Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Bùi Phùng”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Đã lùi lại sửa đổi của 113.185.45.251 (Thảo luận) quay về phiên bản cuối của 2402:9D80:248:F44E:8004:2DCF:21D2:A186
Thẻ: Lùi tất cả
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Dòng 69: Dòng 69:
• Năm 1937, ông được giác ngộ cách mạng qua nhóm thanh niên sinh viên Dân chủ [[Trường Bưởi|trường Bưởi Hà Nội]] do ông [[Lê Toàn Thư]] phụ trách. Ông tham gia Hội truyền bá quốc ngữ<ref>[https://luutru.gov.vn/hoi-truyen-ba-chu-quoc-ngu-196-vtlt.htm Hội Truyền bá chữ Quốc ngữ]</ref>, lập các Hội nghiên cứu sách báo, thể thao, văn nghệ... rồi ông tổ chức mở lớp học (năm 1939), vừa dạy chữ vừa tuyên truyền giác ngộ thanh thiếu niên, vận động nhân dân xây dựng phát triển các cơ sở đoàn thể cứu quốc của [[Mặt trận Việt Minh]] đấu tranh chống Nhật, Pháp ở địa phương<ref> [http://nxbqdnd.com.vn/?nav=book-detail&id=49161 Truyện ký: Cung trầm trong bản hùng ca] Nxb QĐND</ref>
• Năm 1937, ông được giác ngộ cách mạng qua nhóm thanh niên sinh viên Dân chủ [[Trường Bưởi|trường Bưởi Hà Nội]] do ông [[Lê Toàn Thư]] phụ trách. Ông tham gia Hội truyền bá quốc ngữ<ref>[https://luutru.gov.vn/hoi-truyen-ba-chu-quoc-ngu-196-vtlt.htm Hội Truyền bá chữ Quốc ngữ]</ref>, lập các Hội nghiên cứu sách báo, thể thao, văn nghệ... rồi ông tổ chức mở lớp học (năm 1939), vừa dạy chữ vừa tuyên truyền giác ngộ thanh thiếu niên, vận động nhân dân xây dựng phát triển các cơ sở đoàn thể cứu quốc của [[Mặt trận Việt Minh]] đấu tranh chống Nhật, Pháp ở địa phương<ref> [http://nxbqdnd.com.vn/?nav=book-detail&id=49161 Truyện ký: Cung trầm trong bản hùng ca] Nxb QĐND</ref>


• Tháng 8 năm 1944 đến tháng 3 năm 1945, ông bị thực dân Pháp bắt giam ở nhà tù Bắc Ninh, rồi chuyển về [[Hoả Lò]] Hà Nội (từ thời gian này ông lấy bí danh '''''Bùi Phùng''''').
• Tháng 8 năm 1944 đến tháng 3 năm 1945, ông bị thực dân Pháp bắt giam ở nhà tù Bắc Ninh, rồi chuyển về [[Hoả Lò]] Hà Nội (từ thời gian này ông dùng bí danh '''''Bùi Phùng''''').


• Ra tù, ông được [[Tỉnh ủy Bắc Ninh|Tỉnh bộ Bắc Ninh]] giao công viêc tham gia tổ chức chuẩn bị Tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở 5 huyện thuộc [[Kinh Bắc|phủ Thuận An]], nam [[sông Đuống]], tỉnh [[Lịch sử hành chính Bắc Ninh|Bắc Ninh]].
• Ra tù, ông được [[Tỉnh ủy Bắc Ninh|Tỉnh bộ Bắc Ninh]] giao công viêc tham gia tổ chức chuẩn bị Tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở 5 huyện thuộc [[Kinh Bắc|phủ Thuận An]], nam [[sông Đuống]], tỉnh [[Lịch sử hành chính Bắc Ninh|Bắc Ninh]].

Phiên bản lúc 10:27, ngày 21 tháng 4 năm 2020

Bùi Phùng
Chức vụ
Nhiệm kỳ1977 – 1988
Bộ trưởng• Võ Nguyên Giáp
(1946 - 1980)
• Văn Tiến Dũng
(1980 - 1987)
• Lê Đức Anh
(1987 - 1991)
Vị trí Việt Nam
Nhiệm kỳ1980 – 1990
Chủ nhiệm• Nguyễn Lam
• Võ Văn Kiệt
• Đậu Ngọc Xuân
• Phan Văn Khải
Nhiệm kỳ1977 – 1982
Tiền nhiệm• Vũ Xuân Chiêm
Kế nhiệm• Đinh Thiện
Phó Chủ nhiệm• Nguyễn Chánh
• Đinh Thiện
• Hoàng Điền
• Phan Khắc Hy
• Hoàng Trà
Chủ nhiệm Hậu cần Quân giải phóng Miền Nam
Nhiệm kỳ1965 – 1975
Tư lệnh Miền• Trần Văn Trà
• Hoàng Văn Thái
Tiền nhiệmNguyễn Văn Thi
Kế nhiệm(1976-Kết thúc)
Thông tin chung
Quốc tịch Việt Nam
Sinh(1920-09-10)10 tháng 9, 1920
(Đặng Xá, Gia Lâm, Hà Nội, Liên bang Đông Dương)
Mất• 22 tháng 11, 1999(1999-11-22) (79 tuổi)
Binh nghiệp
Thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam
Quân Giải phóng miền Nam
Phục vụ Việt Nam
Cấp bậc
Tham chiến
Khen thưởng Huân chương Hồ Chí Minh
• 2 Huân chương Quân công hạng Nhất
Huân chương Chiến thắng hạng Nhất
• 2 Huân chương Kháng chiến hạng Nhất

Bùi Phùng[1] (1920 - 1999) là một tướng lĩnh cấp cao Quân đội nhân dân Việt Nam, quân hàm Thượng tướng, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, nguyên Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần QĐND, nguyên Chủ nhiệm Hậu cần Quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam - Huân chương Hồ Chí Minh[2]

Tiểu sử

Ông tên thật là Bùi Văn Thận, quê quán: thôn Lời, xã Đặng Xá, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh, nay là thành phố Hà Nội.

• Năm 1937, ông được giác ngộ cách mạng qua nhóm thanh niên sinh viên Dân chủ trường Bưởi Hà Nội do ông Lê Toàn Thư phụ trách. Ông tham gia Hội truyền bá quốc ngữ[3], lập các Hội nghiên cứu sách báo, thể thao, văn nghệ... rồi ông tổ chức mở lớp học (năm 1939), vừa dạy chữ vừa tuyên truyền giác ngộ thanh thiếu niên, vận động nhân dân xây dựng phát triển các cơ sở đoàn thể cứu quốc của Mặt trận Việt Minh đấu tranh chống Nhật, Pháp ở địa phương[4]

• Tháng 8 năm 1944 đến tháng 3 năm 1945, ông bị thực dân Pháp bắt giam ở nhà tù Bắc Ninh, rồi chuyển về Hoả Lò Hà Nội (từ thời gian này ông dùng bí danh Bùi Phùng).

• Ra tù, ông được Tỉnh bộ Bắc Ninh giao công viêc tham gia tổ chức chuẩn bị Tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở 5 huyện thuộc phủ Thuận An, nam sông Đuống, tỉnh Bắc Ninh.

• Ngày 22 tháng 8 năm 1945, chính quyền Cách mạng huyện Gia Lâm được thành lập, ông được Tỉnh bộ Bắc Ninh giao làm Chủ tịch Uỷ ban Cách mạng lâm thời huyện Gia Lâm [5]

• Năm 1946, Chủ tịch Uỷ ban Kháng chiến - hành chính huyện Quế Dương, tỉnh Bắc Ninh.

• Cuối năm 1947, Tỉnh uỷ viên kiêm Bí thư huyện Võ Giàng, sau đó làm Trưởng Ban Đảng vụ Tỉnh ủy Bắc Ninh[6]

• Đầu năm 1949, Phó ban Đảng vụ Liên khu ủy Việt Bắc, sau đó được cử đi học Trường Đảng Trung ương Nguyễn Ái Quốc khoá 2 tại Việt Bắc.

Tháng 3 năm 1950, ông được điều động chuyển công tác vào quân đội:

• Ông là một trong 36 cán bộ đầu tiên của Cục Vận tải thuộc Tổng cục Cung cấp (nay là Tổng cục Hậu cần). Từ tháng 3 năm 1950 đến tháng 7 năm 1954 lần lượt giữ các chức vụ:

• Chủ nhiệm Chính trị - Bí thư (đầu tiên) Liên chi bộ Cục Vận tải.

• Chỉ huy trưởng trung trạm vận tải Việt Bắc, rồi trung trạm trưởng vận tải Liên Khu 3,4 thuộc Cục Vận tải.

• Trưởng phòng Kế hoạch Cục Vận tải.

• Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, ông phụ trách điều hành Kế hoạch vận tải, Sở chỉ huy tiền phương Chiến dịch.

Từ tháng 8 năm 1954 đến tháng 6 năm 1964:

• Hiệu phó, Phó Bí thư Đảng uỷ Trường Cán bộ Cung cấp (đơn vị tiền thân của Học viện Hậu cần).

• Học viên Khoa Chỉ huy Hậu cần - HVHC Trung Quốc.

• Hiệu phó, Quyền Hiệu trưởng trường Sĩ quan Hậu cần[7]

• 1961 - 1964, Tham mưu phó Tổng cục Hậu cần. Tham gia (Chủ nhiệm hậu cần) các chiến dịch Cánh đồng Chum - Xiêng Khoảng (1961) và chiến dịch Nậm Thà (1962) tại Lào.

Tháng 6 năm 1964 đến năm 1975, ông vào chiến trường miền Nam:

• Phó Chủ nhiệm - Tham mưu trưởng, rồi Chủ nhiệm Hậu cần Quân giải phóng miền Nam (Bộ chỉ huy Miền)[8]

• Trong Chiến dịch Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975chiến dịch Hồ Chí Minh, ông được giao trọng trách Chủ nhiệm Hậu cần của Bộ Tư lệnh chiến dịch[9].

Sau ngày Sài Gòn được giải phóng:

• Đầu năm 1976, Trưởng đại diện Thủ trưởng Tổng cục Hậu cần ở phía Nam.

• Tháng 5 năm 1976 đến tháng 3 năm 1977, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần.

• Tháng 3 năm 1977, Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần và được bầu làm Bí thư Đảng uỷ Tổng cục.

• Tháng 11 năm 1977 đến năm 1982, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần.

• Từ năm 1980, Thứ trưởng thường trực Bộ Quốc phòng kiêm Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước (nay là Bộ Kế hoạch và Đầu tư).

• Ông là Uỷ viên Thường vụ Quân uỷ Trung ương, Uỷ viên Hội đông Quân sự - Bộ Quốc phòng.

• Tháng 12 năm 1988, ông thôi giũ chức Thứ trưởng Bộ Quốc phòng.

• Tháng 2 năm 1990, ông thôi giữ chức Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Kế hoạch nhà nước.

• Từ tháng 2 năm 1990 đến tháng 11 năm 1992, ông được Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa VI chỉ định tham gia vào Ban chấp hành Lâm thời Trung ương Hội Cựu chiến binh Việt Nam và được cử làm Uỷ viên Thường trực.

• Ông được bầu là Uỷ viên Trung ương Đảng tại Đại hội Đảng lần thứ IV (nhiệm kỳ 1976-1982) và Đại hội Đảng lần thứ V (nhiệm kỳ 1982-1986).
• Ông được bầu là đại biểu Quốc hội khoá VII (nhiệm kỳ 1981-1987) và Quốc hội khóa VIII (nhiệm kỳ 1987-1992).

Lịch sử thụ phong quân hàm

Năm thụ phong 1974 1980 1986
Quân hàm Tập tin:Vietnam People's Army Major General.jpg Tập tin:Vietnam People's Army Lieutenant General.jpg Tập tin:Vietnam People's Army Colonel General.jpg
Cấp bậc Thiếu tướng Trung tướng Thượng tướng

Phần thưởng cao quý

Đời tư

  • Cụ thân sinh ra ông là một nhà nho, cụ mất sớm khi ông mới 2 tuổi
  • Mẹ ông một mình tần tảo nuôi con ăn học đến khi ông tốt nghiệp bậc Cao đẳng tiểu học (Certificat De'tudes Primaires Franco-Indigenes).
  • Năm 1942, ông lập gia đình với bà Vũ Thị Soạn, ông bà có ba người con trai: Bùi Tiến Dũng (1943), Bùi Vinh (1951) và Bùi Minh Khánh (1960)- cả ba đều phục vụ trong quân đội và đã nghỉ hưu.

Chú thích

  1. ^ Phim tài liệu về Thượng tướng Bùi Phùng: VỊ TƯỚNG CỦA THẾ TRẬN HẬU CẦN (trên YouTube)
  2. ^ Từ điển Bách khoa Quân sự Việt Nam 2004 - Bùi Phùng (tr. 105)
  3. ^ Hội Truyền bá chữ Quốc ngữ
  4. ^ Truyện ký: Cung trầm trong bản hùng ca Nxb QĐND
  5. ^ Lịch sử Đảng bộ huyện Gia Lâm (NXB Thông tấn)
  6. ^ Lịch sử Đảng bộ huyện Quế Võ (NXB Thông tấn)
  7. ^ Lịch sử truyền thống Học viện Hậu cần 1951-2017 (NXB Quân đội nhân dân)
  8. ^ Lịch sử Bộ chỉ huy Miền 1961-1976 (NXB Chính trị quốc gia)
  9. ^ [https://www.nhandan.com.vn/chinhtri/item/26112202-bo-tu-lenh-mien-trong-cuoc-tong-tien-cong-va-noi-day-mua-xuan-nam-1975.html Bộ Tư lệnh Miền trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975

Tham khảo