê.[186] Cô tự nhận mình là một nghệ sĩ đồng quê cho đến khi phát hành 1989 (2014), được cô mô tả là một "album mang kết cấu giai điệu pop".[187] Rolling Stone cho rằng Taylor "có thể được chơi trên trạm phát thanh đồng quê, nhưng cô ấy là một trong những ngôi sao nhạc rock thực thụ hiếm hoi hiện nay".[188] The New York Times nhận thấy "Âm nhạc của Taylor không mấy liên quan đến dòng nhạc đồng quê—một vài tiếng gảy banjo, một đôi ủng cao bồi trên sân khấu cùng tiếng đàn guitar du dương—nhưng có chút gì đó khác biệt trong sự rạng rỡ của cô ấy, đôi chút mỏng manh mang nét khác biệt so với Nashville."[189] The New Yorker tin rằng cô "sáng tác những bài hát tường thuật với giai điệu trong trẻo và cường điệu hóa".[190]

Sophie Schillaci từ The Hollywood Reporter miêu tả giọng hát của Taylor "ngọt ngào, nhưng mềm mại".[191] Trong phòng thu, Los Angeles Times chỉ ra giọng điệu mang tính "quyết định" của Taylor nằm ở "câu hát ảm đạm như một tiếng thở dài mãn nguyện hay vút cao một cách bất ngờ, giúp cô giữ sự nữ tính đáng yêu trong không gian thân mật".[192] Rolling Stone, trong bài đánh giá Speak Now, có ghi nhận: "Giọng hát của Taylor đủ chân thật để cho thấy sự lão luyện của cô trong vai trò ca sĩ; cô hạ thấp giọng ở những đoạn quan trọng, trong tâm trạng của một cô gái e ấp đang cố gắng nắm lấy uy quyền."[193] Trong một bài đánh giá khác, The Village Voice cho rằng cách phân nhịp trước đây của Taylor "nhạt nhẽo và lộn xộn, nhưng mọi thứ đã thay đổi. [Giọng hát] Taylor nghe có vẻ gượng gạo và mỏng manh, thường đi lạc vào một cao độ có thể khiến một vài người nghe nổi đóa; nhưng cô đã học được cách làm cho từ ngữ khi hát nghe một cách chuẩn xác".[194] Giọng hát trực tiếp của Taylor được đánh giá là "ổn" nhưng không bằng nhiều đồng nghiệp của cô.[191] Một số nhà phê bình vào năm 2009 mô tả giọng Taylor "nhàm chán, mỏng manh và đôi khi yếu ớt như một con ngựa mới sinh".[195][196] Tuy vậy, Taylor lại nhận nhiều lời khen ngợi vì không sử dụng Auto-Tune để khắc phục cao độ khi trình diễn.[197][198]

Trong một cuộc phỏng vấn với The New Yorker, Taylor mô tả bản thân chủ yếu là một nhạc sĩ: "Tôi viết bài hát, giọng hát của tôi chỉ là cách để truyền đạt chúng".[21][199] Borchetta thừa nhận vào năm 2010 rằng Taylor "không phải là nghệ sĩ có kĩ thuật tốt nhất" nhưng mô tả cô là "người đại diện tốt nhất mà chúng tôi có được".[200] Giọng hát của Taylor đôi lúc khiến cô lo lắng và phải cố gắng cải thiện rất nhiều.[201] Một báo cáo vào năm 2010 cho biết Taylor vẫn tiếp tục học thanh nhạc.[202][203] Cô nói rằng mình chỉ cảm thấy lo lắng khi trình diễn "nếu như tôi không chắc khán giả nghĩ gì về mình, như trong một đêm trao giải chẳng hạn".[204]

Ảnh hưởng

Shania Twain (trái) và Stevie Nicks (phải) ảnh hưởng đến Swift

Một trong những kỷ niệm âm nhạc sơ khai nhất của Taylor là lắng nghe bà ngoại Marjorie Finlay hát tại nhà thờ.[2]:1 Lúc nhỏ, Taylor yêu thích các bài hát nhạc phim Disney: "Bố mẹ tôi để ý rằng, mỗi khi quên mất lời, tôi lại nghĩ ra nhiều câu của riêng mình."[205] Mẹ của Taylor là người truyền đạt "niềm yêu thích đến việc sáng tác và kể chuyện"[206] và tạo dựng sự tự tin cho cô, thường giúp cô chuẩn bị trong những buổi thuyết trình ở lớp lúc còn nhỏ.[207] Cô nuôi dưỡng niềm yêu thích âm nhạc đồng quê[208] cùng "những nữ nghệ sĩ đồng quê vĩ đại của thập niên 90;... Shania, Faith, the Dixie Chicks".[209][210] Twain là nguồn ảnh hưởng lớn nhất đến cô, cả ở cương vị ca sĩ lẫn nhạc sĩ.[211] Hill là hình mẫu trong tuổi thơ của cô: "Mọi thứ cô ấy phát biểu, thực hiện, ăn mặc, tôi đều cố bắt chước chúng."[212] Taylor tôn trọng thái độ khiêu khích và khả năng tự chơi nhạc cụ của Dixie Chicks.[213] "Cowboy Take Me Away" của nhóm là bài hát đầu tiên Taylor học chơi trên guitar.[214]

Taylor còn tiếp cận đến nhiều ngôi sao đồng quê gạo cội, bao gồm Patsy Cline, Loretta Lynn,[12] Dolly PartonTammy Wynette.[12] Cô tin rằng Parton là "một ví dụ hoàn hảo cho tất cả nữ nhạc sĩ".[215] Những nghệ sĩ alt-country như Ryan Adams,[216] Patty Griffin,[217]Lori McKenna cũng gây ảnh hưởng tới Taylor.[218] Trước độ tuổi thiếu niên, cô còn yêu thích các nghệ sĩ bubblegum pop như HansonBritney Spears, người mà cô "tôn kính một cách trung thành".[219][220] Ở trường trung học, Taylor nghe những ban nhạc rock như Dashboard Confessional,[221] Fall Out Boy,[222]Jimmy Eat World.[223] Cô cũng là người hâm mộ của những ca sĩ tự sáng tác đương đại như Michelle Branch,[223] Alanis Morissette,[224] Ashlee Simpson,[225] Fefe Dobson[223]Justin Timberlake;[226] cùng những nghệ sĩ thập niên 1960 như The Shirelles, Doris TroyThe Beach Boys.[227]

Taylor liệt kê Paul McCartney, Bruce Springsteen, Emmylou Harris, Kris Kristofferson và Carly Simon là hình mẫu cho sự nghiệp âm nhạc của mình: "Họ biết nắm bắt cơ hội nhưng vẫn luôn là chính mình trong suốt sự nghiệp."[21][228] McCartney, ở cương vị đơn ca lẫn trong ban nhạc The Beatles, khiến Taylor cảm thấy "muốn hiểu được trái tim và trí óc của ông [...] Bất kể một nhạc sĩ nào cũng mơ ước có một di sản như thế."[229] Cô yêu mến Springsteen vì ông "vẫn theo đà xu hướng âm nhạc sau một khoảng thời gian dài".[230] Cô còn mong muốn giống như Harris khi chín chắn hơn[231] và cho rằng Kristofferson "tỏa sáng trong vai trò sáng tác".[232] Cô trân trọng khả năng "sáng tác và [sự] chân thật" của Simon, "Cô ấy nổi tiếng là một người nhạy cảm nhưng cũng rất mạnh mẽ".[233] Album phòng thu thứ năm của Taylor, 1989 lấy cảm hứng từ nhiều nghệ sĩ pop thập niên 1980 mà cô yêu thích, như Annie Lennox, Phil Collins và "Madonna thời kỳ Like a Prayer".[234]

Sáng tác

Taylor dùng những trải nghiệm đời thực làm cảm hứng cho tác phẩm của mình,[235] nơi cô thường đề cập đến "những mối tình đơn phương vô danh thời trung học" và người nổi tiếng.[236] Cô cũng nhiều lần nhắc đến những người tình cũ một cách gièm pha.[237] The Village Voice bình luận về sáng tác của cô, "tuy không phải lời thú tội, nhưng vô cùng kịch tính."[238] Dù vậy, New York tin rằng sự săm soi của giới truyền thông, muốn cô "tận dụng đời tư cho âm nhạc... là phân biệt giới tính, khi nhiều nam đồng nghiệp khác không bị bắt bẻ bởi những điều tương tự".[239] Chính Taylor cũng thừa nhận rằng không phải bài hát nào cũng là chuyện có thật mà đôi khi dựa trên quan sát trong cuộc sống để sáng tác.[240] Ngoài những manh mối trên bìa ghi chú, Taylor cố gắng không nhắc đến chủ đề bài hát một cách trực tiếp, "vì đây là những người có thật. Bạn phải cố gắng truyền đạt suy nghĩ của mình một cách tế nhị mà không dẫm đạp người khác".[241]

"Khi một người phụ nữ viết về cảm nhận của bản thân, nhưng lại bị cho là một cô bạn gái rùng rợn, điên rồ, tuyệt vọng, cầu xin bạn để được kết hôn và có con với cô ta, tôi nghĩ điều đó bôi nhọ những gì cần phải được tôn trọng – một người phụ nữ kể về cảm xúc của mình theo một cách tự nhiên – rồi xuyên tạc, biến nó thành một điều gì đó, mà đôi khi rất phân biệt giới tính."

— Swift đáp trả trước sự chỉ trích về tác phẩm của mình[242]

The Guardian khen ngợi những sáng tác tuổi thiếu niên "với một kiểu tiếc nuối, một nỗi nhớ mang màu sắc sepia" trong hai album đầu tiên của Taylor.[190] New York nhận thấy nhiều ca–nhạc sĩ đã thực hiện những bản thu tuyệt vời lúc còn thiếu niên, nhưng "chưa một ai tạo những bản thu tuyệt vời một cách công khai về lứa tuổi thiếu niên của họ." Tạp chí còn so sánh tác phẩm của cô với Janis Ian.[243] Trong Fearless, Taylor sử dụng hình ảnh cổ tích và khám phá sự trái ngược "giữa những câu chuyện cổ tích và thực tế của tình yêu".[244] Các album sau này của cô chứa đựng nhiều mối quan hệ trưởng thành hơn.[228] Ngoài tình yêu và sự lãng mạn, các bài hát của Taylor cũng bàn luận về mối quan hệ giữa bố mẹ-con cái, tình bạn,[245][246] mối bất hòa, danh vọng và tham vọng sự nghiệp.[206] Taylor thường đưa vào "một cụm từ bất cần kể về những điều to tát và lớn lao không liên quan đến bài hát, nhằm nhấn mạnh hoặc phá vỡ lối tường thuật chính".[247]

Rolling Stone mô tả cô là "một nhạc sĩ uyên bác cùng tài năng nhạy bén với cấu trúc lời chính-điệp khúc-chuyển tiếp cuối bài".[248] Theo The Village Voice, cô thường xuyên đảo chiều quan điểm ở đoạn thứ ba của mỗi bài hát.[247] Xét về mặt hình ảnh, sự lặp lại thể hiện rõ trong sáng tác của Taylor. The Guardian mỉa mai rằng "cô dành quá nhiều thời gian để hôn dưới mưa, tới nỗi mọi người không hiểu tại sao cô vẫn chưa bị cóng chân".[190] Slant Magazine nói thêm, "để ghi nhận Taylor, cô đã khai phá một mô-típ trữ tình mới trong [album thứ tư của mình]".[249] Trong lúc đánh giá các sáng tác của Taylor "gần như đồng nhất một cách tích cực", The New Yorker cho biết cô thường được mô tả như là "một nhạc sĩ có tay nghề nhiều hơn là một người có tầm nhìn kiểu Dylanesque".[21]

Hình tượng công chúng

Đời sống tình cảm của Taylor là chủ đề thu hút giới truyền thông.[250] Ben Phelps của World Book Club gọi cô là "bộ mặt lẳng lơ của ngày tận thế Mỹ" trong khi Abercrombie & Fitch quảng cáo áo phông với slogan chỉ trích đời tư ám chỉ Taylor.[251] Tờ The New York Times khẳng định "tình sử của cô bắt đầu khuấy động những gì khiến ta cảm thấy như khởi đầu của một phản ứng dữ dội" và băn khoăn liệu Taylor có đang trong "cuộc khủng hoảng nhị tuần."[252] Dù vậy, Taylor tuyên bố mình chưa sẵn sàng để bàn cãi về đời tư trước công chúng,[250] điều mà cô tin rằng có thể biến thành "một điểm yếu trong sự nghiệp" của mình.[253]

Taylor tại Time 100 Gala vào năm 2010, nơi cô được vinh danh

Rolling Stone bình luận về cách cư xử tế nhị của cô: "Nếu đây là trò chơi chủ lực của Taylor, cô đã thành công vì điều đó không bao giờ phai nhạt."[254] Vào năm 2012, tờ báo này gọi Taylor "thân thiện một cách dễ chịu"[31] trong khi The Hollywood Reporter mô tả cô là "người tuyệt nhất kể từ Bill Clinton".[255] Vào năm 2012, Taylor được Michelle Obama ghi nhận công việc thiện nguyện của mình, khen ngợi cô là người "vươn đến ngôi đầu của ngành công nghiệp âm nhạc nhưng vẫn mang nhận thức rõ ràng, người đã phá vỡ mọi kỳ vọng mà một người ở tuổi 22 có thể đạt được".[256] Taylor sau đó gọi bà là "một hình tượng lý tưởng".[257] Taylor là một trong những người được theo dõi nhiều nhất trên mạng xã hội và nổi tiếng bởi những tương tác một cách thân thiện với người hâm mộ.[258][259] Cô cho rằng mình "có trách nhiệm" ý thức về ảnh hưởng của mình đến cộng đồng người hâm mộ trẻ tuổi[260] và gọi họ là "mối quan hệ đẹp và lâu dài nhất của tôi".[261]

Bloomberg L.P. gọi Taylor là một biểu tượng gợi cảm[262] nhưng không giống như những người đương thời, cô xuất hiện một cách khiêm tốn hơn.[14][263] Vogue vinh danh cô là "Biểu tượng của phong cách Mỹ" năm 2011.[264] Vào năm 2014, cô dẫn đầu danh sách ăn mặc đẹp thường niên của tạp chí People.[265] Năm 2015, Taylor giành giải Elle Style Awards cho "Người phụ nữ của năm"[266]Maxim xếp cô ở vị trí quán quân trong danh sách Hot 100 của năm.[267]

Taylor xuất hiện trong danh sách 100 người gây ảnh hưởng nhất thế giới của tạp chí Time vào năm 2010 và 2015.[268][269] Từ 2011–15, cô nằm trong top 3 những người phụ nữ bội thu trong âm nhạc của tạp chí Forbes, với thu nhập lần lượt là 45 triệu, 57 triệu, 55 triệu, 64 triệu và 80 triệu đô-la Mỹ.[270] Năm 2015, cô là nhân vật trẻ nhất góp mặt trong danh sách 100 người phụ nữ quyền lực nhất của Forbes, ở vị trí thứ 64.[271] Trong năm 2016, cô dẫn đầu danh sách 100 người nổi tiếng được trả thù lao cao nhất của Forbes, với 170 triệu đô-la Mỹ cô lọt vào top 10 trong các năm 2011, 2013 và 2015.[272] Tháng 6 năm 2017, Forbes ước tính tổng tài sản của Taylor đạt 280 triệu đô-la Mỹ.[273] Vào năm 2019, Taylor một lần nữa dẫn đầu danh sách 100 người nổi tiếng được trả thù lao cao nhất của Forbes với 185 triệu đô-la Mỹ, qua đó tự phá kỷ lục của chính mình về số tiền thu được nhiều nhất trong một năm và cũng qua đây cô trở thành người nổi tiếng duy nhất dẫn đầu danh sách trên trong một thập kỷ với 2 lần (2016 và 2019). Đến tháng 6 năm 2019, Forbes ước tính tổng tài sản của Taylor trong âm nhạc đạt 360 triệu đô-la Mỹ.

Hoạt động khác

Từ thiện

Tổ chức Do Something và Dịch vụ Thiên tai Tennessee đã công nhận nhiều nỗ lực từ thiện của Taylor.[274][275] Cô được trao tặng giải thưởng Big Help vì những "cống hiến giúp đỡ người khác" và "tạo cảm hứng cho mọi người thông qua hành động",[276] cùng giải Ripple of Hope vì "những cống hiến tích cực ở độ tuổi trẻ như vậy [..] Taylor là mẫu người mà chúng tôi muốn con gái của mình noi theo."[277] Năm 2008, cô ủng hộ 100.000 đô-la Mỹ cho Hội chữ Thập Đỏ để giúp đỡ các nạn nhân trong trận lụt ở bang Iowa.[278] Nữ ca sĩ trình diễn ở nhiều chương trình gây quỹ từ thiện như buổi hòa nhạc Sound Relife tổ chức tại Sydney vào năm 2009.[279] Cô cũng thu âm một bài hát cho album Hope for Haiti Now.[280] Taylor gửi 500.000 đô-la Mỹ cho một chương trình từ thiện do WSMV tổ chức để giúp đỡ các nạn nhân trong trận lụt ở bang Tennessee vào tháng 5 năm 2010.[281] Trong năm 2011, Taylor dùng buổi diễn tập cùng trang phục trong chuyến lưu diễn Speak Now World Tour để gây quỹ hỗ trợ cho các nạn nhân bị ảnh hưởng bởi vòi rồng ở nhiều bang đông nam Hoa Kỳ, quyên góp được hơn 750.000 đô-la Mỹ.[282] Năm 2012, cô hỗ trợ chương trình từ thiện Restore the Shore MTV do tổ chức Architecture for Humanity khởi xướng nhằm khắc phục những hậu quả do cơn bão Sandy để lại.[283] Năm 2016, cô ủng hộ 1 triệu đô-la Mỹ cho các nạn nhân bị ảnh hưởng bởi trận lụt ở bang Louisiana.[284]

Vào năm 2010, Taylor gửi 75.000 đô-la Mỹ cho Trường trung học Hendersonville của Nashville để giúp trường tân trang lại thính phòng.[285] Cô cam kết tài trợ 4 triệu đô-la Mỹ để xây dựng một trung tâm giáo dục mới tại Bảo tàng Country Music Hall of Fame and Museum ở Nashville vào năm 2012.[286] Cũng trong năm này, Taylor hợp tác với công ty cho thuê sách giáo khoa Chegg nhằm ủng hộ 60.000 đô-la Mỹ cho các khoa âm nhạc thuộc sáu trường cao đẳng ở Hoa Kỳ.[287] Taylor cũng khuyến khích việc nâng cao trình độ học vấn của trẻ em. Năm 2009, cô gửi tặng 250.000 đô-la Mỹ đến nhiều trường học khác nhau khắp Hoa Kỳ để cải thiện giáo dục.[288] Nữ ca sĩ còn ủng hộ 6.000 sách Scholastic đến Thư viện công cộng Reading ở bang Pennsylvania,[289] 14.000 sách cho Thư viện công cộng Nashville,[290] 2.000 sách cho chương trình học chữ tại Trung tâm Chăm sóc Sức khỏe trẻ em của Bệnh viện Reading,[291] và 25.000 sách đến các trường học trong thành phố New York.[292]

Vào năm 2007, Taylor khởi động một chiến dịch bảo vệ trẻ em khỏi những mối nguy trực tuyến cùng Hiệp hội Các trưởng Cảnh sát bang Tennessee.[293] Năm 2009, cô thu âm một thông báo cộng đồng của Sound Matters để giúp các thính giả nhận biết được tầm quan trọng của việc lắng nghe "có ý thức" nhằm ngăn chặn sự suy giảm thính giác.[294] Taylor đã tặng nhiều vật dụng cho các cuộc bán đấu giá do nhiều tổ chức từ thiện khởi xướng như Quỹ Elton John AIDS, Dự án nước sạch cho trẻ em của UNICEF, MusiCares, và Feeding America.[295] Sau khi nhận giải Nghệ sĩ của năm của Viện Hàn lâm nhạc Đồng quê, Taylor tặng 25.000 đô-la Mỹ đến Bệnh viện Nghiên cứu của Trẻ em St. Jude.[296] Trong năm 2012, nữ ca sĩ tham gia chương trình từ thiện Stand Up to Cancer và trình diễn "Ronan", một bài hát do chính cô sáng tác nhằm tưởng nhớ đến một cậu bé bốn tuổi đã mất vì căn bệnh u nguyên bào thần kinh. Taylor phát hành bài hát này dưới dạng kĩ thuật số và toàn bộ số tiền thu về đã được gửi đến các tổ chức từ thiện chống ung thư.[297] Năm 2014, cô ủng hộ 100.000 đô-la Mỹ đến Quỹ Nghiên cứu Ung thư V,[298] và 50.000 đô-la Mỹ đến Bệnh viện Nhi Philadelphia.[299] Nữ ca sĩ cũng đến nhiều bệnh viện để thăm hỏi các bệnh nhân và hỗ trợ cho họ.[300] Taylor còn khuyến khích những người trẻ tuổi tham gia vào các hoạt động cộng đồng tại địa phương nhằm hưởng ứng Ngày Thanh niên Phục vụ Toàn cầu.[301] Tháng 9 năm 2017 Taylor Swift đã âm thầm ủng hộ 1,5 triệu đô la mĩ cho quĩ Houston Food Bank, vinh danh mẹ cô- người từng tốt nghiệp trường đại học Houston nhằm quyên góp cho nạn nhân của siêu bão Harvey đã đổ bộ vào Mỹ

Chính trị

Trong cuộc bầu cử Tổng thống 2008, Taylor ủng hộ chiến dịch Every Woman Counts, mang mục tiêu đưa phụ nữ vào quá trình chính trị và là một trong nhiều ngôi sao nhạc đồng quê xuất hiện trong sự kiện thông báo công khai cho chiến dịch Vote (For Your) Country.[302] Cô phát biểu: "Tôi không nghĩ mình có khả năng cố gắng và gây ảnh hưởng đến cách mà mọi người nên bỏ phiếu."[12] Sau khi Tổng thống Barack Obama nhậm chức, cô chia sẻ trên Rolling Stone: "Tôi chưa từng thấy quốc gia này hạnh phúc về một quyết định chính trị nhiều đến thế. Tôi rất vui mừng vì đây là lần bầu cử đầu tiên của tôi."[303]

Trong một bài phỏng vấn vào năm 2012, Taylor khẳng định mình không "bàn chuyện chính trị vì có thể gây ảnh hưởng đến người khác".[304] Taylor có thời gian gần gũi với gia tộc Kennedy[305] và thể hiện lòng mến mộ đến Ethel Kennedy.[232] Taylor còn là một nhà hoạt động theo chủ nghĩa nữ quyền.[306] Taylor phản đối nạn phân biệt đối xử với người đồng tính luyến ái. Sau vụ sát hại Larry King vào năm 2008, cô thu âm một thông báo cộng đồng của Gay, Lesbian and Straight Education Network nhằm chống lại tội ác căm thù.[307] Trong kỷ niệm 1 năm ngày mất của King, Taylor chia sẻ với Seventeen rằng cha mẹ cô dạy "không bao giờ được đánh giá người khác dựa trên bất kỳ tình cảm, màu da hay tín ngưỡng nào".[308] Vào năm 2011, Taylor thực hiện video âm nhạc "Mean" nhằm thể hiện nạn ghê sợ đồng tính luyến ái ở trường trung học; video được đề cử "Giải thưởng hoạt động xã hội" tại giải Video âm nhạc của MTV.[309][310] The New York Times tin rằng cô là một phần trong "làn sóng phụ nữ trẻ tuổi (và hầu hết là người dị tính) ngày nay, đang xây dựng một thế hệ người hâm mộ là người đồng tính nhằm giữ gìn nhận dạng bản thân trong thời điểm của nhiều thông điệp văn hóa gây hỗn loạn và khó hiểu".[309]

Quảng bá nhãn hiệu

Trong khi quảng bá album đầu tay, Taylor là gương mặt của chiến dịch Mobile Music do hãng Verizon Wireless tổ chức.[311] Trong kỷ nguyên Fearless, cô quảng cáo loại đầm dây cho hãng L.e.i. tại Wal-Mart,[312] thiết kế thiệp American Greetings và búp bê Jakks Pacific.[313][314] Cô là đại sứ cho nhãn hàng Nashville Predators của NHL và máy chụp ảnh kỹ thuật số Sony Cyber-shot.[315][316] Cô trình bày trong quảng cáo trò chơi điện tử Band Hero, cùng Rivers Cuomo, Pete WentzTravis Barker trong ban nhạc hỗ trợ.[317][318] Trong kỷ nguyên Speak Now, cô phát hành một phiên bản đặc biệt của album này thông qua Target.[319] Taylor trở thành đại sứ của nhãn hàng CoverGirl,[320] ra mắt hai nhãn hiệu nước hoa Elizabeth Arden, WonderstruckWonderstruck Enchanted.[321]

Trong khi quảng bá album phòng thu thứ 4 Red, Taylor thực hiện quảng bá độc quyền thông qua Target,[322] Papa John's Pizza[323]Walgreens.[324] Cô là đại diện cho nhãn hàng Diet Coke và giày thể thao Keds,[325] ra mắt dòng nước hoa Elizabeth Arden thứ 3 mang tên Taylor by Taylor Swift,[326] và tiếp tục hợp tác cùng Sony Electronics và American Greetings.[327][328] Taylor cũng hợp tác với AirAsia[329]Qantas[330] trong vai trò hãng hàng không chính thức trong chặng lưu diễn Red Tour tại Úc và châu Á, trong khi Cornetto quảng bá cô trong chặng lưu diễn tại châu Á.[331] Trong lúc quảng bá 1989, Taylor xuất hiện trong nhiều quảng cáo của Subway, Keds, Target và Diet Coke.[332] Vào năm 2014, Taylor phát hành nhãn hiệu nước hoa thứ 4 Incredible Things.[333]

Giải thưởng và thành tựu

Taylor trình diễn trong Speak Now World Tour tại Heinz Field, Pittsburgh năm 2011

Trong xuyên suốt sự nghiệp, Taylor đã giành 10 giải Grammy,[334] 29 giải thưởng Âm nhạc Mỹ,[335] 23 giải thưởng Âm nhạc Billboard (nghệ sĩ giành nhiều giải nhất),[336] 11 giải Hiệp hội nhạc đồng quê, 8 giải Viện hàn lâm nhạc Đồng quê[337] 1 giải Brit[146] và 1 giải Emmy.[338] Ở vai trò nhạc sĩ, cô từng 7 lần được vinh danh là "Nhạc sĩ/ca sĩ của năm" bởi Hiệp hội tác giả Nashville[45][339] và xuất hiện trong Đại sảnh Danh vọng Sáng tác.[340]

Đến đầu năm 2016, Taylor đã bán hơn 40 triệu album, 130 triệu đĩa đơn kỹ thuật số và là một trong 5 nghệ sĩ âm nhạc có lượng đĩa kỹ thuật số lớn nhất thế giới.[134] Tại Hoa Kỳ, mỗi album phòng thu của Taylor đều vượt 4 triệu bản: Taylor Swift (5,5 triệu), Fearless (7,0 triệu),[341] Speak Now (4,5 triệu), Red (4,1 triệu), 1989 (6,11 triệu) [342].Ngày 8 tháng 6 năm 2017, Taylor vượt mốc 100 triệu đĩa chứng nhận của Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Hoa Kỳ.[343] Cô ấy là nghệ sĩ bán chạy đĩa kỹ thuật số thứ ba ở Hoa Kỳ với tổng số 106,5 triệu đơn vị chứng nhận theo Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Hoa Kỳ (Recording Industry Association of America)

Danh sách đĩa nhạc

Lưu diễn

Sự nghiệp điện ảnh

Tựa đề Năm Vai Ghi chú
Jonas Brothers: The 3D Concert Experience 2009 Chính cô Khách mời
Hannah Montana: The Movie Chính cô Khách mời
Ẩn số tình yêu 2010 Felicia Miller
Thần Lorax 2012 Audrey Lồng tiếng
Người truyền ký ức 2014 Rosemary
Cats 2019 Bombalurina

Chú thích

  1. ^ Swift và thành viên Pat Monahan của ban nhạc Train ban đầu đã viết "Babe" cho album phòng thu thứ tư của Swift, Red.[183]
  1. ^ “Taylor Swift Biography: Singer (1989–)”. FYI. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2015.
  2. ^ a b Jepson, Louisa (2013). Taylor Swift. Simon and Schuster. tr. 1. ISBN 978-1-4711-3087-8. Truy cập ngày 16 tháng 8 năm 2016.
  3. ^ Roth, Madeline (19 tháng 5 năm 2015). “Taylor Swift's Brother Had The Most Epic Graduation Weekend Ever”. MTV News. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2016.
  4. ^ Raab, Scott (20 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift Interview”. Esquire. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2015.
  5. ^ “Photos Students at Alvernia Montessori School sending Taylor Swift a valentine”. Reading Eagle. 13 tháng 2 năm 2010. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2013.
  6. ^ Hatza, George (8 tháng 12 năm 2008). “Taylor Swift: Growing into superstardom”. Reading Eagle. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2012.
  7. ^ Mennen, Lauren (12 tháng 11 năm 2014). “Taylor Swift's Wyomissing childhood home on the market for $799,500”. Philadelphia Daily News. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2016.
  8. ^ “Taylor Swift Returns to Reading Pennsylvania as Maid of Honor in Friend's Wedding”. WCAU. 22 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2016.
  9. ^ “Taylor Swift, Age 12”. New York Daily News. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2016.
  10. ^ Cooper, Brittany Joy (15 tháng 4 năm 2012). “Taylor Swift Opens Up About a Future in Acting and Admiration for Emma Stone”. Taste of Country. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2012.
  11. ^ a b MacPherson, Alex (18 tháng 10 năm 2012). “Taylor Swift: 'I want to believe in pretty lies'. The Guardian. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2016.
  12. ^ a b c d “Interview: The Unabridged Taylor Swift”. Rolling Stone. 2 tháng 12 năm 2008.
  13. ^ a b c Morris, Edward (1 tháng 12 năm 2006). “When She Thinks 'Tim McGraw', Taylor Swift Savors Payoff: Hardworking Teen to Open for George Strait Next Year”. CMT. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2010.
  14. ^ a b Diu, Nisha Lilia (3 tháng 4 năm 2011). “Taylor Swift: 'I won't do sexy shoots'. The Daily Telegraph. London. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2012.
  15. ^ “News: CMT Insider Interview: Taylor Swift (Part 1 of 2)”. CMT. 26 tháng 11 năm 2008. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2012.
  16. ^ “Taylor Swift: The Garden In The Machine”. American Songwriter. 2 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2012.
  17. ^ Martino, Andy (10 tháng 1 năm 2015). “Exclusive: The real story of Taylor Swift's guitar 'legend'. Daily News. New York. Truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2015.
  18. ^ “americanbar.org PDF” (PDF). Americanbar.org. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2012.
  19. ^ “On tour with Taylor Swift – Dateline NBC”. MSNBC. 31 tháng 5 năm 2009. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2012.
  20. ^ Castro, Vicky (6 tháng 2 năm 2015). “How to Succeed as an Entrepreneur, Taylor Swift Style”. Inc. Monsueto Ventures. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2015.
  21. ^ a b c d e Widdicombe, Lizzie (10 tháng 10 năm 2011). “You Belong With Me”. The New Yorker. Truy cập ngày 11 tháng 10 năm 2011.
  22. ^ Jo, Nancy (2 tháng 1 năm 2014). “Taylor Swift and the Growing of a Superstar: Her Men, Her Moods, Her Music”. Vanity Fair. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2015.
  23. ^ “News: Taylor Swift's High School Names Auditorium in Her Honor”. CMT. 23 tháng 9 năm 2010. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2012.
  24. ^ Grigoriadis, Vanessa (5 tháng 3 năm 2009). “The Very Pink, Very Perfect Life of Taylor Swift”. Rolling Stone. Truy cập ngày 31 tháng 10 năm 2012.
  25. ^ “Taylor Swift: The Garden In The Machine”. American Songwriter. 2 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2012.
  26. ^ “Songwriter Taylor Swift Signs Publishing Deal With Sony/ATV”. Broadcast Music, Inc. 12 tháng 5 năm 2005. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2012.
  27. ^ Kosser, Michael (3 tháng 6 năm 2010). “Liz Rose: Co-Writer to the Stars”. American Songwriter. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2012.
  28. ^ Leahey, Andrew (24 tháng 10 năm 2014). “Songwriter Spotlight: Liz Rose”. Rolling Stone. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2016.
  29. ^ DeLuca, Dan (11 tháng 11 năm 2008). “Focused on 'great songs' Taylor Swift isn't thinking about "the next level" or Joe Jon as gossip”. Philadelphia Daily News. tr. 1. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2012.
  30. ^ Preston, John (26 tháng 4 năm 2009). “Taylor Swift: the 19-year-old country music star conquering America – and now Britain”. The Daily Telegraph. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2012.
  31. ^ a b Hiatt, Brian (25 tháng 10 năm 2012). “Taylor Swift in Wonderland”. Rolling Stone. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2016.
  32. ^ Greenburg, Zack O'Malley (26 tháng 6 năm 2013). “Toby Keith, Cowboy Capitalist: Country's $500 Million Man”. Forbes. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2016.
  33. ^ Taylor Swift (CD). Taylor Swift. Big Machine Records. 2006. BMR120702.Quản lý CS1: khác (liên kết)
  34. ^ a b c d e Solin, Jennifer (10 tháng 8 năm 2016). “Taylor Swift New Album Release Date Postponed; Is She Laying Low After Kim Kardashian, Kanye West Drama?”. International Business Times. Truy cập ngày 15 tháng 8 năm 2016.
  35. ^ Caramanica, Jon (5 tháng 9 năm 2008). “A Young Outsider's Life Turned Inside Out”. The New York Times. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2016.
  36. ^ “Taylor Swift Total Album Sales”. Statistic Brain Research Institute. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2016.
  37. ^ Willman, Chris (5 tháng 2 năm 2008). “Taylor Swift's Road to Fame”. Entertainment Weekly. tr. 3. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2012.
  38. ^ Cowling, Lauren (12 tháng 11 năm 2014). “5 of Taylor Swift's Most Country Performances”. Country Outfitter Life. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2016.
  39. ^ “Taylor Swift Joins Rascal Flatts Tour”. CMT. 18 tháng 10 năm 2006. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2010.
  40. ^ “Taylor Swift No. 1 on iTunes”. Great American Country. 19 tháng 12 năm 2007. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2010.
  41. ^ “Teardrops on My Guitar”. Billboard. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2010.
  42. ^ “Taylor Swift owns top of country chart”. Country Standard Time. 23 tháng 7 năm 2008. Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2008.
  43. ^ “Wal-Mart "Eyes" New Taylor Swift Project”. Great American Country. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2008.
  44. ^ Rosa, Christopher (24 tháng 3 năm 2015). “Opening Acts Who Became Bigger Than The Headliner”. VH1. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2015.
  45. ^ a b “Taylor Swift Youngest Winner of Songwriter/Artist Award”. Great American Country. 16 tháng 10 năm 2007. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2015.
  46. ^ “Photos: All Taylor Swift Pictures: Horizon Award Winner Poses in the Pressroom”. Country Music Television. 7 tháng 9 năm 2007. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 11 năm 2007. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2012.
  47. ^ “Photos: 43rd Annual ACM Awards – Onstage: Winners: Acceptance Speech”. CMT. 18 tháng 5 năm 2008. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2012.
  48. ^ “Taylor Swift, Rascal Flatts, Carrie Underwood Score at 2008 AMA Awards” (Blog). Roughstock.com. 24 tháng 11 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2012.
  49. ^ “Amy Winehouse Wins Best New Artist, Kanye West Pays Tribute to Mom – Grammy Awards 2008, Grammy Awards”. People. 2 tháng 10 năm 2008. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2012.
  50. ^ Caplan, David (8 tháng 9 năm 2008). “Scoop”. People. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2012.
  51. ^ Rizzo, Monica (24 tháng 11 năm 2008). “Scoop – Couples, Camilla Belle, Joe Jonas”. People. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2012.
  52. ^ “Love Story – Taylor Swift”. Billboard. Truy cập ngày 5 tháng 3 năm 2011.
  53. ^ a b “Discography Taylor Swift”. ARIA Charts. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2010.
  54. ^ Ben-Yehuda, Ayala (13 tháng 8 năm 2009). “Black Eyed Peas, Jason Mraz Tie Records on Billboard Hot 100”. Billboard. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2010.
  55. ^ Grein, Paul (16 tháng 3 năm 2012). “Chart Watch Extra: Top Albums Of Last 10 Years” (Blog). Yahoo! Music. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2011.
  56. ^ Herrera, Monica (8 tháng 10 năm 2009). “Taylor Swift's "Fearless" Tour Returns March 2010”. Rolling Stone. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2016.
  57. ^ Mapes, Jillian (23 tháng 11 năm 2010). “Taylor Swift Announces 'Speak Now' World Tour”. Billboard. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2012.
  58. ^ Weiss, Dan (12 tháng 12 năm 2011). “Taylor Swift: Journey To Fearless DVD”. American Songwriter. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2016.
  59. ^ Ryan, Sarah (10 tháng 8 năm 2009). “Taylor Swift Pranks Keith Urban” (Blog). Great American Country. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2015.
  60. ^ “Kanye calls Taylor Swift after 'View' appearance”. MSNBC. 15 tháng 9 năm 2009. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2009.
  61. ^ “Taylor Swift Thanks "Gracious" Beyonce for Inviting Her Onstage After Kanye Stunt at VMAs”. Rolling Stone. 14 tháng 9 năm 2009. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2012.
  62. ^ Anderson, Kyle (16 tháng 9 năm 2009). “Kanye West's VMA Interruption Gives Birth To Internet Photo Meme”. MTV. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2009.
  63. ^ a b Montgomery, James (2 tháng 2 năm 2010). “Why You Shouldn't Hate on Taylor Swift”. MTV. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2012.
  64. ^ Kreps, Daniel (1 tháng 2 năm 2010). “Beyonce, Taylor Swift Dominate 2010 Grammy Awards”. Rolling Stone. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2012.
  65. ^ Kreps, Daniel (4 tháng 2 năm 2010). “Taylor Swift's Label Lashes Out at Critics of Grammy Performance”. Rolling Stone. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2012.
  66. ^ Caramanica, Jon (1 tháng 2 năm 2010). “For Young Superstar Taylor Swift, Big Wins Mean Innocence Lost”. The New York Times. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2012.
  67. ^ Kaufman, Gil (12 tháng 11 năm 2009). “Taylor Swift Dominates CMA Awards”. MTV News. Truy cập ngày 13 tháng 9 năm 2016.
  68. ^ “Taylor Swift Wins Album of the Year at Academy of Country Music Awards”. Big Machine Records. 6 tháng 4 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 4 năm 2009. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2009 – qua PR Newswire.
  69. ^ Ditzian, Eric (2009). “Taylor Swift, Michael Jackson Big Winners at American Music Awards”. MTV. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2012.
  70. ^ “2009 Artists of the Year”. Billboard. 10 tháng 12 năm 2009. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2012.
  71. ^ Vena, Jocelyn (6 tháng 11 năm 2009). “John Mayer Talks Taylor Swift Collaboration 'Half of My Heart'. MTV. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2012.
  72. ^ “Kellie Pickler Has Her 'Best Days' Thanks To Taylor Swift”. MTV. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2015.
  73. ^ “Boys Like Girls Dish on Taylor Swift”. Seventeen. 15 tháng 12 năm 2009. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2012.
  74. ^ “Hannah Montana: The Movie (Original Motion Picture Soundtrack) by Hannah Montana”. iTunes Store. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2016.
  75. ^ Vena, Jocelyn (28 tháng 12 năm 2009). “New Taylor Swift Song Included In 'Valentine's Day' Featurette”. MTV. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2015.
  76. ^ a b c “Taylor Swift – Chart history on Canadian Hot 100”. Billboard. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2016.
  77. ^ Caramanica, Jon (6 tháng 3 năm 2009). “OMG! Taylor Swift Does 'CSI'!”. The New York Times (Blog). Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2012.
  78. ^ Strecker, Erin (2 tháng 1 năm 2015). “Remember When Taylor Swift Shined as 'Saturday Night Live' Host?”. Billboard. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2015.
  79. ^ Barrett, Annie (8 tháng 11 năm 2009). “Taylor Swift hosted the best 'Saturday Night Live' of the season so far ... really!?!”. Entertainment Weekly. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2012.
  80. ^ Park, Michael Y.; Sia, Nicole (29 tháng 12 năm 2009). “Taylor & Taylor Romance Was Overblown, Says Source”. People. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2012.
  81. ^ “Billboard Bits: Taylor Swifts Offers 'Apology' To Taylor Lautner, Christina Aguilera Confirms Split”. Billboard. 10 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2016.
  82. ^ Sharkey, Betsy (12 tháng 2 năm 2010). “Review: 'Valentine's Day' – Page 2”. Los Angeles Times. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2012.
  83. ^ McCarthy, Todd (7 tháng 2 năm 2010). “Valentine's Day – Film Reviews”. Variety. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2012.
  84. ^ Hammel, Sara (4 tháng 1 năm 2011). “Taylor Swift & Jake Gyllenhaal Break Up: Source”. People. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2012.
  85. ^ Pietroluongo, Silvio (11 tháng 8 năm 2010). “Taylor Swift Makes Sparkling Hot 100 Entrance”. Billboard. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2016.
  86. ^ Caramanica, Jon (20 tháng 10 năm 2010). “Taylor Swift, Angry on 'Speak Now'. The New York Times. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2010.
  87. ^ Kaufman, Gil (3 tháng 11 năm 2010). “Taylor Swift's Speak Now Tops 1 Million In First Week”. MTV News. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2016.
  88. ^ “Fastest-selling digital album in the US by a female artist”. Guinness World Records. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2015.
  89. ^ “Most simultaneous US hot 100 hits by a female”. Guinness World Records. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2015.
  90. ^ Wyland, Sarah (12 tháng 2 năm 2012). “Taylor Swift Takes Home Two GRAMMYs at Tribute-Filled Show” (Blog). Great American Country. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2012.
  91. ^ Suddath, Claire (12 tháng 2 năm 2012). “Taylor Swift, "Mean" | The Best and Worst of the 2012 Grammys”. Time. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2012.
  92. ^ Deerwester, Jayme (12 tháng 2 năm 2012). “Adoration for Adele: 6 Grammys”. USA Today. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2012.
  93. ^ Shelburne, Craig (18 tháng 10 năm 2010). “Taylor Swift Named NSAI's Songwriter-Artist of the Year”. CMT. Truy cập ngày 21 tháng 11 năm 2015.
  94. ^ Smith, Hazel (24 tháng 10 năm 2011). “News: Hot Dish: Taylor Swift Sings Alan Jackson's Masterpiece at Nashville Songwriters Celebration”. CMT. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2012.
  95. ^ Roland, Tom (2 tháng 12 năm 2011). “Taylor Swift: Billboard's Woman of the Year”. Billboard. tr. 1. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2012.
  96. ^ “Taylor Swift wins ACM entertainer of the year”. Yahoo!. Associated Press. 1 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2012.
  97. ^ “CMA Awards 2011: Taylor Swift wins entertainer of the year”. CBS News. 9 tháng 11 năm 2011. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2012.
  98. ^ Kellogg, Jane (20 tháng 11 năm 2011). “AMAs 2011: Winners and Nominees Complete List”. The Hollywood Reporter. Truy cập ngày 21 tháng 11 năm 2015.
  99. ^ Allen, Bob (29 tháng 3 năm 2012). “Hot Tours: Taylor Swift, George Strait, Cirque Du Soleil”. Billboard. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2012.
  100. ^ “Taylor Swift News and Blog”. taylorswift.com. 21 tháng 9 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2011.
  101. ^ Herrera, Monica (15 tháng 3 năm 2012). “Taylor Swift, Arcade Fire Talk 'Hunger Games'. Rolling Stone. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2012.
  102. ^ Labrecque, Jeff (12 tháng 12 năm 2012). “Golden Globe nominations: 'Lincoln' leads with 7 nods”. Entertainment Weekly. Truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2012.
  103. ^ Horowitz, Steven J. (20 tháng 4 năm 2012). “B.o.B Explains Origins of Taylor Swift Collaboration "Both of Us". HipHopDX. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2012.
  104. ^ Toomedy, Alyssa. “Taylor Swift and Conor Kennedy Breakup: Anatomy of a Split”. E!. Truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2015.
  105. ^ Trust, Gary (22 tháng 8 năm 2012). “Taylor Swift Scores First Hot 100 No. 1”. Billboard. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2012.
  106. ^ “Discography Taylor Swift”. New Zealand Charts. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2016.
  107. ^ Lynch, Kevin (4 tháng 9 năm 2013). “Calvin Harris trumps Michael Jackson feat to join Taylor Swift, Rihanna and One Direction in Guinness World Records™ 2014 book”. Guinness World Records. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2015.
  108. ^ a b “Taylor Swift – Chart history”. Billboard. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2016.
  109. ^ Apodaca, Joseph. “Billboard names Taylor Swift 2014's No. 1 music Money Maker — see who made the top 10”. KABC-TV. Truy cập ngày 19 tháng 6 năm 2016.
  110. ^ “Taylor Swift's 'Red' Sells 1.21 Million; Biggest Sales Week for an Album Since 2002”. Billboard. 14 tháng 9 năm 2009. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2012.
  111. ^ Greenwald, David (6 tháng 9 năm 2013). “Taylor Swift, Rihanna, Justin Bieber Among 2014 Guinness Record-Setters”. Billboard. Truy cập ngày 27 tháng 7 năm 2016.
  112. ^ Allen, Bob (3 tháng 7 năm 2014). “Taylor Swift's Red Wraps as All-Time Country Tour”. Billboard. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2015.
  113. ^ “Grammys 2014: The complete list of nominees and winners”. Los Angeles Times. 26 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2015.
  114. ^ “VMAs: The 2013 Winner's List”. Entertainment Weekly. 25 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2013.
  115. ^ Gregoire, Carolyn (19 tháng 11 năm 2012). “Taylor Swift AMA Awards 2012: Pop Star Performs 'I Knew You Were Trouble' (Video)”. The Huffington Post. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2013.
  116. ^ Payne, Chris (25 tháng 11 năm 2013). “Taylor Swift & Justin Timberlake Win Big at American Music Awards”. Billboard. Truy cập ngày 21 tháng 11 năm 2015.
  117. ^ “NSAI Songwriter/Artists of the Year”. Nashville Songwriters Association International. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2016.
  118. ^ Caramanica, Jon (7 tháng 11 năm 2013). “Country Awards Hold Swift Close”. The New York Times. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2014.
  119. ^ Labrecque, Jeff (12 tháng 12 năm 2013). '12 Years a Slave' and 'American Hustle' lead Golden Globe nominees”. Entertainment Weekly. Truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2013.
  120. ^ Bonaguro, Alison (25 tháng 1 năm 2013). “News: Offstage: Tim McGraw Wanted to Make Taylor Swift Duet an Event”. CMT. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2013.
  121. ^ Blistein, Doyle (4 tháng 6 năm 2013). “Taylor Swift Joins Rolling Stones for 'As Tears Go By'. Rolling Stone. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2013.
  122. ^ “Taylor Swift Joins Florida Georgia Line Onstage for 'Cruise'. Taste of Country. 2 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2013.
  123. ^ Collin, Robbie (26 tháng 7 năm 2012). “The Lorax, review”. The Daily Telegraph. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2016.
  124. ^ Beard, Lanford (1 tháng 5 năm 2013). “Taylor Swift says 'I do' to 'New Girl'. Entertainment Weekly. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2016.
  125. ^ Busis, Hillary (27 tháng 9 năm 2013). “Taylor Swift will co-star in long-awaited adaptation of 'The Giver'. Entertainment Weekly. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2016.
  126. ^ “Taylor Swift's Boyfriend Timeline: 10 Relationships & Their Songs”. Billboard. 30 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2016.
  127. ^ Peterson, Price (31 tháng 3 năm 2014). “Taylor Swift Moves into NYC Apartment Built Over Mysterious River of Pink Slime”. The Atlantic. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2016.
  128. ^ 1989 (ghi chú CD). Taylor Swift. Big Machine Records. 2014. BMRBD0500A.Quản lý CS1: khác (liên kết)
  129. ^ Stutz, Colin (16 tháng 10 năm 2014). “Watch Taylor Swift's '1989' Secret Sessions Behind The Scenes Video”. Billboard. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2016.
  130. ^ Mansfield, Brian (18 tháng 8 năm 2014). “Taylor Swift debuts 'Shake It Off,' reveals '1989' album”. USA Today. Truy cập ngày 19 tháng 8 năm 2014.
  131. ^ “1989 by Taylor Swift”. Metacritic. Truy cập ngày 15 tháng 8 năm 2016.
  132. ^ Caulfield, Keith (4 tháng 11 năm 2014). “Taylor Swift's "1989" debuts with 1.287 million copies sold”. Billboard. Truy cập ngày 4 tháng 11 năm 2014.
  133. ^ Swatman, Rachel (31 tháng 8 năm 2015). “Taylor Swift enters Guinness World Records 2016 with yet another record-breaking achievement”. Guinness World Records. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2016.
  134. ^ a b “Taylor Swift named IFPI Global Recording Artist of 2014”. International Federation of the Phonographic Industry. 23 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2015.
  135. ^ Trust, Gray (27 tháng 8 năm 2014). “Taylor Swift's 'Shake It Off' Debuts At No. 1 On Hot 100”. Billboard. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2014.
  136. ^ Trust, Gary (27 tháng 5 năm 2015). “Taylor Swift's 'Bad Blood' Blasts to No. 1 on Hot 100”. Billboard. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2015.
  137. ^ Trust, Gary (11 tháng 3 năm 2015). “Mark Ronson & Bruno Mars Notch 10th Week Atop Hot 100”. Billboard. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2015.
  138. ^ “The Weeknd at No. 1 on Hot 100, Shawn Mendes earns first Top 10”. Billboard. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2015.
  139. ^ Strecker, Erin (6 tháng 7 năm 2015). “Taylor Swift's 'Blank Space' the Fastest Video to Reach 1 Billion Views on Vevo”. Billboard. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2016.
  140. ^ “Grammy Nominations 2016: See the Full List of Nominees”. Billboard. Prometheus Global Media. 7 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2015.
  141. ^ Stutz, Colin (21 tháng 7 năm 2015). “2015 MTV Video Music Awards Nominees Revealed: Taylor Swift, Kendrick Lamar, Ed Sheeran & More”. Billboard. Truy cập ngày 15 tháng 8 năm 2016.
  142. ^ “Live Music's $20 Billion Year: The Grateful Dead's Fare Thee Well Reunion, Taylor Swift, One Direction Top Boxscore's Year-End”. Billboard.
  143. ^ “Taylor Swift: 2014 Billboard Woman of the Year”. Billboard. 10 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2015.
  144. ^ Payne, Chris (23 tháng 11 năm 2014). “Taylor Swift Wins Dick Clark Award of Excellence at 2014, Presented by Diana Ross”. Billboard. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2015.
  145. ^ Leight, Elias (8 tháng 2 năm 2015). “Taylor Swift Talks Nominated 'Shake It Off' on the Grammys Red Carpet”. Billboard. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2015.
  146. ^ a b Jonze, Tim (25 tháng 2 năm 2015). “Taylor Swift wins international female solo artist at Brit awards 2015”. The Guardian. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2015.
  147. ^ Betts, Stephen L. (25 tháng 3 năm 2015). “2015 ACM Award Milestone Winners Include Swift, Lambert”. Rolling Stone. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2015.
  148. ^ Lynch, Joe (19 tháng 2 năm 2016). “Taylor Swift Joins Elite Club to Win Grammy Album of the Year More Than Once: See the Rest”. Billboard. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2016.
  149. ^ Daly, Thomas J. (13 tháng 1 năm 2016). “Taylor Swift's Trademark Play”. The National Law Review. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2016.
  150. ^ Weissmann, Jordan (7 tháng 7 năm 2014). “Taylor Swift Has Written an Op-Ed in the Wall Street Journal”. Slate (Blog). Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2015.
  151. ^ Knopper, Steve (8 tháng 11 năm 2014). “Taylor Swift's Label Head Explains Spotify Removal”. Rolling Stone. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2015.
  152. ^ Peters, Mitchell (21 tháng 6 năm 2015). “Taylor Swift Pens Open Letter Explaining Why '1989' Won't Be on Apple Music”. Billboard. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2015.
  153. ^ Halperin, Shirley (21 tháng 6 năm 2015). “Apple Changes Course After Taylor Swift Open Letter: Will Pay Labels During Free Trial”. Billboard. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2015.
  154. ^ Rosen, Christopher (25 tháng 6 năm 2015). “Taylor Swift is putting 1989 on Apple Music”. Entertainment Weekly. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2015.
  155. ^ Brandle, Lars (9 tháng 6 năm 2017). “Taylor Swift's Entire Catalog Is Now on Spotify & Other Streaming Services: Go Listen”. Billboard. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2017.
  156. ^ Caulfield, Keith (19 tháng 6 năm 2017). “Taylor Swift Sees 4 Albums Back on Billboard 200 After Streaming Return”. Billboard. Truy cập ngày 19 tháng 6 năm 2017.
  157. ^ Gensler, Andy; Christman, Ed (21 tháng 6 năm 2017). “Taylor Swift's Songs Generated $400K After Returning to Streaming Services Last Week”. Billboard. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2017.
  158. ^ Bacle, Ariana (16 tháng 2 năm 2015). “Paul McCartney jams with Taylor Swift at 'SNL' afterparty”. Entertainment Weekly. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2015.
  159. ^ Watts, Cindy (27 tháng 3 năm 2015). “Kenny Chesney tops 12 a.m. with Taylor Swift, Joe Walsh”. The Tennessean. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2015.
  160. ^ Lara, Maria Mercedes. “Calvin Harris Spends the Night at Taylor Swift's LA Home”. People. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 6 năm 2016. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2015. Đã bỏ qua tham số không rõ |dead-url= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  161. ^ Rhodan, Maya (25 tháng 6 năm 2015). “Taylor Swift and Calvin Harris Are the Highest-Paid Celebrity Couple”. Time. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 6 năm 2016. Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2015. Đã bỏ qua tham số không rõ |dead-url= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  162. ^ Schillaci, Sophie (18 tháng 8 năm 2015). “Taylor Swift Tearfully Addresses Mom's Cancer Battle as She Performs 'Ronan'. Entertainment Tonight. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2016.
  163. ^ Chiu, Melody (1 tháng 6 năm 2016). “Taylor Swift and Calvin Harris Split After 15 Months Together”. People. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 6 năm 2016. Truy cập ngày 1 tháng 6 năm 2016.
  164. ^ Spanos, Brittany (13 tháng 7 năm 2016). “Taylor Swift Co-Wrote Calvin Harris' Smash Hit 'This Is What You Came For'. Rolling Stone. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2016.
  165. ^ Bailey, Alyssa (1 tháng 11 năm 2016). “Which Ex Is This New Taylor Swift Song "Better Man" About?”. Elle. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2016.
  166. ^ Hunt, Elle (9 tháng 12 năm 2016). “Taylor Swift and Zayn Malik release surprise duet for Fifty Shades Darker soundtrack”. The Guardian. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2016.
  167. ^ Gonzalez, Sandra; McLean, Scott; Weisfeldt, Sara; Gauk-Roger, Topher (15 tháng 8 năm 2017). “Taylor Swift wins court case”. CNN. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2017.
  168. ^ “Speculation rife over Swift's social media disappearance”. News.com.au. 19 tháng 8 năm 2017. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 19 tháng 8 năm 2017. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  169. ^ Aswad, Jem (24 tháng 8 năm 2017). “Taylor Swift's New Single, 'Look What You Made Me Do,' Arrives (Listen)”. Variety. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2017. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  170. ^ Peak positions:
    “Taylor Swift Scores Fifth No. 1 Single”. Australian Recording Industry Association. 2 tháng 9 năm 2017. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2017.
    “IRMA – Irish Charts”. Irish Recorded Music Association. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 6 năm 2017. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2017.
    “NZ Top 40 Singles Chart”. Recorded Music NZ. 4 tháng 9 năm 2017. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2017.
    White, Jack (1 tháng 9 năm 2017). “Taylor Swift scores first Number 1 on the Official Singles Chart with 'LWYMMD'. Official Charts Company. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2017.
  171. ^ a b Trust, Gary (11 tháng 9 năm 2017). “Taylor Swift at Nos. 1 & 4 on Billboard Hot 100, as Cardi B Moves Up to No. 2”. Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 30 tháng 10 năm 2017. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  172. ^ Lewis, Randy (29 tháng 8 năm 2017). “Taylor Swift's 'Look What You Made Me Do' video bashes another YouTube record”. Los Angeles Times. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2017. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  173. ^ “Top 40 Rhythmic Future Releases”. All Access Media Group. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2017.
  174. ^ “Taylor Swift holds No. 1 for second week”. Australian Recording Industry Association. 9 tháng 9 năm 2017. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2017.
  175. ^ Brandle, Lars (20 tháng 10 năm 2017). “Taylor Swift's 'Gorgeous' New Single Has Arrived: Listen”. Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2017. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
    Iasimone, Ashley; Brandle, Lars (3 tháng 11 năm 2017). “Taylor Swift Debuts 'Call It What You Want': Watch Lyric Video”. Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2017. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
    “BBC – Radio 1 – Playlist”. BBC Radio 1. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2018.
  176. ^ Levine, Robert (22 tháng 11 năm 2017). “Taylor Swift Schools the Music Industry Once Again, While Streaming Services Wring Their Hands”. Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 11 năm 2017. Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2017. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  177. ^ Brandle, Lars (20 tháng 11 năm 2017). “Taylor Swift's 'Reputation' Rules Australia's Albums Chart”. Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 11 năm 2017. Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2017. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  178. ^ “Taylor Swift Chart History”. Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2017. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  179. ^ Aswad, Jem (12 tháng 11 năm 2017). “Taylor Swift Strips Things Down for 'Saturday Night Live' Performances (Watch)”. Variety. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 11 năm 2017. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2017. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  180. ^ “Taylor Swift Chart History”. Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 3 năm 2018. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2018. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  181. ^ Trust, Gary. “Taylor Swift's 'New Year's Day' Goes to Country Radio: Is Country Ready for It?”. Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2018.
    Braca, Nina. “Taylor Swift to Release 'Delicate' Music Video at iHeart Radio Music Awards”. Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 4 năm 2018. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2018.
  182. ^ Stubblebine, Allison (13 tháng 11 năm 2017). “Taylor Swift Announces First Round of Reputation Stadium Tour Dates”. Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 11 năm 2017. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2017. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  183. ^ Hudak, Joseph. “Sugarland Announce New Album 'Bigger,' Taylor Swift Collaboration”. Rolling Stone. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 4 năm 2018. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2018. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  184. ^ Coscarelli, Joe (26 tháng 4 năm 2019). “Taylor Swift Releases 'Me!,' a New Song Featuring Brendon Urie”. The New York Times. Truy cập 27 tháng 4 năm 2019.
  185. ^ “Taylor Swift ẵm 25 chiếc cúp, vượt kỷ lục Michael Jackson ở AMAs”. Zing MP3. 25/11/2019. Truy cập 26/11/2019. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |ngày truy cập=|ngày= (trợ giúp)
  186. ^ “Taylor Swift Biography”. Rolling Stone. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2012.
  187. ^ Cooper, Peter (26 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift reaches a turning point with '1989'. The Tennessean. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2015.
  188. ^ “Women Who Rock: The 50 Greatest Albums of All Time: Taylor Swift, 'Speak Now'. Rolling Stone. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2012.
  189. ^ “Pop and Rock Listings July 22 – 28”. The New York Times. 21 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2012.
  190. ^ a b c Petridis, Alexis (6 tháng 3 năm 2009). “Taylor Swift: Fearless”. The Guardian. London. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2012.
  191. ^ a b Schillaci, Sophie A. (25 tháng 8 năm 2011). “Taylor Swift at Staples Center: Concert Review”. The Hollywood Reporter. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2016.
  192. ^ Powers, Ann (25 tháng 10 năm 2010). “Album review: Taylor Swift's 'Speak Now'. Los Angeles Times. Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2010.
  193. ^ Sheffield, Rob (26 tháng 10 năm 2010). “Speak Now”. Rolling Stone. Truy cập ngày 15 tháng 6 năm 2012.
  194. ^ Weber, Theon (3 tháng 11 năm 2010). “The Iceberg Songs of Taylor Swift”. The Village Voice. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2010.
  195. ^ Serjeant, Jill (17 tháng 11 năm 2009). “Taylor Swift – "Fearless" or tone-less?”. Reuters. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2012.
  196. ^ Tucker, Ken (12 tháng 11 năm 2009). “CMA Awards best and worst, starring Taylor Swift, the ghost of Kanye West, and Carrie Underwood's purple sequined hot-pants”. Entertainment Weekly.
  197. ^ Reed, James (24 tháng 10 năm 2010). “Swift's ascent continues with arrival of new album”. Boston Globe.
  198. ^ “Taylor Swift's dream year brings out naysayers”. Reuters. 20 tháng 11 năm 2009.
  199. ^ DeLuca, Dan (11 tháng 11 năm 2008). “Focused on 'great songs' Taylor Swift isn't thinking about "the next level" or Joe Jonas gossip”. Philadelphia Daily News. tr. 3. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2012.
  200. ^ “Taylor Swift gets mixed reviews at Grammys”. The Tennessean. 1 tháng 2 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2012.
  201. ^ Roland, Tom (15 tháng 10 năm 2010). “Taylor Swift: The Billboard Cover Story”. Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 10 năm 2010. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2012.
  202. ^ Caramanica, Jon (20 tháng 10 năm 2010). “Taylor Swift Is Angry, Darn It”. The New York Times. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2012.
  203. ^ Kelly, James (26 tháng 8 năm 2009). “Taylor Swift: Writing her own songs – and rules”. The Atlanta Journal-Constitution. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2012.
  204. ^ “Taylor Swift in Her Own Words: Teen Vogue Cover Shoot”. Teen Vogue. tháng 8 năm 2011. ISSN 1540-2215. Truy cập ngày 29 tháng 7 năm 2016.
  205. ^ Cairns, Dan (5 tháng 3 năm 2009). “Swift rise of the anti-diva”. The Australian. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2012.
  206. ^ a b Newman, Melinda (19 tháng 12 năm 2008). “Taylor Swift Sessions Interview”. AOL. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2011.
  207. ^ Bream, Jon (7 tháng 12 năm 2007). “Music: OMG! Taylor's senior year”. Star Tribune. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2012.
  208. ^ “Swift starts world tour in Asia, pushes "Speak Now' in NY”. Country Standard Time. 23 tháng 10 năm 2007. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2012.
  209. ^ “News: 20 Questions With Taylor Swift”. CMT. 12 tháng 11 năm 2007. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2012.
  210. ^ McCafferty, Dennis (13 tháng 4 năm 2008). “Taylor's Swift rise”. USA Weekend. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2012.
  211. ^ “Interview with Taylor Swift”. Time. 23 tháng 4 năm 2009. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2012.
  212. ^ “Taylor Swift Style: Singer Won't Take Her Clothes Off, Wants People To Focus On Music”. The Huffington Post. 23 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2015.
  213. ^ “InStyle meets country singing sensation Taylor Swift”. InStyle UK. 26 tháng 10 năm 2010. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2012.
  214. ^ Bonaguro, Alison (25 tháng 7 năm 2011). “News: Offstage: Taylor Swift Plays Dixie Chicks for a Dixie Chick”. CMT. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2012.
  215. ^ Roland, Tom (2 tháng 12 năm 2011). “Taylor Swift: Billboard's Woman of the Year”. Billboard. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2012.
  216. ^ “Taylor Swift Goes Record Shopping with EW”. Entertainment Weekly. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2012.
  217. ^ “Taylor Swift's Favorite Music”. The Oprah Winfrey Show. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2012.
  218. ^ Widdicombe, Lizzie. “Taylor Swift Makes Primness Lucrative”. The New Yorker. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2012.
  219. ^ Vena, Jocelyn (26 tháng 1 năm 2009). “Taylor Swift Blogs About 'Life-Changing' Cameo On 'CSI,' Britney Spears Poster”. MTV. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2015.
  220. ^ “Taylor Swift Loves Hanson”. Fox.com.au. 9 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2015.
  221. ^ “Taylor Swift Tweets Her Love of Dashboard Confessional”. Taste of Country. 1 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2012.
  222. ^ Bonaguro, Alison (10 tháng 8 năm 2011). “News: Offstage: Taylor Swift Covers Fall Out Boy”. CMT. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2012.
  223. ^ a b c “See Taylor Swift's List of Music You Should Hear”. Amazon.com. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2012.
  224. ^ “Taylor Swift talks about Red”. Chicago Tribune. 18 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2012.
  225. ^ Us Weekly: Taylor Swift Inside My World, "What's on my iPod?", page 24
  226. ^ Kaufman, Gil (4 tháng 4 năm 2016). “Taylor Swift Calls Justin Timberlake 'Hero' & 'All Time Fav' After iHeartRadio Music Awards”. Billboard. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2016.
  227. ^ Austin Scaggs (18 tháng 8 năm 2011). “Q&A: Taylor Swift by Austin Scaggs”. Rolling Stone. tr. 28.
  228. ^ a b Mansfield, Brian (23 tháng 10 năm 2010). “Taylor Swift learns to 'Speak Now,' reveal her maturity”. USA Today. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2012.
  229. ^ “Rolling in the Trophies? – Adele”. People. 6 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2012.
  230. ^ “Taylor Swift Goes Record Shopping with EW”. Entertainment Weekly. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2012.
  231. ^ “Our Interview with Taylor Swift”. Channelguidemagblog.com. 2 tháng 11 năm 2008. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2013.
  232. ^ a b Van Meter, Jonathan (17 tháng 1 năm 2012). “Taylor Swift: The Single Life”. Vogue. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2012.
  233. ^ Adams, Cameron (16 tháng 5 năm 2013). “Taylor Swift is happy to be your break-up musician”. News.com.au. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2013.
  234. ^ Eells, Josh (8 tháng 9 năm 2014). “The Reinvention of Taylor Swift”. Rolling Stone. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2016.
  235. ^ Farley, Christopher John (22 tháng 10 năm 2010). “Taylor Swift's Solo Act”. The Wall Street Journal. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2012.
  236. ^ Caramanica, Jon (20 tháng 10 năm 2010). “Taylor Swift Is Angry, Darn It”. The New York Times. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2012.
  237. ^ “John Mayer: Taylor Swift's 'Dear John' Song 'Humiliated Me'. Rolling Stone. 6 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2012.
  238. ^ Weber, Theon (3 tháng 11 năm 2010). “The Iceberg Songs of Taylor Swift – Page 1 – Music – New York”. The Village Voice. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2012.
  239. ^ “Stop Asking Taylor Swift to Apologize for Writing Songs About Ex-Boyfriends – The Cut”. New York. 16 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2013.
  240. ^ “Her Song: Talking Taylor Swift – Post Rock”. The Washington Post. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2012.
  241. ^ Dominus, Susan (16 tháng 11 năm 2012). “The Many Insecurities of Taylor Swift”. The New York Times.
  242. ^ “Cover Preview: Taylor Swift Fights Back About Her Love Life, the Hyannis Port House—and Has Words for Tina Fey and Amy Poehler”. Vanity Fair. 5 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2016.
  243. ^ Willman, Chris (10 tháng 10 năm 2010). “Princess Crossover”. New York. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2012.
  244. ^ Kelly, James (26 tháng 8 năm 2009). “Taylor Swift: Writing her own songs – and rules”. The Atlanta Journal-Constitution. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 9 năm 2009. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2012.
  245. ^ “Microwaving a tragedy: The marriage of romance and romanticism in '00s pop”. Las Vegas Weekly. Truy cập ngày 17 tháng 8 năm 2012.
  246. ^ Rotman, Natalie (9 tháng 1 năm 2009). “Colbie Caillat has 'Breakthrough' with sophomore CD”. Reading Eagle. Truy cập ngày 17 tháng 8 năm 2012.
  247. ^ a b Weber, Theon (3 tháng 11 năm 2010). “The Iceberg Songs of Taylor Swift”. The Village Voice. New York. Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2012.
  248. ^ Rosen, Jody (13 tháng 11 năm 2008). “Fearless”. Rolling Stone. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2012.
  249. ^ “Taylor Swift: Red | Music Review”. Slant Magazine. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2013.
  250. ^ a b Meddings, Jacqui (31 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift is our new cover goddess”. Cosmopolitan. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2016.
  251. ^ “The Taylor Swift Slut-Shaming Continues – The Cut”. New York. 28 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2013.
  252. ^ Chang, Bee-Shyuan (15 tháng 3 năm 2013). “Taylor Swift Gets Some Mud on Her Boots”. The New York Times. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2013.
  253. ^ “On the Road with Best Friends Taylor Swift and Karlie Kloss”. Vogue. 13 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2015.
  254. ^ Grigoriadis, Vanessa (5 tháng 3 năm 2009). “The Very Pink, Very Perfect Life of Taylor Swift”. Rolling Stone. Truy cập ngày 12 tháng 8 năm 2016.
  255. ^ Willman, Chris (17 tháng 10 năm 2012). “Taylor Swift Tapes VH1 'Storytellers'. The Hollywood Reporter. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2013.
  256. ^ Moss, Hilary (2 tháng 4 năm 2012). “Michelle Obama Honors Taylor Swift, Taylor Swift So Honored”. New York. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2013.
  257. ^ Pacella, Megan (15 tháng 4 năm 2012). “Taylor Swift Reflects on Meeting First Lady Michelle Obama”. Taste of Country. Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2012.
  258. ^ Berg, Madeline (18 tháng 11 năm 2015). “Taylor Swift Vs. Katy Perry: Which Star Rules Social Media?”. Forbes. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2016.
  259. ^ Strecker, Erin (27 tháng 1 năm 2015). “Read Taylor Swift's Sweet Message to Bullied Fan”. Billboard. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2015.
  260. ^ Stein, Jeannine; For (18 tháng 11 năm 2011). “Taylor Swift weighs in on being a role model”. Los Angeles Times. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2012.
  261. ^ “Billboard Music Awards: Taylor Swift thanks her fans for being her 'longest and best relationship'. Metro. 20 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2015.
  262. ^ Kessler, Zara (5 tháng 11 năm 2014). “Taylor Swift's Sexual Temptation”. Bloomberg L.P. Truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2016.
  263. ^ Maresca, Rachel (4 tháng 2 năm 2014). “Taylor Swift: 'I find it relatively easy to keep my clothes on'. Daily News. New York. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2016.
  264. ^ Holt, Emily (1 tháng 7 năm 2011). “American Idols: Icons of Stateside Style – Vogue Daily”. Vogue. Truy cập ngày 15 tháng 6 năm 2012.
  265. ^ “People's Best Dressed, Taylor Swift Best Dressed 2014”. People. 17 tháng 9 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 1 tháng 12 năm 2015.
  266. ^ Powell, Hannah Lyons (24 tháng 2 năm 2015). “Taylor Swift wins Woman Of The Year award – ELLE Style Awards 2015”. Elle. Truy cập ngày 1 tháng 12 năm 2015.
  267. ^ Roy, Jessica (18 tháng 5 năm 2015). “Taylor Swift Tops the 2015 Maxim Hot 100”. Maxim. Truy cập ngày 1 tháng 12 năm 2015.
  268. ^ Nicks, Stevie (29 tháng 4 năm 2010). “The 2010 Time 100: Taylor Swift”. Time. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2012.
  269. ^ Vena, Jocelyn (16 tháng 4 năm 2015). “Taylor Swift, Kanye West, Kim Kardashian Make Time's 100 Most Influential People List”. Billboard. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2016.
  270. ^ Greenburg, Zack O'Malley (14 tháng 12 năm 2011). “The Top-Earning Women In Music 2011”. Forbes. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2016.
    Greenburg, Zack O'Malley (12 tháng 12 năm 2012). “The Top-Earning Women In Music 2012”. Forbes. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2016.
    Greenburg, Zack O'Malley (11 tháng 12 năm 2013). “The Top-Earning Women In Music 2013”. Forbes. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2016.
    Greenburg, Zack O'Malley (4 tháng 11 năm 2014). “The Top-Earning Women In Music 2014”. Forbes. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2016.
    Greenburg, Zack O'Malley (4 tháng 11 năm 2015). “The World's Highest-Paid Women In Music 2015”. Forbes. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2015.
  271. ^ “#8 Taylor Swift”. Forbes. Truy cập ngày 27 tháng 7 năm 2015.
  272. ^ “Celebrity 100 2011”. Forbes. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2016.
    Schumann, Rebecka (26 tháng 5 năm 2013). “Forbes Lists Top 100 Most Powerful Celebrities in 2013: Oprah Winfrey Takes Number One Spot [Full list]”. International Business Times. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2016.
    Greenburg, Zack O'Malley (29 tháng 6 năm 2015). “Celebrity 100: The World's Highest-Paid Superstars Of 2015”. Forbes. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2016.
    Greenburg, Zack O'Malley (11 tháng 7 năm 2016). “Taylor Swift Is The World's Top-Earning Celebrity With $170 Million In 2016”. Forbes. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2016.
  273. ^ Greenburg, Zack O'Malley (5 tháng 6 năm 2017). “Taylor Swift's Net Worth: $280 Million In 2017”. Forbes. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2017.
  274. ^ Couch, Robbie (2 tháng 3 năm 2015). “Taylor Swift Named Most Charitable Celeb For Supporting Feminist Causes, Education, More”. The Huffington Post. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2016.
  275. ^ Pacella, Megan (13 tháng 6 năm 2012). “Taylor Swift Receives Star of Compassion Award”. Taste Of Country. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2015.
  276. ^ “Taylor Swift to Receive 'Big' Honor From Michelle Obama at Kids' Choice Awards”. Taste of Country. 27 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2012.
  277. ^ “Taylor Swift Honored With RFK Center's Ripple of Hope Award”. PR Newswire. 4 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2013.
  278. ^ “Taylor Swift donates $100,000 to victims of Iowa Flood”. People. 9 tháng 8 năm 2009. Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2009.
  279. ^ “Kylie to play at Sound Relief with Coldplay, Midnight Oil”. The Daily Telegraph (Úc). 8 tháng 3 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2009. templatestyles stripmarker trong |work= tại ký tự số 43 (trợ giúp)
  280. ^ Vena, Jocelyn (26 tháng 1 năm 2010). “Better Than Ezra 'Honored' By Taylor Swift's Performance Of 'Breathless' At Haiti Telethon – Music, Celebrity, Artist News”. MTV. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2012.
  281. ^ Talbott, Chris (7 tháng 5 năm 2010). “Taylor Swift Donates $500,000 to Nashville Flood Relief”. CNS News.
  282. ^ Lewis, Randy (23 tháng 5 năm 2011). “Taylor Swift benefit concert raises more than $750,000 for tornado victims”. Los Angeles Times (Blog). Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2012.
  283. ^ “Taylor Swift Sends 'Love and Support' to Hurricane Sandy Victims, Asks Fans to Help 'Restore the Shore'. Taste of Country. 13 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2014.
  284. ^ “Taylor Swift gives $1m to help Louisiana flood relief efforts”. The Guardian. 17 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 17 tháng 8 năm 2016.
  285. ^ “Taylor Swift becomes namesake of Hendersonville High School auditorium”. The Tennessean (Blog). 23 tháng 9 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2011.
  286. ^ Mckinley, James C. (17 tháng 5 năm 2012). “Taylor Swift to Donate $4 Million to the Country Hall of Fame”. The New York Times (Blog). Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2012.
  287. ^ Golden, Zara (1 tháng 10 năm 2012). “And The Taylor Swift VH1 Storytellers Contest Winner Is ... Harvey Mudd College! – | VH1 Tuner”. VH1. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2014.
  288. ^ Sanz, Cynthia (14 tháng 12 năm 2009). “Taylor Swift Gives Big as She Turns 20 – Good Deeds, Taylor Swift”. People. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2012.
  289. ^ “Taylor Swift donates 6,000 books to Reading Library”. Reading Eagle. 14 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2012.
  290. ^ “Taylor Swift Donates 14,000 Books to Nashville Public Library”. Taste of Country. 2 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2012.
  291. ^ “Taylor Swift, Scholastic donate books to Reading Hospital | Regional: Berks – Home”. Wfmz.com. 18 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2013.
  292. ^ Zhu, Danielle (17 tháng 11 năm 2015). “Taylor Swift partners with Scholastic to donate 25,000 books”. Entertainment Weekly. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2016.
  293. ^ “Taylor Swift Helps With 'Delete Online Predators' Campaign”. Nash Country Weekly. 18 tháng 9 năm 2007. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 29 tháng 11 năm 2015.
  294. ^ “Sound Matters – Taylor Swift”. Sound Matters. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 29 tháng 11 năm 2015.
  295. ^ Nguồn
  296. ^ “Taylor Swift and ACM Lifting Lives present $50,000 donation to St. Jude”. The Tennessean (Blog). 13 tháng 6 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2012.
  297. ^ “New and Hot Video: Taylor Swift Debuts 'Ronan' at Stand Up To Cancer Benefit”. Rolling Stone. 8 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 14 tháng 9 năm 2012.
  298. ^ “Dick Vitale holds annual fundraiser for pediatric cancer”. Tampa Bay Times. 17 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2014.
  299. ^ “Taylor Swift donates $50K to CHOP to help teens with cancer”. The Business Journals (Blog). Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2014.
  300. ^ Nguồn
  301. ^ Hardiman, Tim (20 tháng 4 năm 2007). “Taylor Swift Encourages Teen Volunteers”. CMT. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2012.
  302. ^ Stephen L. Betts (10 tháng 10 năm 2008). “Reba, Martina,Taylor Making Sure Every Woman Counts”. The Boot.
  303. ^ Grigoriadis, Vanessa (5 tháng 3 năm 2009). “The Very Pink, Very Perfect Life of Taylor Swift”. Rolling Stone. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2016.
  304. ^ Macsai, Dan (19 tháng 10 năm 2012). “Taylor Swift on Going Pop, Ignoring the Gossip and the Best (Worst) Nickname She's Ever Had”. Time. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2016.
  305. ^ “Taylor Swift: Kennedys Should Be So Lucky to Have Her in the Family, Says Boyfriend Conor's Grandmother”. E!. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2015.
  306. ^ Hoby, Hermione (23 tháng 8 năm 2014). “Taylor Swift: 'Sexy? Not on my radar'. The Guardian. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2015.
  307. ^ “Portia Joins Ellen To Stop The Hate”. E!. 10 tháng 3 năm 2010. Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2012.
  308. ^ Koday, Dan. “Taylor Swift's Mission: Take a Stand Against Hate! – Seventeen”. Seventeen. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2012.
  309. ^ a b Hawgood, Alex (5 tháng 11 năm 2010). “For Gays, New Songs of Survival”. The New York Times. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2012.
  310. ^ “MTV adds social activism category to VMAs”. Reuters. 4 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2012.
  311. ^ “Taylor Swift at Top for Fourth Week”. Great American Country. 20 tháng 8 năm 2007. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2012.
  312. ^ “Taylor Swift Launches Sundress Line – Ready-to-Wear and Sportswear – Media”. Women's Wear Daily. 29 tháng 1 năm 2009. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2012.
  313. ^ “Taylor Swift to have greeting card line”. USA Today. 18 tháng 11 năm 2009. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2012.
  314. ^ Serpe, Gina (29 tháng 10 năm 2008). “Taylor Swift Gets All Dolled Up”. E!. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2010.
  315. ^ “Taylor Swift: NHL's New Spokesperson”. AOL. 3 tháng 2 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 2 năm 2009. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2010.
  316. ^ “Sony Electronics News and Information”. Sony. 26 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2012.
  317. ^ Vena, Jocelyn (4 tháng 8 năm 2009). “Taylor Swift Shares Her Rock-Star Life In 'Band Hero'. MTV. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2012.
  318. ^ Garcia, Jennifer (27 tháng 10 năm 2009). “Photo: Taylor Swift Rocks Out for Band Hero”. People. Truy cập ngày 11 tháng 8 năm 2016.
  319. ^ “Target lands Taylor Swift exclusive – Minneapolis / St. Paul Business Journal”. The Business Journals. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2012.
  320. ^ Bratskeir, Anne (3 tháng 5 năm 2010). “Taylor Swift, a new CoverGirl”. Newsday. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2012.
  321. ^ Nika, Colleen (3 tháng 7 năm 2012). “Taylor Swift to Launch Second Fragrance, 'Wonderstruck Enchanted'. Rolling Stone. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2015.
  322. ^ “First Look Taylor Swift Flies High in New Target Commercial”. E!. Truy cập ngày 14 tháng 9 năm 2012.
  323. ^ “Taylor Swift Plans TV Appearances For 10/22 Launch Of "Red" Album, Paid Song Downloads Top 3.8 Million In Advance Of Release”. PR Newswire. 17 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2016.
  324. ^ Hampp, Andrew (9 tháng 10 năm 2012). “Taylor Swift Teams With Walgreens For Exclusive Store To Promote 'Red'. Billboard. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2012.
  325. ^ “Diet Coke Signs Taylor Swift As Brand Ambassador”. Advertising Age. 25 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2015.
  326. ^ DelliCarpini Jr., Gregory (29 tháng 5 năm 2013). “Taylor Swift Reveals Third Fragrance: Taylor by Taylor Swift”. Billboard. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2015.
  327. ^ Sciarretto, Amy (24 tháng 12 năm 2012). “Taylor Swift Is Photogenic in Sony Camera Commercial”. Taste Of Country. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2015.
  328. ^ “American Greetings Sends Taylor Swift Greeting Card Mobile App Abroad”. PR Newswire. 24 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2015.
  329. ^ Corosu, Irene (17 tháng 6 năm 2014). “AirAsia unveiled as the official airline of Taylor Swift's Red Tour throughout South East Asia”. PHAR Partnerships. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2015.
  330. ^ “Qantas named exclusive official airline for Australia and New Zealand leg of Taylor Swift's The Red Tour”. Qantas. 21 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2015.
  331. ^ Reed, Chris (25 tháng 11 năm 2015). “Taylor Swift melts Cornetto's brand image in Asia”. Campaign Asia. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2015.
  332. ^ “Taylor Swift”. Billboard. Truy cập ngày 20 tháng 11 năm 2014.
  333. ^ Mychaskiw, Marianne (1 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift Is Launching Her Fourth Fragrance!”. InStyle. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2015.
  334. ^ “Taylor Swift”. Viện hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Thu âm Quốc gia. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2016.
  335. ^ “Winners of 3 American Music Awards”. taylorswift.com. 22 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2016.
  336. ^ Caulfield, Keith (31 tháng 5 năm 2016). “Top Billboard Music Award Winners of All Time (1990-2016)”. Billboard. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2017.
  337. ^ “Taylor Swift Nashville Tickets”. Excite. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2015.
  338. ^ Friedlander, Whitney (10 tháng 9 năm 2015). “Taylor Swift, Jimmy Fallon Among Juried Emmy Award Winners”. Variety. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2016.
  339. ^ Shelburne, Craig (18 tháng 10 năm 2010). “Taylor Swift Named NSAI's Songwriter-Artist of the Year”. CMT. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2015.
  340. ^ “Songwriters Hall of Fame”. Songwriters Hall of Fame. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2015.
  341. ^ Caulfield, Keith (23 tháng 12 năm 2015). “Taylor Swift's 'Fearless' Surpasses 7 Million Sold in U.S.: Billboard 200 Chart Moves”. Billboard. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2016.
  342. ^ Partridge, Kenneth (11 tháng 2 năm 2016). “Taylor Swift's '1989': Grammy Album of the Year Spotlight”. Billboard. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2016.
  343. ^ Cirisano, Tatiana (8 tháng 6 năm 2017). “Taylor Swift Passes RIAA 100 Million Songs Certification”. Billboard. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2017.

Liên kết ngoài