Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nguyễn Phúc Hồng Tố”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Trình soạn thảo mã nguồn 2017
Dòng 6: Dòng 6:
| cỡ hình =
| cỡ hình =
| ghi chú hình =
| ghi chú hình =
| chức vị =
| tước vị đầy đủ =
| tên đầy đủ = '''Nguyễn Phúc Hồng Tố'''<br>阮福洪傃
| tên đầy đủ = '''Nguyễn Phúc Hồng Tố'''<br>阮福洪傃
| kiểu tên đầy đủ = Tên húy
| kiểu tên đầy đủ = Tên húy
| tại vị =
| kiểu tại vị =
| hoàng tộc =
| kiểu hoàng tộc =
| sinh = [[25 tháng 10]] năm [[1834]]
| sinh = [[25 tháng 10]] năm [[1834]]
| mất = [[18 tháng 9]] năm [[1922]] (88 tuổi)
| mất = [[18 tháng 9]] năm [[1922]] (88 tuổi)
Dòng 29: Dòng 25:
Năm Thiệu Trị thứ 6 ([[1846]]), tháng giêng, vua cho triệu các hoàng tử và hoàng đệ 10 người chưa được phong tước vào làm thơ ở điện Đông Các<ref>''Đại Nam thực lục'', tập 6, tr.818</ref>. Bảy người trong số đó là các hoàng tử Hồng Tố, [[Nguyễn Phúc Hồng Phó|Hồng Phó]], [[Nguyễn Phúc Hồng Y|Hồng Y]], [[Nguyễn Phúc Hồng Hưu|Hồng Hưu]] và các hoàng đệ [[Nguyễn Phúc Miên Tằng|Miên Tằng]], [[Nguyễn Phúc Miên Kiền|Miên Kiền]], [[Nguyễn Phúc Miên Lâm|Miên Lâm]] đều trúng cách. Tháng 3 (âm lịch) năm đó, vua phong tước ban thưởng cho cả 7 hoàng thân được trúng cách, hoàng tử Hồng Tố được phong làm '''Hoằng Trị Quận công''' (弘治郡公)<ref>''Đại Nam thực lục'', tập 6, tr.846</ref>.
Năm Thiệu Trị thứ 6 ([[1846]]), tháng giêng, vua cho triệu các hoàng tử và hoàng đệ 10 người chưa được phong tước vào làm thơ ở điện Đông Các<ref>''Đại Nam thực lục'', tập 6, tr.818</ref>. Bảy người trong số đó là các hoàng tử Hồng Tố, [[Nguyễn Phúc Hồng Phó|Hồng Phó]], [[Nguyễn Phúc Hồng Y|Hồng Y]], [[Nguyễn Phúc Hồng Hưu|Hồng Hưu]] và các hoàng đệ [[Nguyễn Phúc Miên Tằng|Miên Tằng]], [[Nguyễn Phúc Miên Kiền|Miên Kiền]], [[Nguyễn Phúc Miên Lâm|Miên Lâm]] đều trúng cách. Tháng 3 (âm lịch) năm đó, vua phong tước ban thưởng cho cả 7 hoàng thân được trúng cách, hoàng tử Hồng Tố được phong làm '''Hoằng Trị Quận công''' (弘治郡公)<ref>''Đại Nam thực lục'', tập 6, tr.846</ref>.


Năm [[Tự Đức]] thứ 3 ([[1850]]), thầy học của các hoàng thân là [[Võ Xuân Cẩn]], đồng thời là cha vợ của vua, dâng sớ nói: “''Các hoàng thân phần nhiều chỉ thích chơi đùa, không đến nghe giảng''”. Vua sai [[phủ Tôn Nhân]] xét duyệt thì 4 hoàng thân là [[Nguyễn Phúc Miên Sạ|Miên Sạ]] (hoàng tử thứ 49 của [[Minh Mạng]]), [[Nguyễn Phúc Hồng Y|Hồng Y]] (hoàng tử thứ tư của Thiệu Trị), Hồng Tố và Hồng Truyền (hoàng tử thứ 12 của Thiệu Trị) đều chỉ đến nghe giảng có 4 ngày, nên bị phạt lương 3 tháng<ref>''Đại Nam thực lục'', tập 7, tr.164</ref>. Một số hoàng thân khác cũng bị phạt lương vì việc này.
Năm [[Tự Đức]] thứ 3 ([[1850]]), thầy học của các hoàng thân là [[Võ Xuân Cẩn]], đồng thời là cha vợ của vua, dâng sớ nói: “''Các hoàng thân phần nhiều chỉ thích chơi đùa, không đến nghe giảng''”. Vua sai [[phủ Tôn Nhân]] xét duyệt thì 4 hoàng thân là [[Nguyễn Phúc Miên Sạ|Miên Sạ]] (hoàng tử thứ 49 của [[Minh Mạng]]), [[Nguyễn Phúc Hồng Y|Hồng Y]] (hoàng tử thứ tư của Thiệu Trị), Hồng Tố và [[Nguyễn Phúc Hồng Truyền|Hồng Truyền]] (hoàng tử thứ 12 của Thiệu Trị) đều chỉ đến nghe giảng có 4 ngày, nên bị phạt lương 3 tháng<ref>''Đại Nam thực lục'', tập 7, tr.164</ref>. Một số hoàng thân khác cũng bị phạt lương vì việc này.


Năm [[Tự Đức]] thứ 31 ([[1878]]), vua anh gia phong cho ông làm '''Nghi Quốc công''' (宜國公)<ref>''Đại Nam thực lục'', tập 8, tr.270</ref>.
Năm [[Tự Đức]] thứ 31 ([[1878]]), vua anh gia phong cho ông làm '''Nghi Quốc công''' (宜國公)<ref>''Đại Nam thực lục'', tập 8, tr.270</ref>.
Dòng 39: Dòng 35:
Quốc công Hồng Tố mất ngày 27 tháng 7 (âm lịch) năm [[Nhâm Tuất]] ([[1922]]) dưới thời vua [[Khải Định]], hưởng thọ 89 tuổi, được truy phong làm '''Hoằng Trị vương''' (弘治王)<ref name=":0">''Nguyễn Phúc tộc thế phả'', tr.353</ref>. Ông là hoàng tử sống thọ nhất trong số những vị hoàng tử con vua [[Thiệu Trị]]. Mộ của ông được táng ở làng Dương Xuân, (thuộc [[Hương Thủy]], tỉnh [[Thừa Thiên]]), phủ thờ dựng ở [[Phú Cát]].
Quốc công Hồng Tố mất ngày 27 tháng 7 (âm lịch) năm [[Nhâm Tuất]] ([[1922]]) dưới thời vua [[Khải Định]], hưởng thọ 89 tuổi, được truy phong làm '''Hoằng Trị vương''' (弘治王)<ref name=":0">''Nguyễn Phúc tộc thế phả'', tr.353</ref>. Ông là hoàng tử sống thọ nhất trong số những vị hoàng tử con vua [[Thiệu Trị]]. Mộ của ông được táng ở làng Dương Xuân, (thuộc [[Hương Thủy]], tỉnh [[Thừa Thiên]]), phủ thờ dựng ở [[Phú Cát]].


Hoằng Trị vương có tất cả 4 người con trai và 10 người con gái<ref name=":0" />. Ông được ban cho bộ chữ ''Võng'' (网) để đặt tên cho các con cháu trong phòng<ref>''Đại Nam thực lục'', tập 7, tr.216</ref>.
Hoằng Trị vương có tất cả 4 người con trai và 10 người con gái<ref name=":0" />. Ông được ban cho bộ chữ ''Võng'' (网) để đặt tên cho các con cháu trong phòng<ref>''Đại Nam thực lục'', tập 7, tr.216</ref>. Công tử Ưng Thự ([[1859]] – ?), con trai trưởng của ông với thứ thất Trương Phúc Thị Đào<ref name=":1">''Đại Nam thực lục'', tập 7, tr.1310</ref>, tập phong làm ''Hoằng Trị Quận công'' năm [[1910]]. Thứ thất Trương Phúc thị là con gái của viên quan tên Trương Phúc Phú, nguyên quán ở [[Thanh Hóa]]<ref name=":1" />.


== Tham khảo ==
== Tham khảo ==
Dòng 45: Dòng 41:
* [[Quốc sử quán triều Nguyễn]] (2006), ''[[Đại Nam liệt truyện]] chính biên'', Tổ Phiên dịch [[Viện Sử học]] dịch, Nhà xuất bản Thuận Hóa
* [[Quốc sử quán triều Nguyễn]] (2006), ''[[Đại Nam liệt truyện]] chính biên'', Tổ Phiên dịch [[Viện Sử học]] dịch, Nhà xuất bản Thuận Hóa
* [[Quốc sử quán triều Nguyễn]] (2006), ''[[Đại Nam thực lục]] chính biên'', Tổ Phiên dịch [[Viện Sử học]] dịch, Nhà xuất bản Giáo dục
* [[Quốc sử quán triều Nguyễn]] (2006), ''[[Đại Nam thực lục]] chính biên'', Tổ Phiên dịch [[Viện Sử học]] dịch, Nhà xuất bản Giáo dục
* [[Quốc sử quán triều Nguyễn]] (2012), ''[[Đại Nam thực lục]] Chính biên Đệ lục kỷ phụ biên'', Cao Tự Thanh dịch, Nhà xuất bản Văn hóa - Văn nghệ


== Chú thích ==
== Chú thích ==

Phiên bản lúc 08:43, ngày 10 tháng 4 năm 2020

Hoằng Trị vương
弘治王
Hoàng tử nhà Nguyễn
Thông tin chung
Sinh25 tháng 10 năm 1834
Mất18 tháng 9 năm 1922 (88 tuổi)
An tángHương Thủy, Thừa Thiên - Huế
Hậu duệ4 con trai
10 con gái
Tên húy
Nguyễn Phúc Hồng Tố
阮福洪傃
Thân phụNguyễn Hiến Tổ
Thiệu Trị
Thân mẫuQuý nhân
Ngô Thị Xuân

Nguyễn Phúc Hồng Tố (chữ Hán: 阮福洪傃; 25 tháng 10 năm 183418 tháng 9 năm 1922), tước phong Hoằng Trị vương (弘治王), là một hoàng tử con vua Thiệu Trị nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam.

Tiểu sử

Hoàng tử Hồng Tố sinh ngày 23 tháng 9 (âm lịch) năm Giáp Ngọ (1834), là con trai thứ sáu của vua Thiệu Trị, mẹ là Thất giai Quý nhân Ngô Thị Xuân[1]. Khi còn là hoàng tử, ông là người có học hạnh.

Năm Thiệu Trị thứ 6 (1846), tháng giêng, vua cho triệu các hoàng tử và hoàng đệ 10 người chưa được phong tước vào làm thơ ở điện Đông Các[2]. Bảy người trong số đó là các hoàng tử Hồng Tố, Hồng Phó, Hồng Y, Hồng Hưu và các hoàng đệ Miên Tằng, Miên Kiền, Miên Lâm đều trúng cách. Tháng 3 (âm lịch) năm đó, vua phong tước ban thưởng cho cả 7 hoàng thân được trúng cách, hoàng tử Hồng Tố được phong làm Hoằng Trị Quận công (弘治郡公)[3].

Năm Tự Đức thứ 3 (1850), thầy học của các hoàng thân là Võ Xuân Cẩn, đồng thời là cha vợ của vua, dâng sớ nói: “Các hoàng thân phần nhiều chỉ thích chơi đùa, không đến nghe giảng”. Vua sai phủ Tôn Nhân xét duyệt thì 4 hoàng thân là Miên Sạ (hoàng tử thứ 49 của Minh Mạng), Hồng Y (hoàng tử thứ tư của Thiệu Trị), Hồng Tố và Hồng Truyền (hoàng tử thứ 12 của Thiệu Trị) đều chỉ đến nghe giảng có 4 ngày, nên bị phạt lương 3 tháng[4]. Một số hoàng thân khác cũng bị phạt lương vì việc này.

Năm Tự Đức thứ 31 (1878), vua anh gia phong cho ông làm Nghi Quốc công (宜國公)[5].

Năm Thành Thái thứ 3 (1891), tháng chạp, vua ra chỉ thăng cho quốc công Hồng Tố làm Hoằng Trị công (弘治公), cùng với quốc công Hồng Kiện làm An Phúc công (安福公)[6].

Năm Thành Thái thứ 8 (1896), vua cho Hoằng Trị công giữ chức Hữu tôn khanh Phủ Tôn nhân[7]. Năm thứ 9 (1897), tháng 6 (âm lịch), ông được tấn phong làm Hoằng Trị Quận vương (弘治郡王)[8].

Quốc công Hồng Tố mất ngày 27 tháng 7 (âm lịch) năm Nhâm Tuất (1922) dưới thời vua Khải Định, hưởng thọ 89 tuổi, được truy phong làm Hoằng Trị vương (弘治王)[9]. Ông là hoàng tử sống thọ nhất trong số những vị hoàng tử con vua Thiệu Trị. Mộ của ông được táng ở làng Dương Xuân, (thuộc Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên), phủ thờ dựng ở Phú Cát.

Hoằng Trị vương có tất cả 4 người con trai và 10 người con gái[9]. Ông được ban cho bộ chữ Võng (网) để đặt tên cho các con cháu trong phòng[10]. Công tử Ưng Thự (1859 – ?), con trai trưởng của ông với thứ thất Trương Phúc Thị Đào[11], tập phong làm Hoằng Trị Quận công năm 1910. Thứ thất Trương Phúc thị là con gái của viên quan tên Trương Phúc Phú, nguyên quán ở Thanh Hóa[11].

Tham khảo

Chú thích

  1. ^ Nguyễn Phúc tộc thế phả, tr.352
  2. ^ Đại Nam thực lục, tập 6, tr.818
  3. ^ Đại Nam thực lục, tập 6, tr.846
  4. ^ Đại Nam thực lục, tập 7, tr.164
  5. ^ Đại Nam thực lục, tập 8, tr.270
  6. ^ Đại Nam thực lục, phụ biên, mục 295
  7. ^ Đại Nam thực lục, phụ biên, mục 722
  8. ^ Đại Nam thực lục, phụ biên, mục 758
  9. ^ a b Nguyễn Phúc tộc thế phả, tr.353
  10. ^ Đại Nam thực lục, tập 7, tr.216
  11. ^ a b Đại Nam thực lục, tập 7, tr.1310