Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Xe tăng”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 451: Dòng 451:
Những xe tăng hiện đại như [[Leopard 2A5]], [[T-90]] đều có bộ lọc không khí và điều hòa nhiệt độ để chiến đấu trong điều kiện cuộc chiến tranh hóa học. Tuy nhiên, hiện nay chỉ xe [[T-80]], [[T-90]] đầy dủ các thiết bị diều khiển từ xa, hệ thống cảm biến, tự động chiến đấu để đảm bảo trong môi trường độc hại (toàn bộ công tác tổ lái nằm trong giáp).
Những xe tăng hiện đại như [[Leopard 2A5]], [[T-90]] đều có bộ lọc không khí và điều hòa nhiệt độ để chiến đấu trong điều kiện cuộc chiến tranh hóa học. Tuy nhiên, hiện nay chỉ xe [[T-80]], [[T-90]] đầy dủ các thiết bị diều khiển từ xa, hệ thống cảm biến, tự động chiến đấu để đảm bảo trong môi trường độc hại (toàn bộ công tác tổ lái nằm trong giáp).


Tuy đều dự phòng khả năng hoạt động trong môi trường độc hại lâu, nhưng hàu hết các xe đều không có khả năng đó. Người ta chỉ sản xuất số lượng ít các xe mang đủ các bộ phận điều hòa lọc không khí. Các xe tank hiện đại khi cần đều có thể lắp các máy đó.
Tuy đều dự phòng khả năng hoạt động trong môi trường độc hại lâu, nhưng hầu hết các xe đều không có khả năng đó. Người ta chỉ sản xuất số lượng ít các xe mang đủ các bộ phận điều hòa lọc không khí. Các xe tank hiện đại khi cần đều có thể lắp các máy đó.


Phía trong cùng giáp chính là một lớp mềm, đây là một phức hợp [[composite]] kín chứa những nguyên tố nặng như chì chống phóng xạ. Một loại xe tăng thử nghiệm [[Object 279]] <ref>http://legion.wplus.net/guide/army/ta/279.shtml</ref> của Liên Xô trước đây thiết kế một loại xe tăng có thành vát chống xung lực một vụ nổ hạt nhân, 4 xích đi được trên đất yếu như tuyết hay sản phẩm của vụ nổ.
Phía trong cùng giáp chính là một lớp mềm, đây là một phức hợp [[composite]] kín chứa những nguyên tố nặng như chì chống phóng xạ. Một loại xe tăng thử nghiệm [[Object 279]] <ref>http://legion.wplus.net/guide/army/ta/279.shtml</ref> của [[Liên Xô]] trước đây thiết kế một loại xe tăng có thành vát chống xung lực một vụ nổ hạt nhân, 4 xích đi được trên đất yếu như tuyết hay sản phẩm của vụ nổ.


===Hệ thống dập lửa, bảo vệ tổ lái.===
===Hệ thống dập lửa, bảo vệ tổ lái.===

Phiên bản lúc 07:46, ngày 11 tháng 6 năm 2007

Xe tăng T-90 Ấn Độ

Xe tăng là một loại vũ khí, có nhiệm vụ chiến đấu chống lại xe cơ giới. Xe tăng tấn công bằng đại bác nòng dài bắn đạn xuyên và phòng thủ bằng giáp tốt.

Xe tăng được xếp trong nhóm các xe bọc thép dã chiến chạy xích. Đỉnh cao của nhiệm vụ chiến đấu chống lại xe cơ giới là nhiệm vụ đấu tăng.

Những bộ phận chủ yếu của xe tăng là: một đại bác nòng dài, gọi là súng chính (primary gun) đặt trong tháp pháo quay 360 độ. Tháp pháo đặt trên xe dã chiến chạy bằng xích. Giáp xe rất tốt, tốt nhất trong các xe chiến đấu trên bộ. Nhưng cũng có những xe hơi khác, ví dụ Stridsvagn 103 của Thụy Điển.

Xe có thêm súng đồng trục gắn song song với súng chính, súng nóc phòng không và chống bộ binh. Ngoài diệt xe cơ giới ra xe tăng dùng để tấn công công sự, chống bộ binh, máy bay, mìn... nhưng không chuyên.

Vài nét về phân biệt xe tăng với các loại xe khác.

Nhiệm vụ của xe tăng.

Các xe bọc thép cơ giới khác nhau xuất hiện từ Thế chiến 1. Xem Xe tăng cổ.

Từ đầu Thế chiến 2, từ xe tăng (tank) chỉ còn dành để chỉ thứ xe bọc thép dầy chiến đấu với xe bọc thép, chứ không còn để chỉ tất cả các loại xe bọc thép như trước đây. Thời điểm đó có thể coi là thời điểm khẳng định cái tên "xe tăng". Trước đây người ta gọi chung các xe có giáp là tăng, đến thời điểm nói trên, loại xe bọc thép chung chung đó trở thành nhiều loại xe khác nhau. Xe tăng được thiết kế thỏa mãn cả hai nhiệm vụ, chế thắng trong đấu tăng và sống sót trong môi trường nhiều thành phần phức tạp.

Xe tăng ra đời cùng Binh chủng hợp thành cơ giới và Chiến tranh chớp nhoáng Blitzkrieg.

Xe tăng được thiết kế thỏa mãn 3 đặc điểm chính: tấn công, phòng thủ và cơ động. Hiện nay các loại xe tăng nổi tiếng được sản xuất tại một số nước là các cường quốc quân sự và kinh tế trên thế giới và cũng là các nước có truyền thống sử dụng xe tăng trong chiến tranh như Nga (Liên Xô), Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Đức, Israel, và gần đây là Trung Quốc, Ấn Độ... Mỗi quốc gia tuỳ quan điểm, kinh nghiệm và điều kiện của mình chế tạo xe theo ưu tiên riêng cho các tính năng của xe tăng.

Xe tăng khác các xe chống tăng (tiếng Anh: tank destroyer; tiếng Nga: Истребитель танков). Các xe này có thể bắn hỏng xe tăng trong một số điều kiện riêng, nhưng không thể chiến đấu ngang hàng với xe tăng. Thông thường các xe chống tăng phục kích, đánh chặn, ẩn kín, dùng chiến thuật như pháo chống tăng. Chúng có nhiều đặc điểm của xe tăng không hoàn chỉnh. Hồi Thế chiến thứ hai, người ta đặt pháo chống tăng lên xe, đây là một giải pháp tạm thời trước khi sản xuất được số lượng lớn xe tăng (ví dụ, ZIS-30 của Liên Xô). Cũng có những xe giống hệt xe tăng nhưng giáp yếu, không được coi là xe tăng (ví dụ, M-10 Anh). Sau đó, khi giáp tăng phát triển, người ta bớt một số tính năng như tháp pháo quay, giáp... để trang bị được súng mạnh hơn trước khi có xe tăng mới(Ví dụ, SU-85 Liên Xô). Ngày nay có nhiều xe cơ giới dùng tên lửa chống tăng, đây là một hướng kỹ thuật có thể thay thế cho xe tăng (Ví dụ, xe Khrizantema gồm thân xe BMP-3 lắp tên lửa 9К123 ХРИЗАНТЕМА-С, Nga).

Binh chủng hợp thành cơ giới.

Pháo tự hành tấn công bọc thép Đức, PzH2000.
Xe chở bộ binh (IFV) Nga, BMP-1.

Trong khi xe tăng hình thành thì các xe bọc thép khác cũng hình thành. Các xe tăng chủ lực mạnh trên thế giới có: T-72, T-80, T-90 Liên XôNga, Leopard 2 Đức, M1A1, M1A2 Mỹ...

Các xe hỗ trợ bộ binh làm nhỏ hơn, giáp mỏng và mang nhiều súng máy hay súng cối diệt bộ binh (IFV, Infantry Fighting Vehicle). Loại xe này chở bộ binh đến gần điểm xuất phát xung phong, hỗ trợ bộ binh ở tầm rất ngắn (vài trăm mét), khi bộ binh rời xe chiến đấu.

Pháo tự hành, SPG giảm sức cơ động để đổi lấy cỡ nòng súng to (và có thể nòng ngắn để đổi lấy cỡ to nữa), bắn đạn trái phá nặng hơn, đường đạn cong, pháo tự hành bọc thép còn gọi là pháo tự hành tấn công-self propelled asssault gun để đánh chiếm các công sự, hoặc kiêm pháo hỗ trợ dịch từ tiếng Anh "howitzer" (self propelled howitzer). (Xem thêm súng).

Ví dụ của xe hỗ trợ bộ binh ngày nay là những xe bọc thép chở bộ binh Bradley M2 (Mỹ) hay BMP (Nga), ký hiệu là IFV. Bộ binh là nòng cốt của lục quân, xe tăng và pháo tự hành giúp bộ binh hoàn thành nhiệm vụ. IFV cũng có tháp pháo nhưng mang súng máy hạng nặng (25mm, Bradley M2, Mỹ) hay súng cối bắn nhanh (BMP, Nga).

Ví dụ về pháo tự hành tấn công như M109 các phiên bản (M109A6 "Paladin", PzH2000 Đức). 2S1 Gvozdika 122mm, 2s31 Vena 120mm, 2s19 Msta 152mm, 2s3 Akatsia 152mm Nga. Xe tăng, xe hỗ trợ bộ binh, pháo tự hành tấn công đều có tháp pháo quay, đều được bọc thép, đều có thể kiêm một chút nhiệm vụ của nhau.

Ngoài xe tăng MBT, pháo tự hành SPG và xe chiến đấu bộ binh IFV đoàn xe còn nhiều loại xe khác như phòng không, liên lạc, chỉ huy, vận tải..., cộng thêm chi viện từ các binh chủng khác tạo thành Binh chung hợp thành cơ giới.

Bộ binh là thành phần cơ bản của lục quân. Pháo tự hành và xe tăng bảo vệ và giúp đỡ bộ binh hoàn thành nhiệm vụ. Trong đó, xe tăng là lực lượng chính bảo vệ đoàn quân và chiến đấu chống lại binh chủng hợp thành địch.

Chiến tranh chớp nhoáng Blitzkrieg là chiến thuật đánh nhanh sử dụng binh chủng hợp thành cơ giới được Đức phát triển từ Chiến ttranh Tây Ban Nha đến đầu Thế chiến 2. Chiến lược tổ chức chiến tranh này nhanh chóng tập trung được lực lượng rất mạnh. Ngoài Đức, cuối thế chiến II Liên Xô có một số lượng xe cơ giới lớn, sau khi tiến vào Ba Lan, Hồng Quân tiến với tốc độ 150km/ngày trong các chiến dịch lớn.

Quân Đội Nhân Dân Việt Nam khi trừng phạt Khơme đỏ cũng dùng chiến thuật này khi đã áp đảo dịch. Quân địch hiếu chiến nướng hầu hết cơ giới của chúng ở biên giới, ưu thế xe tăng cho phép các đơn vị lục quân đánh tan quân địch, giải phóng Campuchia trong 2 tuần.

Ngoài việc biên chế trong Binh chủng hợp thành, các quân đội lớn đều có các lữ đoàn, sư đoàn xe tăng độc lập. Thậm chí cả tập đoàn quân xe tăng như Thế chiến 2. Trong trận đấu tăng lớn nhất lịch sử, trận Prokhocovka, Tập đoàn quân Cận vệ Hợp thành 5 ở phía trước Tập đoàn quân Cận vệ Thiết giáp 5 làm Thống chế Von Manstein nhầm lẫn. Các đơn vị xe tăng độc lập có thể tăng cường sức mạnh cho các đơn vị khác khi phối hợp, hoặc tham gia những trận đấu tăng quan trọng và dữ dội nhất.

Đôi điều về chiến thuật.

Biên chế và các động tác chiến đấu cơ bản

Các nhiệm vụ chính trên xe tăng là: lái xe, chỉ huy xe (bao quát tình hình, xác định mục tiêu bắn, xác định cách đi), bắn súng chính (đo đạc, nạp đạn, ngắm và bắn), cảnh giới(chống lại bộ binh và máy bay , quan sát và tiêu diệt bằng súng nóc), liên lạc ra ngoài.

  • Biên chế xe trước đây gồm lái xe, nhân viên thông tin kiêm cảnh giới, trưởng xe, pháo thủ, nạp đạn tổng cộng 5 người. Pháo thủ vừa sử dụng súng chính vừa sử dụng súng đồng trục.
  • Ngày nay xe Nga còn 3 người: lái xe, trưởng xe và pháo thủ. Trưởng xe kiêm nhiệm sử dụng súng nóc.
  • Xe phương Tây gồm 4 người do thêm một nạp đạn thủ công. Xe M1 có 2 súng nóc, một khẩu đại liên chống bộ binh và một khẩu trọng liên chống máy bay. Xe Merkava có cả súng cối. Nạp đạn của M1 kiêm sử dụng 1 súng nóc(đại liên chống bộ binh), trưởng xe một súng nóc (trọng liên chống máy bay).

Trưởng xe có điện đài liên lạc ra bên ngoài và intercom liên lạc bên trong xe. Hành động thường xuyên của trưởng xe là quan sát chỉ thị xe đi đúng nhiệm vụ, nếu xuất hiện mục tiêu yếu, trưởng xe tiêu diệt bằng súng nóc. Nếu xuất hiện pháo, bunke hoặc tăng đối phương sẽ chỉ thị cho pháo thủ. Pháo thủ nã đạn cho đến khi địch bị loại khỏi vòng chiến. Súng đồng trục trước Thế chiến 2 là đại bác nhỏ hơn súng chính, nay chỉ còn là khẩu đại liên. Xạ thủ dùng súng đồng trục dể bắn mục tiêu yếu hoặc khống chế địch trong lúc nạp đạn làm việc. Hồi thế chiến 2 khẩu đồng trục rất hữu dụng khi tiêu diệt tổ lái đối phương đang thoát khỏi xe bị bắn hỏng.

Việc tự động hóa súng nóc từ trong xe giúp xe có tầm nhìn tốt và chiến đấu chống lại bộ binh hiệu quả.

Xe thế hệ mới của người Nga có 4 chỗ ngồi nhưng vẫn biên chế 3 người. Một sỹ quan nữa điều khiển các khí tài trang bị thêm hoặc chỉ huy đội xe tăng.

Đấu tăng và Chiến tranh chớp nhoáng Blitzkrieg.

Đầu Chiến tranh thế giới 1, chiến tranh diễn ra trên hệ thống công sự dày đặc. Các công sự dã chiến này có tốc độ xây dựng và sửa chữa cao hơn tốc độ phá hủy khi bắn pháo, làm cuộc chiến lằng nhằng kéo dài, còn gọi là chiến tranh trận địa. Các xe bọc thép dã chiến khắc phục điều đó, chúng như những công sự di động, dễ dàng vượt qua hàng rào và chiến hào, qua mặt súng bộ binh và lựu pháo nòng ngắn.

Công sự cố định trở nên lạc hậu, người ta dùng những công sự di động. Chiến tranh chớp nhoáng Blitzkrieg gây bất ngờ lớn. Việc sử dụng rất nhiều xe cơ giới dẫn đến như cầu diệt chúng, xe tăng dùng pháo bắn đạn xuyên nòng dài khắc chế các xe bọc thép dã chiến. Đỉnh cao của chống xe bọc thép dã chiến các loại là đấu tăng. Trận Prokhorovka là trận đấu tăng quyết dịnh Chiến dịch Kursk, chiến dịch bản lề của Thế chiến 2.

Để giảm số lượng xe phải tham chiến, tăng hỏa lực của đoàn quân cơ giới người ta có thể dùng xe tăng bắn đạn trái phá như lựu pháo, bắn súng cối và súng máy chống máy bay và bộ binh, nhưng đó không phải chuyên môn của xe tăng. Việc thiết kế, huấn luyện, trang bị xe tăng phải thỏa mãn chế thắng trong đấu tăng, quyết định chiến trường.

Trước khi đấu tăng trên chiến trường quyết định chiến tranh, cuộc đua vũ trang đẩy xe tăng trở thành xe trận đắt đỏ nhất, tập trung những tinh hoa cao nhất của khoa học kỹ thuật.

Nhược điểm

Trong Chiến tranh Vệ Quốc Vĩ Đại của Liên Xô, xuất hiện những nhược điểm lớn của xe tăng:

  • Xe tăng không thể tấn công thọc sâu mà không đi kèm bộ binh. Trong khi đó: xe tăng giáp rất dầy còn bộ binh dễ bị tổn thương, xe tăng đi nhanh còn bộ binh đi chậm.
  • Xe tăng ngốn hậu cần quá lớn, mỗi ngày nó cần nhiều tấn. Điều đó làm các đạo quân suy yếu chỉ sau 1-2 ngày bị cắt khỏi hậu phuơng, những trận đánh bao vây và phá vây của Chiến tranh Vệ Quốc rất khốc liệt. Trong khi đó một người lính bộ binh có thể sống hàng tháng với lương thực mang theo bên mình. Điều này gây nhiều bất ngờ lớn nhất, các tướng lĩnh không quen với chuyện đó.
  • Nhược điểm lớn nhất của xe tăng là không thể hỗ trợ mạnh mẽ bộ binh ở tầm rất ngắn bằng đạn nhỏ như súng máy các cỡ, không thể mang nhiều đạn trái phá lớn như pháo. Do đó, một tổ bộ binh nên kia hào chẳng hạn, gây nguy hiểm rất lớn cho xe tăng.

Ngay từ đầu Chiến tranh Vệ Quốc Vĩ Đại của Liên Xô, và trong suốt chiến tranh đó, những trận đánh xe tăng luôn đứng bên cạnh thảm họa lớn do những nguyên nhân trên. Ngay cả chiến tranh hiện đại, cuộc đột kích vào sân bay quốc tế Iraq năm 2003 cũng thất bại chỉ vì một đơn vị bộ binh rất nhỏ của Iraq.

Chiến thuật sử dụng xe tăng

Đặc điểm cơ bản trong chiến thuật sử dụng xe tăng:

Không những hoạt động đồng bộ mà cũng cần trang bị đồng bộ. Xe tăng dù mạnh nhưng thiếu xe chiến đấu bộ binh IFV, pháo tự hành SPG, trực thăng vũ trang, phòng không chống máy bay tầm thấp... thì xe tăng cũng vô ích. Điều này càng làm việc sử dụng xe tăng trở nên tốn kém khủng khiếp.

Khi sử dụng xe tăng hợp lý thì Chiến tranh chớp nhoáng Blitzkrieg thể hiện ưu điểm của nó. Trong Iraq 2003, ban đầu người Mỹ luôn tránh thọc sâu, họ di chuyển theo sa mạc phía tây tránh những cụm phòng thủ mạnh. Nếu sử dụng không hợp lý thì lực lượng xe tăng suy yếu rất nhanh chóng, gẫy xương sống của lục quân.

  • Trận Stalingrad, quân Đức sử dụng xe tăng tách rời bộ binh tấn công thọc sâu, bị bộ binh diệt nhanh chóng, dẫn đến thảm họa lớn cho cả đạo quân.
  • Chủ quan như xung đột Israel-Hezbollah 6/2006 dẫn đến mất một số lượng lớn xe tăng, bại trận rút lui, do xe tách quá xa bộ binh.
  • Mũi tấn công vào Cao Bằng của Trung Quốc trong Chiến tranh Biên giới Việt Trung 1979 buộc phải rút lui trước du kích sau khi để lại các xe bị bắt sống và bắn hỏng.
  • Chiến tranh chớp nhoáng Blitzkrieg sử dụng không hợp lý gặp thất bại lớn cũng do bên địch dùng xe tăng cơ động. Xung đột lớn lần đầu bên thành Maxcơva khi Đức tập trung một lực lượng cơ giới lớn, một đơn vị Hồng Quân dùng xe tăng có tính cơ động nổi trội T-34-57mm thọc sâu vào yếu huyệt sau quân Đức đang tiến quá xa, chiến trung tâm thành phố Kalinin, buộc quân Đức rút lui 200km, nếu không bị bao vây và suy yếu nhanh chóng trong tuyết, kết thúc trận đánh lớn Maxcơva. (Được gọi là Trận đột kích Kalinin, đánh vào tuyến đường cao tốc Volokolamsk-Kalinin. Mikhail A. Lukin làn trung đoàn trưởng, Anh hùng Liên Xô hy sinh trong trận này.)
  • Thực tế vẫn xảy ra những trận đấu tăng thuần. Như trận Prokhocova chẳng hạn. Bộ binh đi kèm xe bị pháo và bom dữ dội mất coi như hết, hai đoàn tăng trần lao vào nhau dữ dội.
  • Trận Asal Uttar giữa PakistanẤn Độ năm 1965 cũng vậy, thiếu bộ binh. Ấn Độ sử dụng xe nhẹ PT-76 và một ít xe cổ M4 Sherman (hồi Thế chiến 2), pháo tự hành chống tăng AMX-13 (cộng khoảng 120-130 xe tăng và pháo tự hành). Pakisstan dùng 300 xe tăng M47M48 Patton. Ấn Độ thành công trong việc tách bộ binh ra khỏi xe tăng, diệt và bắt sống 97 xe, đưa đến việc Pakistan thất bại trong chiến tranh. Trận dánh này cũng nêu bật những nhược điểm của các xe tăng Mỹ lúc đó.

Quan niệm hiện đại

Trong quan niệm hiện đại. Xe tăng chỉ dùng để khắc chế các xe quân sự khác. Lực lượng tấn công chính là bộ binh và pháo binh. Khi xuất hiện những vũ khí diệt xe quân sự mới, như tên lửa chống tăng có điều khiển và máy bay trực thăng, vai trò của xe tăng được đem ra tranh cãi. Xe tăng thích hợp nhất vẫn dành cho những trận đấu tăng, tuy nhiên, ngày nay ít có những trận chiến như vậy.

Một xe tăng ngày nay không chỉ chạy nhanh, giáp dầy, súng mạnh. Nếu thiếu những phương tiện hiện đại như dẫn bắn, tìm và bám mục tiêu, bảo vệ ERAAPS, thiết bị tự động hóa điều khiển từ xa... thì dù có đắp bao nhiêu sắt thép xe tăng cũng rất yếu. Ví dụ, một xe tăng giáp rất dầy nhưng phải thò đầu ra ngoài giáp dầy đó bắn súng máy, hay giáp xe rất tốt trước đạn KE của tăng địch nhưng bị người lính bộ binh hạ...Yêu cầu hiện đại hóa liên tục trong cuộc cách mạng điện tử dẫn đến chỉ những nước rất giầu và nắm được đỉnh cao công nghệ mới có đoàn xe tăng mạnh.

Vì súng vẫn là hệ thống chiến đấu phổ biến trên bộ, nên xe tăng vẫn là lực lượng chiến đấu nòng cốt của lục quân. Tuy ngày càng có nhiều hệ thống chống tăng dựa trên tên lửa chống tăng có điều khiển, tăng vẫn làm lực lượng quyết định trên bộ. Để đối phó với các hệ thống tên lửa, xe tăng cần được nghiên cứu phát triển liên tục.

Thật ra, cuộc cách mạng công nghệ đem đến các lực lượng khác nhiều sức mạnh hơn là xe tăng. Nhưng cũng từ khi có xe tăng, người ta luôn bị ngợp trước sức mạnh của nó mà quên những nhược điểm cố hữu. Những mũi thọc sâu xe tăng liều lĩnh thành thảm họa thì từ khi có xe tăng đến ngày nay vẫn luôn xảy ra.

Sơ qua về hình thành xe tăng.

Xem Xe tăng cổ.

Thời cổ và Trung cổ, xe trận mạt vận ở thế kỷ 19

Từ thời cổ, người ta đã nhận thấy xe chiến đấu cơ động giáp tốt bắn mạnh có tác dụng lớn. Sử cũ còn ghi lại, trong chiến tranh Hán-Sở, Hàn Tín đã biết đóng xe bọc giáp có người bắn cung ở trong, gây tiếng vang, thế kỷ 3 trước công nguyên. Tuy vậy, thế kỷ 19 là thế kỷ xe trận mạt vận nhất, tưởng chừng như bỏ. Các xe cổ đã lạc hậu mà động cơ hơi nước không cho phép chế tạo xe việt dã.

Các xe bọc thép dã chiến trước Thế chiến 2

Xem Xe tăng cổ.

Cùng động cơ đốt trong, khoảng trước thế chiến 1, xuất hiện nhiều xe cơ gới bọc thép. Những xe cơ giới bọc thép dã chiến đầu tiên xuất hiện trong Thế chiến 1 từ chương trình Pháo Hạm Trên Cạn của người Anh, sử dụng hệ thống xích miếng cứng Caterpillar do người Mỹ phát minh. Đây là các xe dã chiến mang nhiều nhược điểm của động cơ, hệ thống treo do kỹ thuật hồi đó. Phương hướng thiết kế chính để vượt hào diệt bộ binh.

Lúc này cũng có trận đấu tăng đầu tiên, thắng lợi thuộc về A7V của Đức. Nhưng không hiểu sao đến Thế chiến 2 mọi người vẫn không chế được xe diệt xe cơ giới mạnh.

T-34, Panzer IV

Xem Xe tăng Thế chiến II

Tập tin:T34 2.jpg
Xe tăng T-34 kiểu 1941
Xe tăng Panzer-IV đầu chiến tranh. Pháo KwK 40 CaL=48.

Nhưng cho đến gần Thế chiến II, loại xe chiến đấu diệt cơ giới vẫn chưa có. Sau những kinh nghiệm chiến đấu của chiến tranh Tây Ban Nha, chiến thuật cơ giới được khẳng định, đưa một số lượng lớn xe cơ giới vào trận và xuất hiện yêu cầu diệt chúng.

ĐứcLiên Xô xuất hiện hai loại xe tăng đúng nghĩa, là Panzer-IV của ĐứcT-34 của Liên Xô. Sự thành công của hai xe này dẫn dến việc nhiều nước cải tiến các xe hiện có, sau đấy cho ra đời các xe tăng đúng nghĩa chiến đấu diệt xe cơ giới. Các xe này là xe hạng trung. Trong khi đó, các nước khác vẫn ôn khái niệm xe tăng diệt bộ binh, đã thất bại rất nhanh chóng.

T-34 là sự kết hợp của hệ thống treo George Christie người Mỹ, giáp nghiêng của người Nga và súng phòng không nòng dài cải tiến đặt trên xe. Hệ thống treo George Christie người Nga biết đến qua xe nhập khẩu và đã thực hiện trên xe BT-7 Nga. Dòng này phát triển thành T-44, T-54, T-55, T-62, T-80, đến nay vẫn là các xe tăng cơ động nhất thế giới.

Hiện nay mọi người đều thống nhất T-34 là xe tăng thành công nhất thế kỷ 20.

Xe tăng hạng nặng

Xem Xe tăng Thế chiến II

Trong chiến tranh, cuộc chạy đua đã đẻ ra các xe tăng hạng nặng và chứng tỏ sự ưu việt của chúng. Nhưng cho đến thời điểm sau Chiến tranh Thế giới 2, tình hình kỹ thuật và hạ tầng (cầu cống đường xá) hạn chế số lượng các xe tăng hạng nặng. Đến cuối những năm 1960 xuất hiện các MBT, chúng thuộc loại xe tăng hạng nặng và rất nặng, mang đại bác nòng trơn và hệ thống điện tử cơ khí phức tạp.

Xe tăng hạng nặng đầu tiên là Char 2C của Pháp thiết kế trong Thế chiến 1, 46 tấn, sau được Tiệp Khắc đóng. Tuy vậy, hệ thống treo và các điều kiện kỹ thuật khác chỉ cho xe này hoạt động ổn định ngay trước Thế chiến 2. Xe này được thiết kế dể bắn bộ binh và công sự, nhiều súng pháo và tháp pháo nhưng súng nhỏ giáp mỏng, rất ít tác dụng trong chiến thuật chiến tranh chớp nhoáng cơ giới.

Liên Xô chuyển hướng chúng thành các xe mang một pháo to giáp dầy KV-1KV-2. Đầu Chiến tranh Vệ Quốc Vĩ Đại của Liên Xô (1941), không xe nào của Đức bắn thủng được KV-1. Điều này thúc đẩy Đức phát triển xe hạng nặng Panzer V (Tiger-1) năm 1943, Panzer VI (Tiger-2) năm 1944. Vì thế Liên Xô lại đầu tư sản xuất lượng lớn IS-1IS-2. Trận đấu tăng Prokhorovka thể hiện ưu thế của xe tăng hạng nặng.

Sau chiến tranh Thế giới 2, do tình hình hạ tầng, người ta chỉ chế tạo một lượng nhỏ xe tăng hạng nặng, trong khi xe tăng hạng trung chiếm số lượng chính. Vì số lượng ít nên thông thường các xe này tập trung nhiều kỹ thuật và đắt đỏ, có vai trò quan trọng trong phát triển kỹ thuật. Liên Xô phát triển tiếp IS thành hai dòng: loại tháp pháo dài rất mạnh và loại tháp pháo tròn cơ động.

Sau thập niên 1960, người ta không sản xuất xe tăng hạng trung nữa. Từ đó các MBT có khối lượng xe hạng nặng trước đây trở thành xe tăng chủ lực chiếm số lượng lớn nhất.

Trong Thế chiến 2, Đức có những dự án siêu xe tăng, nối tiếp Pháo Hạm Trên Cạn của người Anh: P. 1000 RatteP. 1500 Monster. P. 1000 Ratte mang hai đại bác chính 280mm, nặng 1800 tấn, giáp 150mm-360 mm. Động cơ có hai phương án. Phương án đầu dùng 8 động cơ Daimler-Benz MB501 20-cylinder, mỗi cái 2000 HP. Phương án tiếp dùng 2 động cơ tàu thủy MAN V12Z32/44 24-cylinder, mỗi động cơ 8500HP. Xe có 6 xích rộng 1,2 mét. Đến tháng 12 năm 1942, xe P. 1500 Monster xuất hiện trên bản vẽ. Xe mang 1 đại bác chính 800mm Dora, 4 động cơ MAN M9v 40/46 tổng cộng 9000HP công suất (động cơ của tầu ngầm), nặng 2500 tấn, số nhân viên trên 100 người. Không xe nào được thực hiện.

MBT sau những năm 1960

Xem Danh sách MBT.

  • Thập niên 1960 Liên Xô phát triển một loại xe tăng mới, nay là các xe T-64, T-72T-90, dùng pháo nòng trơn mạnh, động cơ khỏe, giáp dầy, thừa kế xe tăng hạng nặng trước đây.
  • Điều này thúc đẩy các nước khác phát triển thế hệ tăng mới. Người Đức trở lại vị trí dẫn dầu xe tăng phương Tây với kiểu Leoparrd 2, hầu hết xe phương Tây ngày nay cải tiến từ nó, điển hình là xe kiểu M1A1, M1A2, Challenger 2.
  • Các xe lai giữa hai dòng như:
    • Xe MBT Leclerc Pháp thiết kế hệ thống nạp đạn tự động như xe Nga nhưng dùng đạn phương Tây.
    • NgaUcraina cũng sản xuất các xe tăng tháp pháo dài như T-72 120Object 640, Object 640, đạn dài chứa sau tháp pháo, nạp tự động bằng xích.

Liên XôNga sau này vẫ phát triển tiếp dòng xe cơ động trước đây, nhưng khối lượng lớn ngang xe hạng nặng như các xe T-80, T-84 dùng chung các thiết bị với T-72T-90 (hệ thống nạp đạn hơi khác). Đặc trưng của dòng này vẫn thừa kế trước đây, cơ động mạnh, hiện nay luôn dẫn đầu thế giới về tính cơ động.

Ngày nay nhiều nước đáng phát triển trước đây đã thiết kế xe tăng cho riêng mình, như Trung Quốc, Ấn Độ, Israel, Nam Phi, Brazil.

Xe tăng ngày nay và tương lai

Ngày nay xe tăng đang diễn ra những thay đổi lớn, cũng như Thiết giáp hạm, tên lửa có điều khiển và hệ thống phòng thủ điện tử lấn dần vai trò của đại bác nòng dài và giáp. Nhiệm vụ chính diệt xe cơ giới của xe tăng bị máy bay tầm thấp và bộ binh cạnh tranh.

Tuy vậy, không đến nỗi bị mất giống như Thiết giáp hạm. Máy bay tầm thấp, bộ binh và các phương tiện khác dễ bị tổn tương nên xe tăng vẫn là hệ thống đối kháng mạnh nhất trên bộ.

Tổn thương hiện đại.

Các xe tăng thiếu hiện đại hóa gần đây gặp những tổn thương lớn:

  • Chiến tranh Chechen 1 1996 Nga mất 62 xe tăng chủ lực, trong đó chỉ có 1 xe mất khi có ERA. Tổng kết chiến tranh này cho thấy, chủ yếu quân du kích trong thành phố và hẻm núi bắn vào nóc xe. Chiến tranh Chechen 2 một lần nữa chứng minh tầm quan trọng của các giáp hoạt động hiện đại. Số lượng xe tăng mất ở đây rất ít.
  • Chiến tranh Iraq. Theo số liệu của Mỹ, đến nay (6-2007) đã hơn 80 xe M1A1M1A2 mất. Chủ yếu mất do RPG và mìn. Xe này có quá nhiều nhược điểm: giáp liên tục và mỏng, ERA không có tác dụng hoặc không có. Các xe M1 cũng khó cải tiến tiếp vì đã gặp trần công suất động cơ.
    • Một hiện tượng kỳ lạ là đến nay chưa tìm thấy bằng chứng rõ ràng về việc năm 1991 và 2003 xe tăng T-72 của Iraq bị pháo tăng đối phương bắn thủng giáp trước tháp pháo khi đấu tăng. Điều này đến nay được dư luận Mỹ hết sức quan tâm, đánh dấu hỏi về chất lượng xe tăng của họ. [1][2][3]
    • Iraq mất rất nhiều xe tăng do trực thăng, điều này cũng dễ hiểu vì họ quá thiếu những phương tiện mới trong khi đang có cuộc cách mạng kỹ thuật.
  • Xung đột Israel 6/2006, Quân Do Thái mất 22 xe tăng theo công bố chính thức, 5 xe bị phá hủy hoàn toàn. Nhưng hãng tin lớn nhất nước này đưa ra con số mất ít nhất 50 xe. Thất bại trong chiến dịch này dẫn đến đổ vỡ lớn trong chính quyền nước này.

Yêu cầu hiện đại hóa

Những hướng hiện đại hóa cần gấp với xe tăng nếu không muốn nó lạc hậu:

  • Hoàn thiện các hệ thống bảo vệ hoạt động như ERAAPS. Các vũ khí chống tăng mới xuất hiện đều dựa trên nguyên tắc tên lửa.
  • Hoàn thiện hệ thống đối kháng điện tử, tăng cường khả năng phát hiện và bám địch bằng máy tính, phát hiện khẩn cấp các tình huống bị ngắm bắn và chống trả.
  • Tự động hóa bên trong xe để giảm thể tích trong, qua đó tăng cường giáp.
  • Hoàn thiện các vũ khí tấn công hiện đại như hệ thống dẫn bắn tầm xa.
  • Hoàn thiện hệ thống cảnh giới chống bộ binh với súng máy và súng cối tự động hóa, camera quang và hồng ngoại toàn cảnh, máy tính tự nhận dạng mục tiêu.
  • Tăng khả năng chống máy bay các tầm của xe tăng hoặc lực kượng phòng không đi kèm xe tăng. Điều này đã được Quân Đội Nhân Dân Việt Nam thực hiện thành công, và phải được coi là một trong những mấu chốt chiến thuật. Nhưng ngày nay vẫn là thách thức lớn và nhiều người quên mất.

Từ cuối năm 2006, có nhóm người Mỹ mở chiến dịch tuyên truyền lớn. Họ muốn dân chúng quan tâm nhiều hơn đến những ưu nhược điểm, khoa học về xe tăng, gia tăng sức ép lên việc hiện đại hóa các xe của họ. Tuy nhiên đến nay (2007) vẫn chưa có chương trình thay thế xe tăng nào khả thi.

FMBT, future main battle tank

Trước đây có hai phương án xe tăng tương lai được chú ý, sau thêm phương án xe Mỹ:

  • T-95 Nga (Object 195). Nga dự định chuyển hẳn người ra khỏi tháp pháo, dùng pháo 152mm cal 60 (dài 9 mét, đang lắp trên xe 152mm M-69 Taran). Xe mang vỏ tàng hình chống radar, các thiết bị ngoài giáp chính như phòng không, súng chống bộ binh... đều đặt trong các hộp tàng hình. Xe có APS lớn chống chọi được các hướng và trên không. Kết cấu trang xe mang tính cách mạng, động cơ đặt lên trước, cối đạn đặt đứng trong tháp pháo hoàn toàn tự động hóa. Tổ lái 3 người ngồi hoàn toàn dưới thấp và giữa các thiết bị. [4]
  • Leoparrd 3 Đức cũng dự định tự động hóa cao độ và dùng pháo 140mm.
  • Phương án F-MBT khoảng năm 2000 của Mỹ với súng điện đã hủy bỏ như một câu chuyện viễn tưởng, thay vào đó là phương án xe tự động hóa cao độ, thấp nhỏ như xe Nga hiện nay, 2 người ngồi (trưởng xe và lái xe), dùng súng 140mm của Leopard.

Khối chức năng hóa

Một mâu thuẫn hiện nay là để duy trì sức mạnh người ta phải duy trì một số lượng xe tăng lớn. Trong khi đó các xe tăng được thiết kế chuyên để đấu tăng lại kém làm các công việc khác, ví dụ chở bộ binh như IFV hay bắn đạn trái phá như SPG. Một mâu thuẫn nữa thấy được là tùy đối thủ xe tăng cần những thiết bị khác nhau mà sản xuất nhiều loại xe tăng dẫn đến phân tán sức mạnh.

Những mẫu thuẫn đó gợi ý người ta thiết kế xe tăng gồm những khối(modul) chức năng có thể lắp vào nhau, tùy trường hợp mà lắp hay tháo.

Người Nga không cực đoan như vậy nhưng họ thiết kế những giao tiếp điện tử để xe tăng có thể lắp thêm các thiết bị khác. Ví dụ giao tiếp điện tử đạn cho phép lập trình lại đạn khi đạn ở trong nòng hoặc chuẩn bị lắp. Giao tiếp với các thiết bị nóc cho phép lắp thêm các khí tài trên nóc. Ví dụ hệ thống Ainet trên máy nạp đạn của T-80, T-90. Một ứng dụng của nó là lập trình lại cho ngòi nổ điện tử 3V-21. 1Ts29 là giao tiếp điện tử nóc xe, ví dụ dùng điều khiển súng nóc NSV(T), tự động ổn định.

Các loại xe qua các thời kỳ

  • Trước T-34Panzer IV xe tăng có nhiệm vụ như các loại xe bọc thép IFVSPG ngày nay, chống bộ binh và công sự. Lúc đó người ta phân ra hai loại xe hạng nặng và hạng nhẹ,
    • Hạng nhẹ là loại giáp mỏng súng nhẹ cơ động để diệt bộ binh.
    • Hạng nặng là loại xe to pháo lớn để chống công sự.

Nhìn chung lúc đó giáp chỉ 10mm-40mm với xe nhẹ và 100mm xe nặng.

  • Từ sau trận Prokhocovka, xe chia làm 3 loại, hạng nhẹ, hạng trung và hạng nặng.
    • T-34Panzer IV là hạng trung, có khả năng cơ động rất tốt, có số lượng lớn. Xe nặng 20-35 tấn, pháo đến 85mm, giáp đến 100mm.
    • Panzer V, Panzer VI (Tiger-1, Tiger-2), KV-1, KV-2IS-1, IS-2 là xe hạng nặng, là hình mẫu của các xe tăng chủ lực sau này. Lúc đó sử dụng xe tăng hạng nặng hạn chế do hệ thống hạ tầng, cầu đường. Súng đến 122mm, 130mm (Liên Xô), 88mm cal 71 (Đức) hay 105mm nòng trung bình (Anh, Mỹ). Giáp đến 250mm.
    • Xe hạng nhẹ, thường chỉ làm những nhiệm vụ đặc biệt như đổ bộ.
  • Sau những năm 1960 phân ra xe tăng chủ lực và xe tăng đặc chủng.
    • Xe tăng chủ lực MBT (main battle tank) từ những năm 1960. Những nỗ lực của Liên Xô và sự trở lại của Đức kéo theo những nỗ lực của các nước khác đưa ra MBT. Xe có cấu tạo và khối lượng khoảng xe tăng hạng nặng trước đây (45 tấn Liên Xô, 65-75 tấn xe Đức). Giáp đến tương đương 800mmRHA. Ví dụ T-64, T-72, T-80, T-90, Leoparrd 2, M1A1, M1A2.
    • Xe đặc chủng. Ngoài MBT các nước chế tạo xe đặc chủng. Hai loại được làm nhiều là xe tăng lội nước và xe tăng đổ bộ đường không. Việt Nam trước đây dùng các xe lội nước PT-76 khá thích hợp với điạ hình đầm lầy nhiều sông ngòi.

Người anh khổng lồ của xe tăng: "Thiết giáp hạm".

Một hệ thống chiến đấu nữa kết cấu gống xe tăng là Thiết giáp hạm, tầu chiến đấu, đều dùng súng lớn giáp dầy. Tầu này có kích thước rất lớn. Nay tầu chiến đấu lạc hậu vì súng đạn nhường chỗ cho tên lửa và hệ thống dẫn đường. Tên lửa có điều khiển hiện cũng đang thách thức xe tăng trên bộ.

Cấu tạo

Phương tiện tiến công

Đạn xem bên Đạn xe tăng

Đạn xe tăng có ba mục tiêu chính, chống người, chống công sự và chống xe thiết giáp hạng nặng di chuển nhanh.

Súng.

Nòng xoắn

Pháo phòng không Flak 88mm kiểu 1937, tỷ lệ chiều dài nòng cal=56. Sau này nòng đặt trên xe tăng Đức.

Đầu Thế chiến 2 đánh dấu việc xe tăng bắt đầu sử dụng đại bác nòng dài bắn đạn xuyên, đó là một trong những đặc điểm chính phân biệt xe tăng với các xe trận tấn công khác. Lúc đó, đạn xuyên bắn từ xe tăng có sơ tốc khoảng 800m/s-900m/s, cá biệt có một số loại súng đạn đạt trên 1km/s một chút. Đường đạn thẳng, thời gian đạn bay đến mục tiêu ngắn, sức xuyên tốt là những yêu cầu cơ bản của súng chính trên xe. Sau này, khi nâng sơ tốc, súng nòng xoắn tỏ ra kém bền. Những súng xe tăng 57mm( Liên Xô) và 88mm (Đức) lúc đó có tỷ lệ chiều dài nòng lên đến 71 và hơn.

Có một hiện tượng là đầu Thế chiến 2, cả Liên Xô và Đức đều lấy pháo phòng không cỡ lớn cải tiến đặt trên xe tăng, như các khẩu 88mm Đức, 57, 76, 85mm Liên Xô. Pháo phòng không bắn phát một lớn có thể coi là cha đẻ của pháo trên tăng.

Sơ tốc đầu đạn lớn và súng đạn tốt làm đường đạn thẳng, thời gian đạn bay đến mục tiêu nhanh, thích hợp với chống mục tiêu di động. Đạn xuyên động năng trước đây mang theo nhiều thuốc nổ phá, nhưng dần ngày nay không còn, đạn chỉ còn là mũi tên xuyên giáp.

Nòng trơn

Để tăng sức xuyên, người ta tăng tỷ lệ chiều dài và chiều rộng đầu đạn xuyên. Các đầu đạn xuyên hồi Thế chiến 2 có tỷ lệ đó là 2,5 đến 4 thì sau này tăng lên 10 và hơn nữa. Đường kính đầu đạn nhỏ làm quán tính quay nhỏ không đủ ổn định đạn bắn từ nòng xoắn. Những đạn xuyên dưới cỡ nòng (APDS) ban đầu có cối quay trong guốc, để đạn không quay mà ổn định cánh đuôi khi bắn từ nòng xoắn. Đầu thập niên 1960 Liên Xô đi tiên phong trong việc chuyển sang nòng trơn.

Đạn xuyên

Đạn xuyên có guốc (sabot) giảm cỡ cho phép đổi chiều dài nòng lấy cỡ nòng, nên tỷ số chiều dài/cỡ nòng (CaL) không cần quá cao, ngày nay thường ở khoảng 50/60. Các xe tăng hiện đại hiện nay bắn đạn xuyên có guốc (sabot) giảm cỡ sơ tốc KE 1750m/s-1850m/s. Nhưng nòng xe tăng ngày nay có tuổi thọ thấp, chỉ khoảng 500 phát. Nòng xe nhanh xuống dưới mức cho phép vì mỗi phát bắn có năng lực cao và nòng yêu cầu chính xác cao.

Xe có cỡ nòng lớn cũng thuận tiện bắn các đạn có liều nổ lõm như ATGM hay HEAT, đạn trái phá và chống bộ binh như pháo tự hành. Các loại đạn lõm cho phép xuyên ở tầm xa hơn nhiều KE. Đạn BM-31 Nga có ba tầng nổ lõm, nặng 19kg vượt qua hầu hết những ERA phổ biến.

Ổn định

Súng trên xe tăng có chiều dài lùi ngắn hay không lùi. T-80T-90 125mm có chiều dài lùi chỉ 300mm. Phần lớn các xe tăng phương tây không lùi. Việc có hãm lùi và đẩy về giúp xe chịu đựng được phát bắn mạnh hơn.

Việc ổn định tầm hướng của súng được nghiên cứu trong thế chiến, sau đó được hoàn thiện. Ngày ngay, các hệ thống động lực của T-80T-90 (Nga) ổn định được tầm hướng súng khi xe di chuyển tốc độ 70km/h-80km/h trên đường gồ ghề. Hệ thống ổn định nòng súng có máy đo con quay hồi chuyển và máy tính, máy chấp hành chạy điện+thủy lực. Hệ thống nạp đạn tự động thủy lực đóng góp vai trò lớn cho xe. Nó nâng tốc độ bắn và giảm thể tích dành cho người nạp đạn. Hệ thống nạp đạn tự động và bố trí băng đạn có vai trò lớn trong tăng cường giáp xe.

Con quay hồi chuyển cơ có 2-3 chiều tự do được xe tăng ưa chuộng, vì yêu cầu nhớ hướng phát bắn cao hơn yéu cầu dẫn đường lái xe. Tuy vậy, các tích phân quá tính kiểu con lắc điện tử hay tích phân tốc độ quay laser ngày càng áp dụng nhiều.

Tốc độ bắn

Người Nga dùng băng đạn tròn liều rời, điều này thuận lợi cho việc sắp xếp băng đạn tròn sau này. Kiểu băng đạn này làm giảm thể tích trong xe, nhưng cũng làm hơi giảm tốc độ của hệ nạp đạn tự động. Tốc độ bắn của xe tăng Nga 6-8 phát phút. Đạn liều rời với hệ thống nạp đạn có lập trình điện tử là phương hướng phát triển tiên tiến hiện nay. Lúc điện tử chưa phát triển nó hạn chế ứng dụng đạn APFSDS và nạp đạn rất chậm (xe IS-2 bắn 1 phát / 1 phút). Băng đạn tròn chứa được ít đạn nên còn số đạn nữa dưới thân xe, cần phải nạp vào băng trước khi bắn, người ta cũng thiết kế hệ thống nạp đạn vào băng này, trong băng sẵn sàng một số loại đạn có mục dích khác nhau. Một điểm hết sức lợi thế của đạn liều rời băng tròn nạp tự động là chiều dài liềuđạn nhỏ, tạo điều kiện làm ổ đỡ tháp pháo và tháp pháo nhỏ, đây là chỗ yếu nhất khi nhìn ngang xe, cần phải che dấu. Các T-80, T-90 hầu như không lộ ổ này và phàn tháp pháo mỏng sau được chắn góc rộng. Ucraina gặp khó khăn lớn khi cải tiến T-80 dùng đạn liều liền NATO. Xe T-95 thì tháp pháo chỉ còn là băng đạn của súng.

Xe tăng Leclerc (Pháp) bắn hết băng đạn gần 30 viên khi chạy 50km/h trong khoảng 4km đường gồ ghề. Tốc độ bắn xe này đến 10-12 phát phút. Một lợi thế của đạn liều liền là nạp đạn tự động cực nhanh. Xe T-72 120 (Ucraina) và xe tăng thử nghiệm Object 640 Nga, Leclerc (Pháp) thuộc dòng xe tăng lai, có tốc độ bắn cao nhất hiện nay. Xe T-72 120Object 640 nạp đạn tự động bằng băng đạn kiểu xích.

Tốc độ bắn thấp nhất hiện nay là M1 Mỹ, theo lý thuết chỉ đạt 2-4 phát / phút. Người xạ thủ phải quay đạn và vỏ 180 độ, chuyển từ trước ra sau và ngược lại. Điều này càng khó khi di chuyển. Trong những phim ghi lại ở Iraq, cho thấy rất khó nạp đạn khi di chuyển, lúc đứng yên bắn cấp tập chỉ đạt 1 phát rưỡi / phút. ([1])

Vị trí buồng đạn

Buồng đạn xe tăng Nga là băng đạn tròn nằm ở đáy xe, một buồng đạn thêm ở sau buồng đạn này. Điều này giảm khả năng phát nổ xe khi trúng đạn. [5]

Buồng đạn kiểu xe Đức nằm sau buồng lái, điều này tăng khả năng trúng đạn và phát nổ. Vì vậy, các xe kiểu Đức sớm phát triển các hệ thống chống cháy, như dập lửa, nắp buồng đạn dễ bị thổi bay...

Leoparrd 2 có 15 viên nằm bên trái đuôi tháp pháo, 27 viên nằm bên trái máy lái dưới thân. Đạn xe này vất chỏng chơ trong thùng, khômg bảo vệ gì. [6] [7]

M1A1, M1A2 Mỹ và Challenger 2 Anh đặt toàn bộ đạn đằng sau tháp pháo, tháp pháo to, cao, lộ. Nhưng mỗi đạn có một ống đựng riêng. Nạp đạn M1 rất vất vả do phải quay đạn và vỏ đạn 180 độ trong chật chội. Đây cũng là cản trở khi M1 nâng kích thước đạn, cả chiều dài và khối lượng. Ngày nay dùng 120mm L55 nhưng nạp đạn cũng chỉ nạp liên tục nhanh được vài viên, sau đó bắn rất chậm, [8]

Nga và Ucraina sản xuất những xe tăng dùng dược súng đạn phương Tây cho xuất khẩu. Đám này có kết cấu buồng đạn lai. Hệ thống nạp đạn tự động phía sau tháp pháo chạy xích. Gồm T-72 120, Object 640 (có thể sẽ là T-2000). Tuy đã cố gắng nhưng kết cấu này gặp đuôi tháp pháo kéo dài, góc an toàn thu hẹp lại.

T-72 120, dùng được các súng 120mm phương tây, 125mm Nga, 140mm phương Tây. [9]

Kết cấu buồng đạn. [10] Súng [11]. Xe [12] [13]

Object 640, kéo dài tháp pháo xe T-80UM [14] [15]

Các súng phụ

Chiến tranh Thế giới 2 đưa ra đặc điểm cơ bản của tăng, từ lúc đó thường trang bị thêm một súng máy đồng trục với đại bác chính và một súng phòng không trên nóc xe, sau này có thêm các súng máy hoặc súng cối chống bộ binh cũng ở trên nóc, gọi chúng là các súng nóc. Tuy nhiên, chỉ đến gần đây, các phương tiện tự động hóa cho phép sử dụng các vũ khí phụ đó hiệu quả hơn.

Ví dụ, hệ thống giao tiếp nóc xe 1Ts29 trên T-90 điều khiển súng nóc NSV(T) 12,7mm, tự động ổn định.

Pháo chống tăng

Để tăng cường khả năng chống tăng, người ta thường cải tiến súng trên xe tăng, làm pháo kéo hay pháo tự hành chống tăng, bắn cùng đạn cùng nòng với pháo trên tăng. Điều này rất tiết kiệm như khẩu D-44 85mm chỉ nặng có 1,6 tấn, trong khi T-34 85mm nặng 30 tấn. Hay khẩu ZiS-2 cùng dùng nòng 57mm CaL 71 như T-34 57mm, nhưng chỉ nặng có hơn một tấn, bắn tự động tốc độ 25 phát phút, trong khi xe T-34 57mm nặng 23 tấn. Tuy những vũ khí này chỉ có thể phục kích, phòng ngự xe tăng, nhưng có thể chế tạo một số lượng lớn nhanh chóng.

Quan sát, phát hiện, dẫn bắn.

Hệ thống quan sát quang-cơ khí.

Tháp pháo xe T-34-85 kiểu 1943 mang tháp chỉ huy kiểu tròn.

Trước đây, hệ thống điện tử chưa phát triển, xe tăng có riêng một trưởng xe. Trưởng xe có một tháp chỉ huy dễ dàng quan sát được bốn phía trên nóc tháp pháo, trưởng xe ngồi ngay dưới tháp chỉ huy, lúc cần quan sát đút đầu vào tháp chỉ huy. Nhược điểm của tháp chỉ huy này là nó giáp rất mỏng. Việc đo xa thực hiện bằng kính đo xa quang học, đo xa là nhiệm vụ không thể thiếu khi chiến đấu bằng súng lớn. Tốc độ địch, tốc độ gió không đo trực tiếp, hoàn toàn dựa vào kinh nghiệm của trưởng xepháo thủ. Tốc độ ta không cần quan tâm vì xe không thể bắn trúng khi di chuyển.

Xe tăng Đức là những xe đầu tiên có tháp chỉ huy. Xe T-34 trang bị tháp này trước chiến tranh Vệ Quốc. Trong chiến tranh, Xe Đức luôn trội hơn về hệ thống quang học.

Sau chiến tranh Thế giới 2, kính tiềm vọng được dùng rộng rãi, cho phép người quan sát, ngắm bắn ngồi sâu trong giáp chính. Xe có thể có đến 3 kính tiềm vọng của trưởng xe, xạ thủ và lái xe. Lúc này cũng áp dụng rộng rãi các bản chia trong kính để ước lượng dễ hơn.

Hệ thống đối kháng quang-điện tử.

Sức tấn công của xe ngày nay phụ thuộc rất nhiều vào hệ thống quang-điện tử. Nó bao gồm quan sát quang học trực tiếp, quang học-điện tử (camera), hồng ngoại thụ động, hồng ngoại chủ dộng (có chiếu sáng hồng ngoại), laser chỉ thị, laser đo xa, đo tốc độ quang hoặc laser, đo tốc độ doppler radar hoặc quang. Dựa trên dữ liệu của các thiết bị quan sát trên là hệ thống máy tính, quyết định phần tử bắn quá tốc độ, vị trí, hướng... của địch-ta-đạn-môi trường, đảm bảo bắn trúng bằng các loại đạn, thậm chí dẫn đường cho đạn bắn từ vũ khí khác. Máy tính tạo thành hệ thống quan sát thông minh, nhận ra và bám mục tiêu bằng các đặc điểm nhiệt độ, chuyển động và tiên tiến nhất đang phát triển là độ chói, hình dáng. Máy tính cũng cho phép sử dụng hệ thống thông tin số ví dụ như định vị hoặc quan sát qua phương tiện của đồng đội. Gần đây, các xe tăng và diệt tăng Nga đã có hệ thống radar băng sóng mm đủ nhỏ đặt trên xe (ví dụ hệ thống bắn tên lửa Khrizantema), trong khi các hệ thống này của các nước khác còn rất lớn. Radar này tăng vọt khả năng phát hiện-bám mục tiêu, chiến đấu mọi thời tiết. Khả năng nhận dạng mầu sắc, nhiệt dộ, hình dáng, chuyển động quang học-hồng ngoại hiện nay đang làm tăng vọt khả năng phát hiện mục tiêu ở chế độ thụ động.

Hệ thống quang điện tử có nhiều thành phần, một số bộ phận có hệ ổn dịnh riêng. Người ta gọi là hệ hống đối kháng quang-điện tử. Máy tính của hệ thống liên kết mật thiết với các máy tính khác trên xe. Một số nhiệm vụ như gây nhiễu-đánh chặn hay bám-đánh tự động yêu cầu nhiều hệ thống chiến đấu trên xe cùng hoạt động thống nhất.

Thông thường, hiện nay có 3 hệ thống quan sát cho trưởng xe, xạ thủ là lái xe. Trưởng xe và lái xe có các camera quang và hồng ngoại đặt trên nóc xe, có thể trong tháp chỉ huy. Của xạ thủ có thể đặt gần súng chính. Các súng diều khiển từ xa như khẩu 12,7mm trên nóc T-90 có camera riêng.

Tự động bám mục tiêu

Phương pháp tự bám mục tiêu thông dụng nhất của các xe Nga hiện nay là định tâm hồng ngoại, người ta lọc mầu cho ra ảnh của mục tiêu rồi máy tính tìm tâm ảnh. Người Mỹ đang đưa vào sử dụng hệ thống phần mềm dùng quang học, dựa trên đặc điểm mục tiêu luôn chuyển động trên ảnh nền tĩnh, định khung mục tiêu. Việc nhận dạng quang học hiện vẫn gặp nhiều khó khăn.

Một kỹ thuật tìm kiếm, theo dõi, bám mục tiêu nữa là dùng hệ thống thông tin số. Người Mỹ cải tiến các pháo hạm bay (C-130 gun ship), cho lên đó những phương tiện quan sát lớn, xe tăng và các thiết bị đó sử dụng thông tin ở đó.

  • Tự động bám mục tiêu bằng định tâm hồng ngoạiradar cho độ chính xác cao, cho phép ngắm bắn tự động và chiến đấu tự động.
  • Radar cho phép theo dõi cùng lúc nhiều mục tiêu với độ chính xác cao, phân biệt địch ta, vượt qua khói bụi sương mù, vượt qua các hệ thống bảo vệ bằng khói và chói như Shtora, nhưng cũng dễ bị làm nhiễu và làm mù bằng tàng hình kiểu hấp thụ. Tuy nhiên, các xe được thiết kế để đối phó với các hệ thống chiến đấu trên xe dùng radar vẫn rất ít, nhiều nước mạnh như Mỹ, Anh, Pháp chưa có xe sản xuất thực tế.
  • Hầu hết các xe tăng hiện nay đều có nỗ lực giảm phát xạ hồng ngoại, như bọc gốm các bộ phận nóng, dẫn hướng khí thải qua ống xả đặc biệt. Nhưng đảm bảo nhiệt độ vỏ xe đúng bằng nhiệt độ môi trường là điều không thể. Giảm phát xạ chỉ dùng chống phát hiện bằng hồng ngoại đơn sắc trên các xe cổ.

Trong Khrizantema, trưởng xe chỉ cần chọn các mục tiêu được radar phát hiện, hệ thống điều khiển tên lửa ngắm bắn và dẫn bắn hoàn toàn tự động, thay thế hoàn toàn công việc của xạ thủ. Hiện nay chỉ duy nhất hệ thống này cho phép chiến đấu mọi thời tiết. Đây là hướng kỹ thuật tiên tiến có thể thay thế cho xe tăng.

Các tự động bám mục tiêu khác hiện nay độ chính xác thấp, chỉ cho phép theo dõi mục tiêu.

Camera và súng nóc điều khiển từ xa với bộ binh

Hệ thống quan sát quang điện tử nếu dược thiết kế đúng sẽ đảm bảo quan sát, phát hiện các loại mục tiêu, khắc phục được nhược điểm lớn nhất của xe tăng hồi thế chiến 2, là kém khả năng cảnh giới trước bộ binh địch. Việc tự động hóa này đảm bảo mọi công tác của tổ lái nằm trong giáp chính.

Tương lai các thiết bị tự động phát hiện, bám bắn biến xe tăng thành sát thủ đáng sợ của bộ binh qua súng nóc. [2]

Phòng thủ

Giáp và kết cấu xe.

Tập tin:Ketoarmorlayoutnewtank.JPG

Giảm thể tích trong và diện tích mặt ngoài

Để giáp xe được dầy, cần làm thể tích trong xe nhỏ, xe T-34 rất bất tiện với tổ lái vì vậy. T-90 thể tích trong toàn xe 11 mét khối, tháp pháo 1,85 mét khối.

Việc chế tạo các thiết bị nhỏ nhưng năng lực mạnh đẩy giá xe tăng lên rất cao so với các xe cộ khác. Nhìn chung, công suất động cơ và diện tích mặt ngoài quyết định giáp xe.

Để giảm diện tích bặt ngoài cần bố trí xe sao cho có hình dáng tròn đều.

Giáp nghiêng

Tập tin:Soviet Tank T-34.jpg
Xe tăng T-34 đầu chiến tranh. Pháo 76mm

T-34 phát triển giáp nghiêng. Không như nhiều người nghĩ, giáp nghiêng không làm tăng chiều dài đạn cần xuyên, vì điều đó vẫn làm tăng khối lượng xe khi độ nghiêng làm tăng diện tích mặt ngoài xe. Giáp nghiêng có hai ưu điểm:

  • Tạo điều kiện phân tán năng lượng của đạn.
  • Xe vững chãi do đó lắp được súng mạnh hơn.

Giáp liên hợp

Ngày nay, giáp xe tăng là loại giáp liên hợp (composite armour), bao gồm 3 phần.

  • Giáp bao gồm một lớp vỏ mềm dầy (tấm chắn trước của xe T-55 cải tiến gần 1 mét). Vỏ mềm gồm nhiều lớp mềm dầy nhưng tỷ khối thấp đặt giữa các lớp cứng tỷ khối lớn nhưng mỏng hơn. Vật liệu làm vỏ mèm phải chịu nhiệt tốt để chịu đựng đạn nổ. Vỏ mềm phân tán các luồng xuyên, các lớp vỏ mềm càng đặt xa giáp chính càng phân tán luồng xuyên mạnh.
  • Sau các lớp này là giáp chính làm bằng hợp kim tốt nhiều lớp, rất dầy.
  • Bên trong giáp chính là lớp vật liệu mềm kín nguyên tử lượng cao "3 phòng chống" (NBC-"nuclear biological chemical"-"sinh hóa phóng xạ").

Một số xe có lớp ngoài cùng là hộp gốm chịu nhiệt phân tán dòng khí nóng đạn lõm. Với giáp như vậy, đạn KE nghiêng đi khi đi qua các lớp liên hợp rồi gẫy khi gặp giáp chính. Đầu nổ lõm bị kích nổ ở xa giáp chính nên giảm sức xuyên. Các xe hiện đại có xu hướng bọc tổ lái trong một giáp phụ kín, để bảo vệ tổ lái-dập lửa.

Xe có không gian trong nhỏ gọn thì làm được khoảng trống lớn giớ các tấm giáp, có thể nhồi những vật liệu bền nhẹ chịu nhiệt (T-90) hay để trống hoàn toàn (Leoparrd 2A6). Khoảng trống này tạo ra sự phân tán luồng xuyên trước khi đi đến các lớp trong, tăng mức chịu đựng mà không tăng khối lượng.

Người ta có thể dặt cảm biến diện trên giáp liên hợp để kích hoạt các hành động phòng thủ, như kích nổ ERA Contact-V, giáp phản ứng nổ này kích nổ trước khi đầu đạn xuyên vào, bắn ra một tấm cứng, tấm này đẩy nghiêng KE hoặc bẻ gẫy đạn lõm. Cũng đang nghiên cứu phát triển hệ thống giáp điện, dùng dòng điện mạnh đốt nổ KE, phân tán luồng xuyên.

Những bộ phận chính của giáp xe

Giáp xe được làm thiên về phía trước, các phần phía sau xe thu nhỏ gọn để các tấm giáp trước che đỡ.

  • Dốc trước (phần dốc trước bên trên của thân xe), vai trước tháp pháo (hai bên nòng súng), khiên (bao quanh nòng súng. Đây là những phần dầy nhất, ngày nay khả năng chống đỡ lên đến tương đương 800mm RHA trước KE và 1500mm RHA trước HE.
  • Dưới thân trước (phần thân dưới dốc trước), Hai bên thành tháp pháo, sau tháp pháo, hai bên thành thân xe, sau thân xe là những bộ phận dầy trung bình.
  • Bụng xe và nóc xe mỏng, chỉ 40mm.
  • Riềm xích hai bên xích và phía trước xe. Riềm này có thể đơn giản là những tấm thép 10-20mm, nhưng cũng có khi dầy đến hàng chục cm gồm nhiều lớp như bản cải tiến T-55, cũng có khi kết cấu phức tạp như T-90. Riềm bảo vệ những phần dễ tổn thương và thấp của xích, những phần này thường được che đất với pháo từ xa, nhưng bộ binh ở gần dễ nã đạn chống tăng.

Phần dễ bị bắn nhất là trước tháp pháo và khiên, gồm hai tấm vai hai bên làm bè ra để che đỡ các phần phía sau tháp pháo. Đây là phần giáp tốt nhất xe.

So sánh khả năng che đỡ của vai T-90, Object-640Leoparrd 2 [16]

Cấu tạo tấm vai của Object-640, T-90, T-80Leoparrd 2 [17]

Giáp liên tục và mỏng, phía sau tháp pháo lộ của M1A2 [18]

Giảm diện tích mục tiêu

Xe thấp nhỏ cũng làm giảm kích thước mục tiêu khi địch ngắn bắn, giảm khả năng trúng đạn. Người ta muốn đưa thể tích xe xuống dưới thấp, đặc biệt là những thể tích nguy hiểm như băng đạn. Dưới thấp khả năng được che chắn bởi điạ hình cao. Đạn đạn bác bắn từ xe tăng rất khó bắn khi bay cách mặt đất 1,5 mét trở xuống, nơi có nhiều vật cản, chỉ cần va phải một vật thể nhỏ là viên đạn không thể trúng điểm ngắm. Phần nhô lên cao là tháp pháo có giáp trước rất dầy nhưng cũng cần thu nhỏ tối đa. Nếu đưa được các bộ phận của xe xướng dưới tránh phần nhô lên của tháp pháo sẽ giảm diện tích phần nguy hiểm này.

Bố trí xe (flatform)

Kết cấu xe và bố trí giáp, cũng là chiến lược phát triển lâu dài xe tăng, có hai hướng NgaĐức được bắt đầu từ Leopard 2T-64.

Kiểu xe Nga.

Xe Nga hiện nay có 2 chỗ ngồi song song trong tháp pháo tròn đều. Dưới chân trưởng xe và pháo thủ là băng đạn tròn. Băng đạn tròn quay có hai tầng cho liềuđầu đạn. Lắp đạn, tháo đạn, chọn loại đạn và đổi đạn thuận tiện. Đằng sau lưng họ là hộp đạn dự trữ, đạn từ hộp này có thể lắp thủ công vào nòng hay lắp vào băng đạn tròn. Tháp pháo thụt sâu vào thân xe đến gần sàn xe, băng đạn nằm ở vị trí thấp nhất và chính giữa xe, giảm tối đa khả năng trúng đạn phát nổ giết tổ lái khi xe bị bắn hỏng. Trước xe là buồng lái của lái xe, liền sau tháp pháo là động cơ, sau cùng là hộp số, truyền động đến các bánh xe nằm dưới sàn 2 bên thành. Trên hộp số là các hộp dẫn khí thải, lọc khí vào, két nước làm mát.

Xe tăng hiện đại T-95 của Nga hoàn toàn không có người trong tháp pháo, tháp pháo hiện nay chỉ là súng chính và đạn dược. Tổ lái 3 chỗ ngồi nằm giữa thân, thấp xuống. Băng đạn tròn dẹt xếp đạn liều rời ngang được thay bằng băng đạn xếp đứng, có thể dùng đạn liều rời và đạn liều liền. Toàn bộ việc quan sát và điều khiển được thực hiện qua hệ thống điện tử với máy tính hỗ trợ. Các hệ thống tự động này là mấu chốt sức mạnh của giáp xe: không gian trong xe rất nhỏ, xe thấp nhỏ, giảm diện tích mặt ngoài, tăng độ nghiêng và độ dầy của giáp trong khi không cần tăng khối lượng xe. Xe ngày nay có khối lượng như IS-3 hồi cuối thế chiến, nhưng nhỏ hơn nhiều và giáp trước có khả năng chống đỡ cao gấp 3-4 lần.

Người ta thường sử dụng trị số tương đương RHA để tính độ bền giáp, trị này được hiểu là tương đương thép cán tiêu chuẩn. Do giáp ngày nay phức tạp nên khả năng chống đỡ với đạn thanh xuyên (KE) và đạn lõm (HE) khác nhau.

T-90 Nga có thể tích bên trong tháp pháo còn có 1,85 mét khối. Các xe tháp pháo tròn thấp kiểu Nga có khối lượng chiến đấu nhỏ (45 tấn) nên cơ động, giáp tốt. Tổng thể tích trong xe 11 mét khối phần trên tròn đều, giảm diện tích mặt ngoài nên tăng được dộ dầy. Kỹ thuật phát triển làm kiểu xe này rất có tương lai do thu bé máy móc. Vũ khí phụ (chống bộ binh, máy bay...) đặt ngoài giáp được điều khiển điện tử từ trong xe cộng với khả năng quan sát cho phép xe an toàn, độc lập trong điều kiện phức tạp.

T-90 tháp pháo có hai tấm trước dầy cấu tạo ba lớp đúc. Giữa lai lớp thép là một lớp vật liệu tế bào kim loại và cao phân tử. Hai tấm này tạo thành góc lớn bảo vệ phần sau tháp pháo tròn và ngắn. Bên ngoài có ERA cấu tạo đặc biệt tạo thành hiệu ứng phân tán mạnh sức xuyên của cả đạn KE và đạn HE.

Tháp pháo T-90 có hai chỗ ngồi thụt gần xuống đáy xe, đạn đặt ở đáy cùng xe giản khả năng phát nổ khi trúng đạn. Hiện nay, trên thế giới các xe lớp này tốt nhất. [3]

Bố trí tương lai của xe T-95 (Object-195), tháo pháo hoàn toàn tự động hóa, an toàn của tổ lái tăng vọt nhờ ở dưới thấp và được chắn bởi động cơ. Thể tích trong xe giảm so với T-90 vốn đẫ rất chặt chẽ. Cối đạn không đặt ngang mà đặt đứng. [19]

Tấm vai tháp pháo T-90 [20] Tấm vai tháp pháo T-90 [21] Bố trí xe T-72 [22]

Kiểu xe Đức.
Xe tăng Leoparrd 2A5, Đức

Xe tăng thiết kế bố trí kiểu Leopard-2 xuất phát từ xe Tiger hồi Thế chiến 2. Xe tăng đặt buồng đạn sau tháp pháo, chỗ ngồi tổ chiến đấu cao so với thân xe. Diện tích ngoài xe lớn nhưng thể tích thân lớn, cho phép mang động cơ khỏe. Điều này cho phép xe có giáp rất dầy. Các xe này chậm chạp hơn loại xe Nga, nhưng mang được nhiều đạn hơn. Do diện tích giáp lớn nên nhiều chỗ giáp xe không tốt như hai bên, ổ đỡ tháp pháo và phía sau xe, điều này làm giảm khả năng sống sót trong những trận hỗn chiến phức tạp, nhất là có nhiều bộ binh tham gia trong địa hình rắc rối. Thuận lợi lớn của xe này là đa năng, làm được nhiều việc, do trọng tải lớn mang được nhiều vũ khí, khí tài, điều này trong nhiều trường hợp giảm nhiều số xe phải tham chiến trực tiếp.

Tuy số lượng không nhiều nhưng số loại xe kiểu Đức rất lớn. M1A1, M1A2 Mỹ, Merkava-IV Israel và một số loại xe các nước khác kiểu này. Người Nga đưa ra kiểu Object 640 giáp phần trước Nga nhưng cũng dùng buồng đạn sau, hy vọng xuất khẩu được cho những nước dùng đạn liều liền, súng xe Leopard, Object 640 có băng đạn nạp tự động kiểu xích.

Một số giáp phụ của kiểu xe Đức.

  • Xe Leopard 2A6 Đức được bao bởi một lồng kim loại dầy và nghiêng, khoảng trống ở giữa lồng và giáp chính phân tán đạn luồng xuyên. ERA đặt trên mặt lồng.
  • Merkava của Israel có lớp vật liệu cao phân tử phía ngoài tạo thành mặt rất nghiêng, cách xa giáp chính. Kiểu này chống đỡ đạn HE một tầng nổ lõm cổ như B41 rất tốt. Merkava IV thiếu ERA nên phần này bị đạn nhiều tầng thổi bay [23].
  • Anh và Mỹ dùng gốm nhưng đặt sắt mặt giáp chính. Họ bắt buộc phải làm như vậy do thể tích trong tháp pháo quá lớn [24].

Tháp pháo M1 Mỹ có 3 chỗ ngồi, xạ thủ và trưởng xe ngồi thấp hai bên trước, nạp đạn (thủ công) ngồi sau trên cao, kiêm sửa dụng súng máy nóc xe. Xe Challenger Anh tháp pháo có 3 người, nạp đạn đứng bên trái [25].

Vai trò của vũ khí chính xác tầm xa.

Một số ý kiến cho rằng hồi Thế chiến 2 xe tăng sợ máy bay là không đúng. Trong Thế chiến 2, máy bay rất ít khả năng diệt được xe tăng. Máy bay không trang bị được đại bác bắn đạn xuyên hạng nặng, còn tên lửa không điều khiển và bom có độ chính xác rất thấp. Ngày nay, khi máy bay được trang bị tên lửa chống tăng có điều khiển thì bay mới gây thương vong đáng kể được cho xe tăng. Do đó, xuất hiện các máy bay trực thăng vũ trang như AH-64 Apache hoặc KA-50, Mi-35. Máy bay phản lực chống tăng như A-10, SU-25. Tuy nhiên, lúc này, hệ thống điện tử của xe tăng cũng hoàn thiện để chống lại máy baytên lửa chống tăng có điều khiển. Nhưng ngày nay, xe tăng, máy bay hay bất cứ binh chủng nào cũng không còn là quyết định độc nhất của chiến trường nữa.

Tên lửa chống tăng có điều khiển mở ra một khả năng mới, hiện nay nó là thứ vũ khí đưa tầm bắn đạn diệt tăng hạng nặng của xe tăng và các xe cơ giới khác lên 4-5km. Đặc biệt, những tên lửa dùng cho bộ binh vác vai hoặc đặt trên giá nhẹ cũng bắn được nhiều km. Hiện tại, phổ biến sử dụng những tên lửa được điều khiển trực tiếp từ nơi bắn hoặc gián tiếp, qua con người hoặc chí ít phát hiện mục tiêu bằng con người. Nhưng đã xuất hiện một số tên lửa tự tìm mục tiêu ở Nga, Đức. Điều này cho phép các giàn pháo bắn tăng với tốc độ rất cao từ hàng chục km.

Tên lửa chống tăng có điều khiển được người Việt Nam vinh dự sử dụng lần đầu tiên trên thế giới. Đó là Quảng Trị, cuối năm 1972, đầu 1973. Người Việt Nam cũng thể hiện tên lửa chống tăng không điều khiểnvũ khí diệt nhiều xe tăng nhất sau thế chiến 2, buộc các cường quốc kinh tế-kỹ thuật phải thay đổi phương hướng thiết kế và sử dụng các loại xe bọc thép.

Xu hướng tấn công bằng tên lửa có điều khiển thay cho súng, phòng thủ bằng các hệ thống điện tử thay cho giáp xuất hiện trong nhiều hệ thống vũ khí, trong đó Thiết giáp hạm đã mất quyền làm chủ trên biển. Xe tăng vẫn chưa bỏ được súng nòng dài và giáp dầy nhưng vẫn phải phát triển các hệ thống bảo vệ mới.

ERA, vỏ phản ứng nổ. Chống đạn lõm.

ERA và các phương tiện chiến đấu khác trên T-90, cuối những năm 1990.

ERA là các liều nổ lõm xếp ngoài giáp, khi đạn bắn vào nó, sức nổ đẩy ra một luồng mang năng lượng cao. Các đầu đạn lõm 1 tầng gần như mất sức xuyên khi gặp ERA. Đạn KE bị đẩy nghiêng đi, do đó, ERA hiện đại như Contact-V của Nga đặt xa giáp để độ nghiêng thanh xuyên tăng lên, tăng khả năng đạn thanh xuyên gẫy phân tán năng lượng. ERA ngày nay tăng cường tính năng chống đạn HEAT và cả đạn APDS bằng phối hợp với giáp liên hợp và điểm hỏa điện tử. ERA đặt ngoài giáp liên hợp, luồng tấn công nào đi được qua ERA cũng đã bị lệch hướng, tiếp tục bị giáp liên hợp làm phân tán. ERA Nga không sử dụng luồng khí nữa mà bắn đi đạn là tấm kim loại chắc, đập vào luồng tấn công, đẩy luồng mạnh như APDS nghiêng di đến vài chục độ. ERA kết hợp này điểm hỏa điện tử, có giáp phụ che chắn.

Nhược diểm lớn nhất của ERA là khi một điểm nào đó trúng đạn APDS, mảnh văng có thể kích nổ ERA ngoài ý muốn. Trong chiến thuật, ERA gây khó khăn khi bố trí bộ binh đi cùng xe.

Một số nước khi chưa kịp phát triển đạn lõm sử dụng gốm đặc biệt chế thành các hộp rỗng. Hộp này kích nổ đạn sớm, phân tán luồng khí nóng, nhưng hiệu quả rất thấp (Thổ Nhĩ Kỳ, Thụy Điển). Nước Anh sử dụng kết hợp các chức năng gốm chịu nhiệt và giáp liên hợp trong loại giáp họ đặt tên Chobham. Kết cấu này mang tên phòng thí nghiệm sinh ra nó, rất bền cơ học, chịu nhiệt, nhưng không kết hợp chức năng ERA.

Chobham trên Merkava IV [26]

APS, hệ thống phòng thủ tích cực.

APS là hệ thống phòng thủ tích cực. Đây là hệ thống phòng không cực nhỏ và nhậy. Nó dùng laser, hoặc hồng ngoại, radar phát hiện và tính toán đường đi của đạn bắn tới. Sau đó hệ thống này bắn hỏng đầu đạn trước khi chạm xe tăng. APS chủ yếu dùng để chống tên lửa chống tăng, có tốc độ thấp. Tuy nhiên, thế hệ Arena-E bắn chặn tên lửa 700met/s, nhịp độ 0,2s-0,4s. Các APS hiện đại hạn chế ảnh hưởng quân ta quanh xe.

APS là một trong những đỉnh cao của kỹ thuật xe tăng. Chỉ rất ít nhước có những thành công hướng này. [4]

Tàng hình, gây nhiễu.

Nòng xe được lắp gốm chống phát xạ hồng ngoại cùng hệ thống tản nhiệt động cơ, giảm khả năng địch phát hiện-bám bằng hồng ngoại chói, hồng ngoại đo nhiệt độ, hồng ngoại định tâm. Xe tăng thử nghiệm T-95 có vỏ tàng hình bằng công nghệ hấp thụ đối phó với việc sử dụng radar trong quan sát, dẫn bắn.

Hệ thống tản nhiệt dùng không khí mát làm nguội, dùng gốm cách nhiệt những vùng nóng và vỏ xe, không khí nóng thổi qua nhứng ống định hướng che chắn tốt phía sau xe.

Để chống lại các tên lửa chống tăng có điều khiển ATGM xe tăng ngày nay có "Hệ thống gây nhiễu" bao gồm các súng khói, máy gây nhiễu hồng ngoại, máy gây nhiễu laser. Hệ thống Shtora trang bị trên các xe T-80 phát hiện và phân tích tên lửa bắn tới, phát hiện tín hiệu dẫn bắn laser. Khói trùm kín xe, mục tiêu giả laserhồng ngoại được các đèn chiếu tạo ra cùng pháo sáng cực mạnh ngay lập tức gâu nhiễu các phương tiện dẫn bắn cùng mắt xạ thủ đối phương.

Tàng hình, gây nhiễu dược thiết kế như một thành phần của hệ thống phòng thủ tích cực APS. Súng khói tạo ra khói bằng phun khói, bắn đạn chứa thuốc tạo khói (cách này ngay lập tức tạo dược màn khói rộng bằng giàn súng nhiều nòng). Một số xe đốt nhiên liệu tạo ra khói, màn khói tồn tại lâu.

EMPS, Chống mìn.

Mìn chống tăng được kích nổ bằng động lực (gạt, đè, chấn động) và điện từ. Để chống mìn động lực, xe tăng trang bị các "cày mìn sâu" là các lưỡi cày và bánh xe ép phía trước. Để chống mìn điện từ, tăng sử dụng hệ thống bảo vệ điện từ ElectroMagnetic Protection System (EMPS).

Hóa học. Sinh học. Phóng xạ

Những xe tăng hiện đại như Leopard 2A5, T-90 đều có bộ lọc không khí và điều hòa nhiệt độ để chiến đấu trong điều kiện cuộc chiến tranh hóa học. Tuy nhiên, hiện nay chỉ xe T-80, T-90 đầy dủ các thiết bị diều khiển từ xa, hệ thống cảm biến, tự động chiến đấu để đảm bảo trong môi trường độc hại (toàn bộ công tác tổ lái nằm trong giáp).

Tuy đều dự phòng khả năng hoạt động trong môi trường độc hại lâu, nhưng hầu hết các xe đều không có khả năng đó. Người ta chỉ sản xuất số lượng ít các xe mang đủ các bộ phận điều hòa lọc không khí. Các xe tank hiện đại khi cần đều có thể lắp các máy đó.

Phía trong cùng giáp chính là một lớp mềm, đây là một phức hợp composite kín chứa những nguyên tố nặng như chì chống phóng xạ. Một loại xe tăng thử nghiệm Object 279 [5] của Liên Xô trước đây thiết kế là một loại xe tăng có thành vát chống xung lực một vụ nổ hạt nhân, 4 xích đi được trên đất yếu như tuyết hay sản phẩm của vụ nổ.

Hệ thống dập lửa, bảo vệ tổ lái.

Trước dây, chỉ có Mekava và M1A1 sử dụng hệ thống bảo vệ tổ lái hữu hiệu, giảm thương vong khi xe trúng đạn thủng giáp. Hệ thống gồm một giáp phụ bên trong giáp chính, bao bọc tổ lái. Hệ thống dập lửa tự động mạnh và nhậy làm việc giữa giáp vỏ tổ lái và giáp chính. Hệ thống dập được những đám cháy nhỏ trong xe, giảm tốc độ cháy nổ xe khi xe bị phá hủy. Hiện tại, T-80T-90 cũng được trang hệ thống bảo vệ tổ lái này. Các xe T=80, T-90 tổ lái ngồi cụm gần nhau nên dễ thực hiện vỏ bảo vệ. Trong cuộc chiến tranh kéo dài, hệ thống này tỏ ra rất có giá trị, nó bảo toàn những chiến sĩ kinh qua chiến đấu giàu kinh nghiệm.

Ống thở để đi dưới nước.

Xe tăng T-90 Nga và ống thở.

Không xe tăng MBT nào có thể tự nổi tên mặt nước. Các xe gần giống xe tăng nhưng có thẻ nổi bơi lội được gọi là "xe tăng lội nước", trước đây còn gọi là "tăng bơi", ví dụ xe "PT-76". Các MBT vượt sông bằng cách lặn, "thở" qua nòng hoặc một ống thở lắp thêm. Xe Leopard 2A5 dùng một ống thở rộng, chụp vào cửa ra phía trên trưởng xe, nhờ đó cả tổ lái thoát hiểm được qua ống thở. T-80T-90 dùng ống nhỏ, không kiêm chức năng thoát hiểm tổ lái, hai xe này ở độ sâu thấp (ngập tháp pháo 1 mét) không cần lắp ống thở, dùng nòng.

Ống thở có từ thời Thế chiến 2. Nhược điểm của ống thở là thời gian lắp lâu, kích thước cồng kềnh nên không mang dự phòng được theo xe. Tuy thời gian lắp có thể vài tiếng nhưng các ống thở đều được thiết kế để tháo ra nhanh, thích hợp với những cuộc vượt sông, sang bờ phải đánh địch ngay.

Việc di dưới nước kéo theo hàng loạt các khó khăn về bảo vệ các thiết bị quan sát, kín, thoát hiểm...

Hệ động lực ngày nay

Hệ động lực được hoàn thiện thời những năn 1960, nay vẫn được chau chuốt.

Áp suất mặt đường

Đây là khối lượng xe chia cho diện tích xích tiếp giáp với mặt đường, nó đặc trung cho khả năng vượt lầy, càng nhỏ càng tốt.

  • T-90 nặng 48 tấn là 0,936 kg/cm2.
  • T-80=0,83kg/cm2. T-80B=0,87kg/cm2. T-80U=0,93kg/cm2. T-80UD=0,93kg/cm2.
  • M1A1 là 0,91kg/cm2. M1A2=1kg/cm2

Hệ thống treo

Giảm xóc treo trên từng bánh xe đảm bảo thân xe chạy êm tốc độ cao trên 50km/h điều kiện không có đường xá của chiến trường. Hệ thống ổn định điện tử đảm bảo ngắm bắn chính xác trong điều kiện di chuyển đó. Các thiết bị điện tử đặc biệt như đèn laser có riêng hệ ổn định đảm bảo chính xác. T-80 mỗi bánh xe có hai tầng giảm chấn thủy lực lồng nhau. Xu hướng giảm chấn chủ động đang được phát triển.

Các bánh đè của hệ thống treo còn có tác dụng tăng thêm khả năng chống đạn. Để giảm khả năng tổn thương ở khu vực này, người ta làm thêm riềm xích phía ngoài. Riềm xích của T-90 cũng là một loại giáp phức tạp, nhiều lớp chống đỡ đạn lõm. [6]

Động cơ

Động cơ là một yếu tố cơ bản phát triển sức mạnh xe. Động cơ có mạnh và nhỏ thì giáp xe mới dầy, súng mới khỏe. Người ta có hệ số sử dụng động cơ, tức công suất máy chính chia cho khối lượng xe. Xe T-80 có hệ số này lớn nhất: 1250HP / 45 tấn (~27). M1A2 1500 HP / 72 tấn (~21).

Đến những năm 1980, nhiều nước chuyển sang dùng động cơ turbine cho công suất cao. Tuy nhiên, gần đây ít những trận đấu tăng, mà chủ yếu xe tăng dùng chống du kích. Động cơ turbine khi làm việc công suất thấp rất tốn nhiên liệu, nên các động cơ diesel vẫn là động cơ ưa chuộng, dùng được nhiều loại nhiên liệu trên một động cơ. Ngày nay, nhiều xe tăng đã áp dụng động cơ turbo truyền động điều khiển được và bơm nhiên liệu điều khiển được. Ở loại động cơ này, năng lượng thừa từ xy-lanh tiếp tục đẩy turbine chạy, turbine này được dùng nén khí đầu vào. Năng lượng truyền giữa turbine, máy nén đầu vào, trục chính và lượng nhiên liệu được điều khiển điện tử. Loại động cơ này có kích thước nhỏ mà vẫn chạy ưu việt trong được dải công suất rộng.

Các xe Leopard 2 và T-72, T-80, T-90 đều mang động cơ dùng nhiều loại nhiên liệu, từ dầu Diesel đến xăng, điều này thuận lợi cho hậu cần. Xe M1A2 đã gặp trần phát triển do động cơ khi không thể chuyển sang động cơ Diesel piston và tăng thêm giáp.

T-34 trước đây có nhược điểm chỉ có máy chính, ví dụ khi nạp điện phải nổ cả cỗ máy đó. Xe tăng hiện nay thường có động cơ nạp điện riêng, thường là một máy chạy xăng nhỏ.

Xe tăng cơ động nhất thế giới T-80

Xe tăng T-80 được thiết kế để chiếm ưu thế trong các trận đấu tăng kiểu trận Prokhorovka hay trận đột kích Kalinin. Xe có hệ thống nạp đạn tự động băng tròn, làm giảm thể tích trong và chiều cao. Diện tích mục tiêu phía trước xe nhỏ, do đó, giáp xe rất dầy mà xe nhẹ. Xe T-80 ban đầu nặng 42,5 tấn, động cơ turbine 1000HP. Xe T-80U có động cơ turbine 1250HP, xe nặng gần 46 tấn. Mỗi giảm xóc gồm hai ống thủy lực lồng nhau có van giảm tiết lưu một chiều. Xe được gọi là xe tăng bay, xe cơ động nhất trong các tăng hiện đại, với tốc độ chiến đấu 70km/h. Thân xe này trở thành kiểu mẫu cho các tăng Nga sau này. [7]

MBT T-80 là kết quả của quá trình phát triển dài, bắt đầug từ BT-7, A-20, T-34, T-44, T-64, T-55, T-62 và một phiên bản thử nghiệm dùng súng đạn phương tây là T-2000. T-90 không mạnh mẽ bằng xe này nhưng kín võ hơn, khả năng sống sót trong các môi trường phức tạp cao hơn.

T-80 ngày nay được Ucraina sản xuất nhiều nhất và xuất khẩu sang một số nước, lớn nhất là Pakistan. [8] [9]

Tham khảo

  • Иностранные армии: Вооружение и техника – Справочник (Воениздат) Mосква 1984 – Sổ tay tra cứu: Vũ khí, kỹ thuật các quân đội nước ngoài – Bản tiếng Nga NXB Quân sự Mосква 1984
  • Военный энциклопедический словарь – (Воениздат) Mосква 1986 – Từ điển bách khoa quân sự NXB quân sự Mосква 1986.
  • Các bài về xe tăng trong Wikipedia tiếng Anhtiếng Nga.
  • Scott Cunningham's Armor in Action – trang Web chứa số lượng lớn các ảnh xe tăng thiết giáp và trang bị vũ khí kỹ thuật trên thực địa

Liên kết ngoài

Chú thích

  1. ^ http://www.youtube.com/watch?v=b7F_Oif4SP8 http://www.youtube.com/watch?v=YTXdnWBV5lY
  2. ^ Russian Army T-90S MBT (Main Battle Tank) Video Clip, trình diễn về dồ điện tử trên T-90 http://www.youtube.com/watch?v=spfbAb-tcUg&mode=related&search=
  3. ^ Các xe tăng thuộc thế hệ FMBT ra đời những năm 1960 của Liên Xô gồm T-90, T-72 và T-64: http://btvt.narod.ru/4/t-90_v_strou.htm http://btvt.narod.ru/4/t-72.html http://btvt.narod.ru/4/t-64.html
  4. ^ Russian Army T-90S MBT (Main Battle Tank) Video Clip, trình diễn về dồ điện tử trên T-90 http://www.youtube.com/watch?v=spfbAb-tcUg&mode=related&search=
  5. ^ http://legion.wplus.net/guide/army/ta/279.shtml
  6. ^ T-64 http://btvt.narod.ru/4/t-64.files/Xodovaya.gif
  7. ^ http://btvt.narod.ru/4/t-80.html
  8. ^ Một số video về tính cơ động mạnh mẽ của T-80' Informations about T-80 Tank T-80 Tank Training T-80 Main Battle Tank (Russian Army) | T-80] T-80 U tank T-80 part 1/3 T-80 part 2/3 part 3/3
  9. ^ A mix of russian main battle tanks, mainly the T80, T90, BE http://www.youtube.com/watch?v=4F89YnN5tEc