Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Mật Vân Viên Ngộ”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n replaced: , → , using AWB
→‎Tham khảo: AlphamaEditor, Executed time: 00:00:01.8901787 using AWB
Dòng 57: Dòng 57:


== Tham khảo ==
== Tham khảo ==
{{tham khảo}}


# ''Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-kuang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)''
# ''Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-kuang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)''

Phiên bản lúc 20:37, ngày 26 tháng 3 năm 2020

Thiền sư Mật Vân Viên Ngộ (zh: 密雲圓悟, ja: Mitsuun Engo, 1566-1642), thiền sư Trung Quốc nổi tiếng dưới thời Minh-Thanh. Sư là người có vai trò lớn trong việc khôi phục truyền thống Thiền Lâm Tế ở Trung Quốc và được người đời tôn xưng là Thiền sư Lâm Tế Nghĩa Huyền thứ hai.

Cuộc đời

Thiếu niên

Sư sinh vào tháng 10 năm 1566 (niên hiệu Gia Tĩnh thứ 45), con nhà họ Tưởng (蔣), quê ở huyện Nghi Hưng (宜興縣), phủ Thường Châu (常州府), tỉnh Giang Tô. Năm 6 tuổi. sư học Kinh Điển Nho Giáo nhưng không hợp. Lớn lên sư chuyên nghề làm nông, tính tình sư ngay thẳng.

Vào năm 8 tuổi, sư đã biết bắt đầu Niệm Phật mà không cần ai chỉ dạy. Năm 15 tuổi, sư bị buộc phải bỏ nghề làm nông để đánh cá bán và nuôi sống bản thân. Năm 16 tuổi, cha mẹ ép sư cưới vợ.

Tu tập

Năm 1587 (21 tuổi), sư đọc Pháp Bảo Đàn Kinh và bị cuốn hút đối với lời dạy về Thiền tông. Một hôm, sư gánh củi đi qua núi, vô tình bó củi va vào thành núi bỗng nhiên sư khai ngộ.

Năm 1594 (29 tuổi), sư bỏ vợ, gia đình và xuất gia với Thiền sư Huyễn Hữu Chính Truyền. Sau đó, sư chuyên tâm tham Thiền dưới sự hướng dẫn của vị thiền sư này.

Năm 1602 (35 tuổi), thiền sư Huyễn Hữu Chính Truyền có chiếu chỉ vua ban đến trụ trì tại Long Trì Viện(龍池院) ở Thường Châu (常州), sư cũng được thầy cử đến đây làm chức Giám Viện.

Chứng ngộ

Một ngày nọ, sư đi qua đỉnh núi Đồng Quan (銅棺山) vô tình trượt liền đại ngộ. Sư đến gặp Thiền sư Huyễn Hữu Chính Truyền trình bài kệ tỏ ngộ và cầu Thiền sư Huyễn Hữu ấn chứng:

Thiền sư Huyễn Hữu hỏi: "Nếu có người hỏi, ông đáp thế nào?" Sư đưa nắm tay lên.

Huyễn Hữu hỏi: "Lão tăng không hiểu ông đắc là đắc cái gì?"

Sư đáp: "Đừng nói hoà thượng không hiểu, ba thời chư Phật còn không hiểu!"

Một hôm, thiền sư Huyễn Hữu đưa cây phất trần lên hỏi: "Các ngài còn có gì không?".

Sư nghiêm nghị hét một tiếng. Huyễn Hữu bảo: Hét hay đấy!

Sư lại hét lên hai tiếng, rồi trở về chỗ ngồi. Thiền sư Huyễn Hữu ấn khả cho sư.

Năm 1611 (46 tuổi), thiền sư Huyễn Hữu Chính Truyền đã tập hợp tứ chúng lại và thực hiện buổi lễ truyền pháp, trong buổi lễ này ngài trao cho sư tấm pháp y (cà sa) làm biểu thị cho sự truyền pháp và công nhận sư là pháp tử của mính, phú pháp cho sư kế thừa và nối tiếp tông Lâm Tế.

Hoằng pháp

Năm 1614, thiền sư Huyễn Hữu Chính Truyền thị tịch, sư trọn hiếu ở bên tháp thầy 3 năm. Và đến tháng 4 năm 1617, sư kế tiếp thầy trụ trì tại Long Trì Viện.

Năm 1624, sư đến trụ trì, thuyết pháp tại chùa Thông Huyền (通玄寺) ở núi Thiên Thai (天台山).

Tháng 3 năm 1625, sư đến trụ trì tại chùa Quảng Huệ (廣慧寺) ở Hải Diêm (海塩), Gia Hưng (嘉興, tỉnh Phúc Kiến.

Tháng 3 năm 1630, sư sáng lập Vạn PhúcTự (萬福寺) ở núi Hoàng Bá (黃檗山), Phúc Châu, Tỉnh Phúc Kiến.

Năm 1632, sư đến trụ trì tại chùa Quảng Lợi (廣利寺) ở Dục Vương Sơn (育王山), Minh Châu, Tỉnh Triết Giang. Và trong năm sư chuyển đến trụ trì tại Thiên Đồng Cảnh Đức Thiền Tự ở Ninh Ba, Triết Giang và trùng tu chùa với quy mô lớn.

Năm 1641, vua nhà Thanh ban tặng cho sư một chiếc cà sa tía và thỉnh sư đến trụ trì tại chùa Đại Báo Ân (大報恩寺) ở Kim Lăng.

Năm 1642, sư trở về chùa Thông Huyền và đến ngày 7 tháng 7 cùng năm sư an nhiên thị tịch, hưởng thọ 77 tuổi., vua ban thụy hiệu là Huệ Định Thiền sư.

Tư tưởng và ảnh hưởng

Sư là người chủ trương khôi phục lại thủ thuật tiếp dẫn người học đặc biệt của Tông Lâm Tế là đánh (bổng) và hét (hát) vốn là phương tiện giúp người học đạo nhanh chóng khai ngộ và rất thịnh hành dưới thời của Khai tổ Lâm Tế Nghĩa Huyền nhưng qua các triều đại sau dần phai mờ. Qua việc sử dụng đánh hét để dạy đệ tử, sư trở nên nổi tiếng và được coi là vị Thiền sư nghiêm khắc và xuất sắc dưới thời đó.

Ngoài ra, sư cũng nổi bật qua việc trùng tu lại ngôi Thiên Đồng Cảnh Đức Thiền Tự- ngôi đại danh thắng và là một trong các ngôi Thiền viện tổ đình Thiền tông lâu đời của Trung Quốc và có diện tích khá rộng (45000 m2). Trước khi sư đến trụ trì tại ngôi chùa này thì nơi đây từng nhiều lần chịu nhiều sự đổ nát từ nạn binh đao, hỏa hoạn, lũ lụt. Năm 1638, sư trùng tu tổng thể toàn bộ ngôi chùa này, xây dựng thêm nhiều điện đường quy mô lớn và rất có kết cấu. Tăng chúng đến đây tham học hơn 1000 người, cư sĩ, phật tử đến hỏi đạo rất đông. Ngôi tổ đình này từ đó đến nay thuộc Thiền Lâm Tế chính tông.

Ngoài việc dạy Thiền cho các Thiền tăng, sư cũng chú trọng đến việc dạy Thiền cho các vị nữ tu, ni sư và trong những vị nữ tu này có người ngộ đạo và được sư truyền pháp, điển hình như Thiền sư ni Trượng Tuyết Thông Túy, Thạch Kỳ Thông Vân... Những vị nữ tu này về sau trở thành những thiền sư ni nổi tiếng theo cách giáo hóa riêng của họ.

Trong suốt 30 năm giáo hóa của mình, sư đã nỗ lực khôi phục lại Tông Lâm Tế qua những bài thuyết pháp và đường lối thực hành Thiền Thoại Đầu. Người theo sư quy y, thọ giới và nghe thuyết pháp có tới 30,000 người, đệ tử xuất gia 300 người, 12 người được sư ấn khả và cho nối pháp. Từ những nỗ lực và kỳ tích đó, sư được người đời tôn kính là Lâm Tế thứ 2. Kế thừa tư tưởng và phong cách của sư, các đệ tử nối pháp của sư như Thiền sư Phí Ẩn Thông Dung, Mộc Trân Đạo Mân cũng nỗ lực dùng các phương pháp đánh, hét để khôi phục lại tinh thần tông Lâm Tế và biên soạn nhiều tác phẩm liên quan đến lịch sử và đường lối thực hành của Thiền tông.

Cuộc đời, hành trạng của sư được các đệ tử ghi lại trong bộ Mật Vân Thiền Sư Ngữ Lục (密雲禪師語錄) gồm 12 quyển.

Tham khảo

  1. Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-kuang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
  2. Das Lexikon der Östlichen Weisheitslehren, Bern 1986.
  3. Phật Tổ Đạo Ảnh, quyển 2, Thiền Sư Hư Vân biên soạn, đệ tử Đại Sư Tuyên Hóa hiệu đính.
  4. Enlightenment in Dispute: The Reinvention of Chan Buddhism in Seventeenth Century - by Jiang Wu.
  5. Project MUSE (muse.jhu.edu) Late Imperial China (volume 17).