Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Iosif Vissarionovich Stalin”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎top: clean up, replaced: → using AWB
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 563: Dòng 563:
Trong suốt chiến tranh thế giới lần hai, Hồng Quân Xô viết đã vượt biên giới, gầy dựng và hỗ trợ cho những người cộng sản tại đây làm cuộc đảo chính, lật đổ chính phủ thân Đức Quốc xã tại Bulgaria năm 1944.<ref name=wettig50>{{Harvnb|Wettig|2008|tr=50}}</ref> Nhờ vậy mà các chỉ huy quân sự của lực lượng Hồng Quân nắm quyền lực rất cao, các lực lượng thân Liên Xô, đứng đầu là [[Kimon Georgiev]] nắm hoàn toàn tình hình chính trị trong nước.
Trong suốt chiến tranh thế giới lần hai, Hồng Quân Xô viết đã vượt biên giới, gầy dựng và hỗ trợ cho những người cộng sản tại đây làm cuộc đảo chính, lật đổ chính phủ thân Đức Quốc xã tại Bulgaria năm 1944.<ref name=wettig50>{{Harvnb|Wettig|2008|tr=50}}</ref> Nhờ vậy mà các chỉ huy quân sự của lực lượng Hồng Quân nắm quyền lực rất cao, các lực lượng thân Liên Xô, đứng đầu là [[Kimon Georgiev]] nắm hoàn toàn tình hình chính trị trong nước.


Năm 1949, [[Liên Xô]], Cộng hòa Nhân dân Bulgari, [[Tiệp Khắc]], Cộng hòa Nhân dân hungary, Cộng hòa Nhân dân Ba Lan và Cộng hòa Nhân dân Romania thành lập nên [[Hội đồng Tương trợ Kinh tế]] theo mong muốn của Stalin để làm tăng ảnh hưởng của Liên Xô tại Trung Âu và làm giảm ảnh hưởng của chính sách [[Kế hoạch Marshal]] của Hoa Kỳ dành cho châu Âu,<ref name=loc-cs>{{chú thích sách|url=http://memory.loc.gov/frd/cs/germany_east/gx_appnb.html|title=Phụ lục B: Hội đồng Tương trợ Kinh tế|place=[[Cộng hòa Dân chủ Đức|Đông Đức]]|publisher=Thư viện nghiên cứu Quốc gia}}</ref><ref name=bideleaux>{{Harvnb|Bideleux|Jeffries|1998}}</ref> [[Tiệp Khắc]], Hungary và Ba Lan có tỏ thái độ muốn được nhận viện trợ từ chương trình Marshal mặc dù họ biết rằng họ phải đáp ứng các điều kiện như cho phép trao đổi tiền tệ và thực hiện kinh tế thị trường. Vào tháng 7 năm 1947, Stalin ra sắc lệnh buộc các chính phủ thân Xô viết phải rút khỏi Hội nghị Pa-ri bàn về chương trình Tái thiết châu Âu. Điều này đã cho thấy rõ tình hình hậu Thế Chiến hai dẫn đến sự chia rẻ châu Âu thành hai phần riêng biệt.
Năm 1949, [[Liên Xô]], Cộng hòa Nhân dân Bulgari, [[Tiệp Khắc]], Cộng hòa Nhân dân hungary, Cộng hòa Nhân dân Ba Lan và Cộng hòa Nhân dân Romania thành lập nên [[Hội đồng Tương trợ Kinh tế]] theo mong muốn của Stalin để làm tăng ảnh hưởng của Liên Xô tại Trung Âu và làm giảm ảnh hưởng của chính sách [[Kế hoạch Marshal]] của Hoa Kỳ dành cho châu Âu,<ref name=loc-cs>{{chú thích sách|url=http://memory.loc.gov/frd/cs/germany_east/gx_appnb.html|title=Phụ lục B: Hội đồng Tương trợ Kinh tế|place=[[Cộng hòa Dân chủ Đức|Đông Đức]]|publisher=Thư viện nghiên cứu Quốc gia}}</ref><ref name=bideleaux>{{Harvnb|Bideleux|Jeffries|1998}}</ref> [[Tiệp Khắc]], Hungary và Ba Lan có tỏ thái độ muốn được nhận viện trợ từ chương trình Marshal mặc dù họ biết rằng họ phải đáp ứng các điều kiện như cho phép trao đổi tiền tệ và thực hiện kinh tế thị trường. Vào tháng 7 năm 1947, Stalin ra sắc lệnh buộc các chính phủ thân Xô viết phải rút khỏi Hội nghị Pa-ri bàn về chương trình Tái thiết châu Âu. Điều này đã cho thấy rõ tình hình hậu Thế Chiến hai dẫn đến sự chia rẽ châu Âu thành hai phần riêng biệt.


Tại Hi Lạp, Anh và Hoa Kỳ ủng hộ phe chống cộng trong [[Nội chiến Hy Lạp]] và Liên Xô đứng về phe những người cộng sản. Mặc dù vậy, Stalin từ chối về việc can thiệp sâu vào tình hình tại Hi Lạp trong khi Anh-Mỹ thì liên tục tăng cường quân đội tấn công vào Hy Lạp, kết quả là những người cộng sản Hy Lạp đã bị khối chống cộng đánh bại và [[chính phủ quân phiệt Hy Lạp]] (1947-1964) ra đời. Albania vẫn duy trì mối quan hệ với [[Moskva|Max-cơ-va]] trong khi [[Nam Tư|Cộng hòa Liên bang Nam Tư]] lại nằm ở tư thế chống [[Liên Xô]] trong suốt thời gian chia rẽ giữa hai bên cho đến khi nó kết thúc vào năm 1955.
Tại Hi Lạp, Anh và Hoa Kỳ ủng hộ phe chống cộng trong [[Nội chiến Hy Lạp]] và Liên Xô đứng về phe những người cộng sản. Mặc dù vậy, Stalin từ chối về việc can thiệp sâu vào tình hình tại Hi Lạp trong khi Anh-Mỹ thì liên tục tăng cường quân đội tấn công vào Hy Lạp, kết quả là những người cộng sản Hy Lạp đã bị khối chống cộng đánh bại và [[chính phủ quân phiệt Hy Lạp]] (1947-1964) ra đời. Albania vẫn duy trì mối quan hệ với [[Moskva|Max-cơ-va]] trong khi [[Nam Tư|Cộng hòa Liên bang Nam Tư]] lại nằm ở tư thế chống [[Liên Xô]] trong suốt thời gian chia rẽ giữa hai bên cho đến khi nó kết thúc vào năm 1955.

Phiên bản lúc 01:54, ngày 6 tháng 5 năm 2020

Iosif Stalin
Иосиф Сталин(tiếng Nga)
იოსებ სტალინი(tiếng Gruzia)
Tập tin:Stalin the communist.jpg
Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô
Nhiệm kỳ
3 tháng 4 năm 1922 – 16 tháng 10 năm 1952
30 năm, 196 ngày
Tiền nhiệmVyacheslav Molotov
(Bí thư Thừa nhiệm)
Kế nhiệmNikita Khrushchev
(Bí thư thứ nhất)
Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô
Nhiệm kỳ
6 tháng 5 năm 1941 – 5 tháng 3 năm 1953
11 năm, 303 ngày
Tiền nhiệmVyacheslav Molotov
Kế nhiệmGeorgy Malenkov
Dân ủy (Bộ trưởng) Quốc phòng Liên Xô
Nhiệm kỳ
19 tháng 7 năm 1941 – 25 tháng 2 năm 1946
4 năm, 221 ngày
Tiền nhiệmSemyon Timoshenko
Kế nhiệmNikolai Bulganin
sau giai đoạn bỏ trống
Thông tin cá nhân
Sinh
Ioseb Besarionis dze Jugashvili

21 tháng 12 (lịch Gregorius) năm 1878
Gori, Tiflis, Đế quốc Nga
Mất5 tháng 3 năm 1953 (74 tuổi)
Kuntsevo Dacha, Kuntsevo, CHXHCNXVLB Nga, Liên Xô
Nơi an nghỉLăng Lenin, Moskva (1953–1961)
Nghĩa trang tường Điện Kremli, Moskva (từ năm 1961)
Đảng chính trịĐảng Cộng sản Liên Xô
Phối ngẫuEkaterina Svanidze (1906–1907)
Nadezhda Alliluyeva (1919–1932)
Con cáiYakov Dzhugashvili
Vasily Dzhugashvili
Svetlana Alliluyeva
Cha mẹBesarion JughashviliKetevan Geladze
Tặng thưởngAnh hùng Liên Xô Anh hùng Liên Xô





Chữ ký
Phục vụ trong quân đội
Biệt danhKoba
Thuộc Liên Xô
Phục vụQuân đội Liên Xô
Năm tại ngũ1943–1953
Cấp bậcNguyên soái Liên Xô (1943–1953).
Chỉ huyTất cả (lãnh đạo tối cao)
Tham chiếnChiến tranh Xô - Đức

Iosif Vissarionovich Stalin (tiếng Nga: Иосиф Сталин [ˈjosʲɪf vʲɪsɐˈrʲonəvʲɪt͡ɕ ˈstalʲɪn] , hay trong tiếng Anh gọi là Joseph Stalin, thường gọi tắt là Stalin) (21 tháng 12 năm 18785 tháng 3 năm 1953)[1] là lãnh đạo tối cao của Liên bang Xô viết từ giữa thập niên 1920 cho đến khi qua đời năm 1953.

Là một nhà cách mạng Bolshevik tham gia vào Cách mạng tháng Mười năm 1917, Stalin nhậm chức Tổng bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng năm 1922, khi đó chỉ là một vị trí ít có quyền lực. Stalin thành công trong việc đạt tới vị trí lãnh đạo sau khi Lenin qua đời năm 1924 và đến khoảng cuối thập niên 1920 ông là lãnh đạo tối cao ở Liên Xô qua các thời kỳ công nghiệp hóa và hợp tác hóa những năm 30, Chiến tranh Xô-Đức và thời kỳ đầu Chiến tranh Lạnh. Bên cạnh vị trí lãnh đạo đảng, ông cũng từng đảm nhiệm các vị trí Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Dân ủy (tức Bộ trưởng) Quốc phòng Liên Xô, Nguyên soái Liên Xô.

Trong thời kỳ cầm quyền của mình, một mặt, Stalin tiến hành các biện pháp trấn áp các đối thủ chính trị mà ông cho là nguy hiểm với nhà nước, đỉnh cao là những năm 1930. Mặt khác, trong giai đoạn Stalin lãnh đạo, Liên Xô đã thực hiện thành công quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, giành chiến thắng trước Đức Quốc xã trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Cùng với Quốc tế Cộng sản đóng ở Moskva gia tăng ảnh hưởng, Liên Xô trỗi dậy thành một siêu cường sau đó. Nhờ vậy, danh tiếng và ảnh hưởng của Stalin đã lan khắp thế giới.

Ngày nay, Stalin là một nhân vật lịch sử gây nhiều tranh cãi. Nhiều người phương Tây xem Stalin là một bạo chúa[2], giáo sư Richard Lorenz, giáo sư về lịch sử Đông Âu cho rằng Stalin đã lựa chọn một con đường tốn kém nhất để đưa Liên Xô đạt tới một xã hội công nghiệp, tuy nhiên cũng không thể phủ nhận nhờ quá trình này mà Liên Xô đã giành thắng lợi trong Thế Chiến thứ Hai.[3] Trong khi đó, quan điểm của người dân Liên bang Nga về Stalin khá khác biệt, với một tỉ lệ đáng kể xem ông là một anh hùng dân tộc, một vĩ nhân. Sách giáo khoa lịch sử của Nga biên soạn năm 2006 cho rằng "Stalin là nhà lãnh đạo thành công nhất của Liên Xô", bởi dưới sự lãnh đạo của ông, nước Nga đã giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại; thực hiện thành công công nghiệp hóa kinh tế và cách mạng văn hóa, xây dựng một hệ thống giáo dục tốt nhất để vươn lên trở thành siêu cường quốc trên thế giới.[4] Hướng dẫn cho giáo viên lịch sử được xuất bản vào năm 2008 của chính phủ Nga thì trình bày về Stalin như một nhà lãnh đạo "quản lý hiệu quả""người hiện đại hóa đất nước".[5][6][7]

Tuổi trẻ

Stalin thời thiếu niên (1894)
Ekaterina Svanidze — người vợ đầu của Stalin

Iosif Stalin sinh ngày 21 tháng 12 năm 1879 theo lịch Gregorius (tức ngày 6 tháng 12 năm 1878 theo lịch Julius) trong một gia đình công nhân đóng giày ở thị trấn Gori của tỉnh Tiflis, Đế quốc Nga, nay thuộc Gruzia. Tên khai sinh của ông trong tiếng GruziaIoseb Besarionis dze Dzhugashvili (იოსებ ბესარიონის ძე ჯუღაშვილი, Ио́сиф Джугашви́ли). Mẹ ông tên là Ketevan Geladze còn cha ông là Besarion Jughashvili, một người thợ sửa giày. Trước Ioseb họ có hai đứa con khác nhưng đều chết yểu.[8]

Khi còn nhỏ Ioseb có nhiều vấn đề về sức khỏe. Ông sinh ra với hai ngón chân trái dính vào nhau.[9] Lên 7 tuổi ông bị đậu mùa và để lại những vết sẹo rỗ cho đến cuối đời. Năm 12 ông bị một tai nạn và tay trái từ đó bị cứng khớp và ngắn hơn tay phải.

Gia đình từng có thời yên ấm cho đến khi Besarion bị nghiện rượu nặng và thường xuyên lạm dụng, đánh đập vợ con.[10] Lên 10 tuổi Ioseb mới bắt đầu học trường dòng nơi học sinh người Gruzia được dạy tiếng Nga, tuy nhiên đến khi trưởng thành giọng Stalin vẫn mang nặng ngữ điệu Gruzia. Cũng khoảng thời gian này cha Ioseb bị trục xuất khỏi Gori do tấn công cảnh sát trưởng địa phương.

Năm 16 tuổi, Ioseb được nhận học bổng vào một Chủng viện Chính thống giáo Gruzia của Tiflis ở Tbilisi. Mặc dù kết quả học tập tốt, Ioseb bị đuổi học năm 1899 sau khi bỏ lỡ kì thi cuối năm. Hồ sơ của chủng viện cũng cho thấy ông đã không thể đóng tiền học.[11]

Khoảng thời gian này, Ioseb đọc được những tác phẩm của Lenin, và gia nhập Đảng Công nhân Xã hội-Dân chủ Nga, một tổ chức Marxist, tới năm 1901 trở thành ủy viên thành ủy Tiflis. Sau khi rời chủng viện, Stalin từng làm công việc thư lại bán thời gian ở một văn phòng khí tượng, nhưng sau một đợt đàn áp của chính quyền, ông rút vào hoạt động ngầm. Ông gia nhập đảng Bolshevik năm 1903 và lấy tên là "Stalin" (Ста́лин), có nghĩa "Mạnh như thép". Trong tiếng Nga, tên đầy đủ của ông là Ио́сиф Виссарио́нович Ста́лин, được chuyển tự là Iosif Vissarionovich Stalin. [12]

Năm 1903, khi Lenin lập ra nhóm Bolshevik bên trong Đảng Công nhân Xã hội Dân chủ, Stalin tích cực tham gia và chứng tỏ mình là một nhà tổ chức hiệu quả cũng như một nhà vận động có tài, vận dụng học vấn và tài làm thơ của mình. Trong thời gian này, Stalin tổ chức rải truyền đơn, kích động bãi công, tiến hành cướp nhà băng cũng như các vụ ám sát chống chế độ Sa hoàng. Vụ cướp nổi tiếng nhất là vào ngày 26 tháng 6 năm 1907 tại Tiflis, với sự giúp đỡ của một tay trong là bạn học cũ của Stalin, cướp đi số tiền lên đến 341 ngàn rúp (trị giá hơn 3 triệu đôla Mỹ theo tỷ giá hiện nay), có vai trò quan trọng của Stalin trong việc lập kế hoạch dù ông không tham gia vào[13].

Từ năm 1902 cho đến năm 1913 Stalin bị bắt tất cả bảy lần, nhiều lần bị đày sang Siberia, trong đó 5 lần vượt ngục. Trong Cách mạng Nga (1905), ông chiến đấu cho đảng Bolshevik. Tháng 1-1912, trong Hội nghị toàn Nga lần VI của Đảng Công nhân xã hội dân chủ, Stalin đã được bầu vắng mặt vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng.[14]

Stalin kết hôn lần đầu với Ekaterina Svanidze năm 1906 và có một người con. Bà chết ngay năm sau đó do bệnh sốt phát ban. Năm 1911, ông gặp vợ tương lai thứ hai, Nadezhda Alliluyeva, trong một lần bị đi đày ở Siberia.

Cách mạng tháng Mười và Nội chiến Nga

Cách mạng Nga năm 1917

Hình ảnh Stalin trong hồ sơ của cảnh sát Saint Petersburg năm 1911.[15]

Sau Cách mạng Tháng Hai, Stalin được tha đi đày và trở về Sankt-Peterburg cuối tháng 3 năm 1917 sau thời gian lưu đày.[16] Stalin, cùng với Lev KamenevMatvei Muranov trục xuất MolotovShlyapnikov ra khỏi vị trí biên tập của tờ Pravda, cơ quan ngôn luận của Đảng Bolshevik. Bấy giờ Lenin và phần lớn ban chấp hành đang lưu vong, tờ Pravda của Stalin hậu thuẫn cho chính phủ lâm thời của Alexander Kerenskii và bác bỏ kế hoạch nắm chính quyền hai bước của Lenin.[17] Tuy nhiên, sau khi Lenin giành ưu thế tại đại hội Đảng tháng 4 năm 1917, Stalin ngả sang phe Lenin và hướng tờ báo chĩa mũi nhọn đả kích chính phủ lâm thời. Và tại đại hội Đảng lần đó, Stalin được bầu vào Ủy ban Trung ương Bolshevik với số biều cao thứ ba chỉ sau Lenin và Zinoviev.[18]

Stalin là người ủng hộ mạnh mẽ cuộc biểu tình vũ trang ngày 1 tháng 7 và cuộc nổi dậy sau đó, thường được biết dưới tên Những ngày tháng Bảy.[19] Soviet Petrograd bị động trước cuộc nổi dậy tự phát. Khi Kerenskii hạ lệnh bắt giữ Lenin sau đó, Stalin đã giúp Lenin trốn thoát.[20]

Đầu tháng 8, tại Đại hội 6 Đảng Bolshevik, Stalin củng cố vị trí của mình, tái cử vào Ban chấp hành Trung ương, giữ chức tổng biên tập báo Pravda và được chọn làm thành viên Quốc hội Lập hiến[20] Trước nguy cơ Lavr Kornilov tiến hành đảo chính, Kerensky trả tự do cho các lãnh đạo Bolshevik và hợp tác với Petrograd. Đầu tháng 11, khi mối nguy Kornilov qua đi, Kerensky có rất ít người trung thành ở thủ đô và bị binh lính và tự vệ Xô viết áp đảo. Ngày 7 tháng 11, tại Học viện Smolny, Ủy ban Trung ương quyết định phát lệnh khởi nghĩa giành chính quyền, khởi đầu cho Cách mạng Tháng Mười. Ngày 8 tháng 11, những người Bolshevik đã chiếm được Cung điện Mùa đông, bắt giữ chính phủ lâm thời.

Nội chiến Nga, 1917–1921

Tập tin:Delegates VIII Congress of the RKP(b).jpg
Nhóm những thành viên của Ban chấp hành Trung ương khóa 8 Đảng Cộng sản Nga năm 1919. Ở giữa là Stalin, Vladimir Lenin, và Mikhail Kalinin.

Khi Petrograd rơi vào tay Bolshevik, Stalin được chỉ định làm Dân ủy Các vấn đề dân tộc, bên cạnh vị trí biên tập tại Pravda.[21] Nội chiến Nga bùng nổ ít lâu sau đó, giữa Hồng quân của chính quyền Soviet mới thành lập và quân Bạch vệ được quân đội nhiều nước châu Âu ủng hộ.[22]

Tháng 3 năm 1918, Lenin phái Stalin đến Tsaritsyn để thi hành chính sách Cộng sản thời chiến tại thành phố đóng vai trò quan trọng vận chuyển dầu và lương thực từ Bắc Kavkaz này. Tại đây, ông tìm cách gây ảnh hướng lên giới quân sự, thiết lập quan hệ với các chỉ huy Kliment VoroshilovSemyon Budyonny, và nhận được quyền kiểm soát quân đội trong Trận Tsaritsyn.[21] Trong thời gian này, Stalin đã tiến hành xử tử hàng loạt những người bị coi là phần tử phản cách mạng và cho đốt nhiều làng mạc.[23] Ông phản đối nhiều chính sách của Trotsky, người bấy giờ là Chủ tịch Ủy ban Quân sự Cách mạng và do đó là cấp trên trực tiếp của mình. Một trong những mâu thuẫn giữa họ là việc Stalin ra lệnh xử tử hàng loạt những sĩ quan dưới chế độ cũ mà Trotsky đã thuê vì họ có năng lực; Stalin thậm chí gửi thư cho Lenin đòi cách chức Trotsky, nhà tổ chức chính của Hồng quân.[21]

Đầu năm 1919, Stalin trở lại Moskva. Tại Đại hội Đảng lần thứ 8 (18-23/3), mặc dù Lenin chỉ trích hành động xử tử quá mức của Stalin, ông vẫn được bầu làm thành viên chính thức của thể chế quyền lực tối cao mới hình thành, tức Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng gồm 5 người (cùng với Lenin, Trotsky, Kamenev và Krestinsky, ngoài ra Zinoviev, BukharinKalinin là ủy viên dự khuyết) cũng như Ban Tổ chức Trung ương (Orburo, tiền thân của Ban Bí thư).[24] Một ngày sau đó, Stalin tổ chức đám cưới với Nadezhda Alliluyeva. Tháng 5 năm 1919, Stalin được gửi tới Mặt trận phía Tây, nơi ông thi hành kỉ luật thời chiến, cho phép xử tử công khai những binh sĩ đào ngũ.[21]

Chiến tranh với Ba Lan

Sau khi giành ưu thế trong cuộc nội chiến chống Bạch vệ, những người Bolshevik tiến hành bước tiếp theo là đặt tầm ảnh hưởng lên những lãnh thổ cũ của Đế quốc Nga, vốn đã tách ra khỏi Nga sau sự sụp đổ của Nga hoàng. Trong khi đó, Ba Lan lại muốn mở rộng lãnh thổ về phía đông nhằm đạt tới thời cực thịnh của đế quốc Ba Lan vào năm 1722 (khi đó lãnh thổ Ba Lan bao trùm toàn bộ UkrainaBelarus).

Căng thẳng về lãnh thổ giữa 2 bên đã làm nổ ra Chiến tranh Nga-Ba Lan 1919-1921. Kế hoạch của Lenin và Trotsky trước hết là khôi phục Kiev (thủ đô của Ukraina, lúc này đã nằm trong tay Ba Lan), sau đó tiến công nhiều hướng vây chiếm Warszawa ở phía Bắc. Stalin được cử làm Chính ủy Mặt trận Tây Nam.

Tới năm 1920, các lực lượng của TrotskyMikhail Tukhachevsky đã chiếm lại được Kiev và hình thành thế bao vây giáp chiến với tư lệnh quân Ba Lan là Władysław Sikorski tại trận Warsaw năm 1920. Stalin từ chối chi viện cho mặt trận phương Bắc, điều mà nhiều nhà sử học cho rằng là do ham muốn có một vinh quang cá nhân của Stalin.[25] Điều đó dẫn đến sự thất bại của Hồng quân ở cả hai mặt trận LvivWarszawa. Ông bị buộc phải quay về Max-cơ-va tháng 8 năm 1920 để điều trần và phải từ bỏ mọi chức vụ trong quân đội. Tại Đại hội Đảng lần 9 vào 22 tháng 9, Trotsky lên tiếng chỉ trích công khai các hành vi của Stalin. Stalin không bác bỏ trực tiếp các cáo buộc đó mà thay vào đó nói rằng bản thân cuộc chiến là một sai lầm.

Lên nắm quyền

Vào năm 1921, Stalin cùng với một đồng hương Gruzia khác là Sergo Ordzhonikidze, Chủ tịch Văn phòng Đảng ở Kavkaz, vận động cho việc mở rộng ảnh hưởng của Soviet tại Gruzia (nước đã nhận quyền độc lập từ Nga theo theo Hiệp ước Moskva 1920), dẫn đến Chiến tranh Nga-Gruzia.[26] Nước Cộng hòa Xô viết Gruzia được thành lập, nhưng phải dựa vào Hồng quân để đối phó với sự phản đối trong dân chúng. Những lãnh đạo cộng sản địa phương cho rằng cần áp dụng các biện pháp hòa giải, điều mà Lenin tán thành.[27] Stalin phản đối quyết liệt, thi hành những biện pháp trấn áp đẫm máu như trong Nội chiến Nga đối với những người dân tộc chủ nghĩa Gruzia và loại bỏ những đối thủ trong Xô viết Gruzia. Với sức khỏe suy giảm, sự can thiệp của Lenin mất đi ảnh hưởng và ngày 30 tháng 12 năm 1922, Liên Xô thành lập với Gruzia cùng với Nga, Belarus, Ukraina.[28] Điều này đã hầu như làm đổ vỡ quan hệ cá nhân giữa Stalin và Lenin, vì Lenin luôn giữ lý tưởng về quyền bình đẳng giữa các dân tộc.[29][30]

Tuy nhiên, Lenin vẫn xem Stalin như một đồng minh trung thành và cần thiết, và trước sự chống đối chính sách của phe cực tả do Trotsky đứng đầu, ông đã quyết định trao cho Stalin nhiều quyền lực hơn. Cùng với sự trợ giúp của Lev Kamenev, Lenin đã chỉ định Stalin làm Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Xô viết tại Đại hội X của Đảng, vào ngày 3 tháng 4 năm 1922, bên cạnh vị trí trong Ban chấp hành, Ban thanh tra Công nông và Ban Dân ủy Dân tộc. Tuy chức Tổng Bí thư ít có thực quyền mà mang nhiều tính chất văn phòng, nó đã cho phép Stalin tránh những cuộc đối đầu trực diện với Trotsky và có thể bổ nhiệm những người thân cận vào các vị trí trong đảng và chính quyền.[31]

Trong thời kỳ Lenin bị ốm (1922–23), Stalin đã dùng bức ảnh này để tuyên truyền mình như người kế tục trung thành của Lenin.[32]

Do vết thương từ một vụ ám sát hụt và làm việc quá sức, Lenin gặp cơn tai biến vào năm 1922, các bác sĩ buộc ông phải nghỉ dưỡng.[33] Stalin tới trang trại Gorki để viếng thăm Lenin thường xuyên, và trở thành người đưa tin cho Lenin với Trung ương Đảng.

Tuy thế Lenin thường xuyên tranh cãi với Stalin và trong năm 1923, Lenin đã viết một bản Di chúc trong đó lên án chủ nghĩa bè phái và tất cả các thành viên trong Bộ Chính trị, gồm cả Trotsky và Stalin. Ông yêu cầu Di chúc này phải được đọc trước Đại hội toàn quốc của Đảng.[34] Về phần Stalin, Lenin mô tả vị trí Tổng Bí thư có "quyền lực vô hạn", và nghi ngờ năng lực của Stalin cho vị trí này. Lenin bổ sung ngày 24 tháng 12 vào Di chúc rằng Stalin "quá thô lỗ" và "đó là tại sao tôi đề nghị các đồng chí nghĩ cách loại bỏ Stalin khỏi vị trí Tổng Bí thư", thay thế bằng một người mà Lenin đòi hỏi là so với Stalin phải "khoan dung hơn, trung thành hơn, lịch sự hơn, và quan tâm hơn tới đồng chí, ít giảo hoạt hơn...".[35] Trong Di chúc này cùng những văn bản khác được gọi chung là "Di chúc chính trị của Lenin", Lenin cũng đề nghị giảm bớt quyền lực của ban lãnh đạo tối cao, tăng số lượng Ủy viên Trung ương, tăng quyền cho cơ quan dân cử và Ban Kiểm tra Trung ương.

Trong lúc Lenin đang dưỡng bệnh, Stalin liên minh với Kamenev và Zinoviev để cạnh tranh với Trotsky, và bộ ba quyền lực này dần giành được vị thế trong Đảng. Di chúc của Lenin không được công bố vào Đại hội 12 của Đảng năm 1923;[36] ngày 27 tháng 1 năm 1924 Lenin qua đời. Tại Đại hội Đảng thứ 13, Di chúc Lenin được đọc nhưng đã bỏ đi phần Lenin kêu gọi loại trừ Stalin và bị hạn chế: chỉ đọc tại từng tổ thảo luận, các đại biểu không được ghi chép hay nhắc tới nó trong phiên họp toàn thể, và không công bố ra ngoài. Toàn bộ di chúc chỉ được đọc trong một cuộc họp nhỏ hơn của Ban chấp hành trung ương tuy nhiên Trotsky và các thành viên khác vẫn đồng ý để Stalin tiếp tục nắm quyền.[37] Sự hạn chế này, cùng với sự chần chừ không nắm bắt cơ hội của Trotsky,[38] đã cho phép bộ ba Stalin-Kamenev-Zinoviev duy trì vị trí sau Đại hội.

Ít lâu sau đó, liên minh với Kamenev và Zinoviev sụp đổ: tại Đại hội XIV, Kamenev công khai đòi bãi chức Tổng bí thư của Stalin.[39] Kamenev và Zinoviev cùng Trotsky lập nên Khối đối lập Thống nhất, trong khi Stalin bắt tay với Bukharin. Khi Stalin đề nghị Trotsky tiến hành một cuộc tranh luận trong toàn đảng, kết quả của cuộc trưng cầu toàn đảng là một thất bại thảm hại của Trotsky. Trong số 854.000 đảng viên lúc đó có 730.000 tham gia bỏ phiếu, có tới 724.000 đảng viên ủng hộ lập trường của Stalin và chỉ có 6.000 đảng viên ủng hộ Trotsky.[40]

Khối Đối lập Thống nhất lục đục và sớm tan rã, và các đối thủ chính của Stalin lần lượt bị tước bỏ chức vụ: Hội nghị Ban chấp hành Trung ương tháng 10 năm 1927 loại cả ba Trotsky, Zinoviev và Kamenev ra khỏi ban chấp hành. Trotsky bị bãi bỏ đảng tịch và quyết định rời khỏi Liên Xô đầu năm 1929, trong khi hai người kia viết thư xin lỗi và hứa sẽ ủng hộ Stalin.

Với quyền lực được củng cố, Stalin bắt đầu thúc đẩy tiến hành chính sách phát triển công nghiệp nặng và tăng cường quyền kiểm soát tập trung về kinh tế, chấm dứt Chính sách Kinh tế Mới (NEP) của Lenin.[41] Vào cuối năm 1927, đứng trước sự suy giảm nghiêm trọng nguồn cung ngũ cốc, Stalin tiến hành những biện pháp khắc nghiệt, ra lệnh tịch thu lượng ngũ cốc tích trữ của các hộ phú nông kulak và đẩy nhanh tập thể hóa nông nghiệp. Quá trình cưỡng bức gây ra nhiều sự tàn phá và nổi loạn ở khắp các miền nông thôn, nhưng Stalin vẫn kiên quyết và đầu năm 1928 đi công cán Siberia để đốc thúc. Bukharin và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Alexey Rykov phản đối chính sách kinh tế của Stalin và đòi quay lại NEP, nhưng không nhận được đa số ủng hộ trong giới lãnh đạo cao cấp.[42] Stalin buộc tội Bukharin hữu khuynh, đòi quay lại tư bản chủ nghĩa. Bukharin bị loại khỏi Bộ chính trị vào tháng 11 năm 1929.[43] Một thành viên khác chống đối chính sách nông nghiệp của Stalin là Mikhail Kalinin đứng trước điều tra cáo buộc lạm dụng công quỹ do Stalin đề ra, cuối cùng đã khuất phục Stalin.[44] Cuối cùng, tháng 12 năm 1930 Rykov bị cách chức, Vyacheslav Molotov vào thay thế theo sự đề nghị của Stalin.[45] Đến thời gian này, sự chỉ trích công khai vị trí tối cao của Stalin trong Đảng hầu như không còn tồn tại.[46]

Giai đoạn 1927-1939

Tập thể hóa nông nghiệp

Dưới thời Chính sách kinh tế mới, Lenin cho phép tiếp tục tồn tại tiểu tư hữu nông nghiệp, và dự tính sẽ cần ít nhất 20 năm trước khi tìm cách đặt nó dưới sự kiểm soát của nhà nước. Khi lên nắm quyền, Stalin giảm xuống còn 5 năm và bắt đầu chính sách tập thể hóa nông nghiệp từ năm 1927.[47] Stalin cho rằng các nông trang quy mô lớn, áp dụng cơ giới hóa và các tiến bộ kỹ thuật sẽ giúp tăng cao năng suất nông nghiệp. Nông dân được kêu gọi gia nhập các hợp tác xã nông nghiệp (kolkhoz) hoặc các nông trường (sovkhoz) do nhà nước điều hành.

Đứng trước cuộc khủng hoảng lương thực năm 1928, khi các thành phố thiếu lương thực trầm trọng, vấn đề tập thể hóa trở nên cấp thiết. Stalin cáo buộc thiếu lương thực là do giới phú nông (kulak) tích trữ, và quyết định tấn công vào giới này. Thực tế thì chỉ khoảng 1% nông dân Nga có cho thuê người làm và khoảng 4% có lương thực dư thừa (82% dân số là nông dân).[48] Định nghĩa của Stalin về kulak do đó bao gồm một bộ phận lớn nông dân tương đối đủ ăn, chiếm khoảng 60% dân số. Từ năm 1928, những người bị xác định là kulak, "hỗ trợ" kulak, hoặc về sau là cả "cựu kulak" bị bắt giữ, phần lớn bị trục xuất đi các miền xa xôi như Siberia, Kazakhstan, nhiều người chết trong quá trình trục xuất và khoảng 5 triệu người bị đưa vào các trại lao động, công trường cưỡng bức.[49][50]

Dù kulak bị loại bỏ, phần lớn nông dân không hào hứng tham gia tập thể hóa, và một hội nghị trung ương Đảng tháng 11 năm 1929 tán thành sử dụng các biện pháp cưỡng bức. Nông dân ban đầu sử dụng các buổi họp, và thư thỉnh nguyện lên lãnh đạo trung ương để bày tỏ ý kiến, nhưng về sau nhiều nông dân chuyển sang bạo lực, đốt phá nông trại, ám sát các viên chức địa phương và những người vận động tập thể hóa.[51][52] Quá trình tập thể hóa nông nghiệp gây ra những hậu quả nghiêm trọng. Nhiều nông dân thà giết thịt súc vật để ăn chứ không muốn đem vào hợp tác xã và chỉ riêng trong năm 1930, 25% dê, cừu và 1/3 số lợn của toàn quốc bị giết thịt. Năng suất giảm do nông dân không nhiệt tình sản xuất, những người điều hành không có kinh nghiệm nông nghiệp và kulak bị trục xuất.

Sự chống đối lan rộng tới mức Stalin phải quyết định tạm dừng, ra lệnh sửa chữa bằng một bài báo trên Pravda ngày 2 tháng 3 năm 1930 với tên "Hoa mắt vì thành công" rằng kế hoạch 5 năm tập thể hóa đã thành công vượt mức khiến nhiều chính quyền địa phương trở nên sai lầm do vội vã.[53] Tập thể hóa được tiến hành, với những biện pháp ít khắc nghiệt hơn và tới 1936, người ta báo cáo rằng 90% nông dân đã tham gia các hình thức canh tác tập thể. Chỉ đến năm 1940 sản lượng nông nghiệp mới hồi phục lại mức trong thời kì NEP.[54]

Năm 1932, Liên Xô xảy ra hạn hán và mưa lớn trên diện rộng dẫn đến cây trồng bị nhiễm nấm ký sinh nghiêm trọng. Dịch bệnh cây trồng đã làm giảm thu hoạch trong năm 1932 gần 9 triệu tấn lương thực[55] Hậu quả trực tiếp của việc sụt giảm sản lượng nông nghiệp là nạn đói ở Liên Xô năm 1932-1933, với số người chết được ước tính vào khoảng 3 triệu người.[56] Hầu hết các nhà sử học hiện đại cho rằng nạn đói là hậu quả của thảm họa tự nhiên, kết hợp với chính sách phân phối lương thực bất hợp lý, trưng thu quá mức và không thể nhập khẩu lương thực.[57] Nạn đói đặc biệt nghiêm trọng ở Ukraina, nơi có khoảng 1 triệu người chết trong nạn đói.[56] Các nhà sử học vẫn tranh cãi về việc đây có phải là một hành động trấn áp có chủ ý của Stalin nhằm vào Ukraina (bấy giờ nơi nào chống tập thể hóa sẽ được phân phối ít lương thực hơn).[58][59][60][61]

Năm 1933, chính phủ Liên Xô thực hiện cứu trợ rộng rãi và gửi đi hơn 20.000 công nhân công nghiệp, tất cả các thành viên Đảng Cộng sản tham gia việc đồng áng. Bất chấp những điều kiện tự nhiên khủng khiếp, vụ thu hoạch rất thành công vào năm 1933 đã chấm dứt nạn đói ở hầu hết các khu vực[55].

Đến cuối năm 1937, có 93% nông hộ và 99% đất canh tác đã được tập thể hóa. Cả nước đã có 242.500 nông trang tập thể, 4.000 nông trường quốc doanh, 9.818 trạm máy móc nông nghiệp. Sau khi hợp tác xã ra đời, các thửa đất nhỏ của hộ gia đình đã được dồn thành những cánh đồng lớn thuận lợi cho việc sử dụng máy móc cơ khí nông nghiệp. Nền nông nghiệp Liên Xô đã trở thành nền nông nghiệp sản xuất quy mô lớn, giá trị sản lượng nông nghiệp đến cuối kế hoạch 5 năm lần 2 đã tăng 25%[62] Trên 90% đất đai trồng trọt đã được cày cấy bằng máy móc, thu nhập bằng tiền của nông trang viên tăng 3 lần.[63]

Nông thôn Liên Xô đã có những biến đổi to lớn. Từ 1938 đến 1940, Liên Xô đã xây dựng mới hơn 1.200 trạm cơ giới kỹ thuật, nền nông nghiệp nhận được 92.000 máy kéo mới. Tới đầu năm 1941 đã điện khí hoá hơn 10 nghìn nông trang và 2.500 trạm cơ giới kỹ thuật.[63] Việc canh tác thủ công trên các mảnh ruộng nhỏ, dùng gia súc kéo cày đã được thay thế bởi các nông trường cỡ lớn được cơ giới hóa. Nông nghiệp Liên Xô đã cơ bản được cơ giới hóa, năm 1938 đã có 483.500 máy kéo và 153.500 máy gặt đập liên hợp, thay thế cho ngựa kéo trước đây[64]

Theo các học giả, mặc dù Stalin đã thực hiện tập thể hóa nông nghiệp theo lối cưỡng chế, chính sách này đã "hiện đại hóa đáng kể nền sản xuất nông nghiệp truyền thống ở Liên Xô, và đặt cơ sở cho mức sản xuất lương thực tương đối cao vào những năm 1970 và 1980"[65]

Công nghiệp hóa

Tù nhân được sử dụng trên quy mô lớn cho các công trường như một biện pháp tăng cường nhân lực cho công nghiệp hóa[66].Dưới sự chỉ đạo của Stalin, Đảng Cộng sản Liên Xô thành lập Gosplan (Ủy ban Kế hoạch Nhà nước), chịu trách nhiệm xây dựng kế hoạch kinh tế, và ban này đề ra Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1928-1933) với mục tiêu tăng gấp đôi dự trữ vốn.[67]

Nền công nghiệp yếu kém là nguyên nhân quan trọng khiến Nga bại trận trong Thế Chiến thứ Nhất. Khi lên lãnh đạo, Stalin thừa hưởng một quốc gia với trình độ kỹ thuật lạc hậu, nghèo khó và đổ nát. Bốn năm chiến tranh thế giới thứ nhất, và lại bị hủy hoại một lần nữa bởi 3 năm nội chiến, một quốc gia có quá nửa dân số mù chữ, có trình độ kỹ thuật thấp, với các khu công nghiệp nhỏ bé bị cô lập bởi một loạt của các nông trang lạc hậu. Ngay từ đầu thập niên 1930, Stalin biết rằng chiến tranh thế giới sắp xảy ra lần nữa, và Liên Xô sẽ bị tiêu diệt nếu không có nền công nghiệp đủ mạnh. "Không có thời gian để mất, Hiệp ước Versailles không có gì hơn một lệnh ngừng bắn giữa hai cuộc chiến tranh" Tháng 2 năm 1931, Stalin phát biểu về tầm quan trọng sống còn của việc công nghiệp hóa Xô viết trước sự đe dọa ngày càng tăng từ các nước phương Tây:

Chúng ta lạc hậu hơn so với các cường quốc phương Tây cả 100 năm. Cần phải xây dựng nền công nghiệp bắt kịp phương Tây trong 10 năm. Ngành công nghiệp nặng. Nếu không thì chúng ta sẽ bị phương Tây tiêu diệt. (thực tế, đúng 10 năm 4 tháng sau đó, nước Đức đã tấn công Liên Xô)[68]

Do hầu như không có giao thương quốc tế và cấm vận tài chính cùng ngân khố trống rỗng, nguồn vốn cho công nghiệp hóa chủ yếu đến từ tài sản tịch thu được của kulak và hạn chế tiêu thụ của công dân. Ngoài ra, chính quyền Xô Viết sử dụng tù nhân quy mô lớn cho các lao động không công và vận động các đoàn viên thành niên cộng sản, kể cả đảng viên cho các công trình xây dựng. Các đạo luật lao động dưới thời Stalin đặt ra kỷ luật lao động nghiêm khắc: năm 1928, Luật lao động cho phép đuổi việc (đồng nghĩa mất tem phiếu và kể cả mất chỗ ở tại nhà máy) nếu công nhân vắng mặt không xin phép quá 3 ngày trong 1 tháng,[69] đến năm 1932 con số này rút xuống còn 1 ngày,[70] và về sau hình sự hóa sự vi phạm kỉ luật lao động (phạt tù từ 2 tới 4 tháng nếu trốn việc).[71]

Để tăng thêm động lực lao động, Danh hiệu Anh hùng lao động Xã hội Chủ nghĩa Liên Xô lần đầu tiên được trao tặng bởi Stalin vào năm 1939. Danh hiệu được trao cho những người đã đạt được những "thành tựu phi thường" trong thành quả lao động như năng xuất sản phẩm được gia tăng đáng kể và cho những người đã thành công mỹ mãn trong những phương pháp và trong công nghệ, kỹ thuật để phát triển hơn nữa các nền kinh tế, khoa học, văn hóa của quốc gia. Các đặc quyền khác cũng được gắn liền với những người đã được trao tặng phần thưởng cao quý này như: trợ cấp, tiền tuất, ưu tiên hàng đầu về nơi ăn chốn ở, chăm sóc y tế...[cần dẫn nguồn]

Nhà máy thép Magnitogorsk thập niên 1930

Trong thời kỳ đầu Stalin có sử dụng một số công nghệ và thuê nhà thầu từ nước ngoài, bên cạnh đó Liên Xô cũng có những cải tiến công nghệ nhất định.[72] Ước tính của Liên Xô cho rằng tốc độ tăng trưởng thời gian này là khoảng 13,9%/năm, tuy nhiên các số liệu mà phương Tây (và nước Nga) hiện nay đưa ra những con số thấp hơn nhiều, 5,8% hoặc thậm chí 2,9%.[73][74]

Với sự hỗ trợ của chuyên gia nước ngoài, Liên Xô đã xây dựng được một loạt các tổ hợp công nghiệp khổng lồ ở dọc sông Dniepr, các nhà máy luyện kim như Magnitogorsk, LipetskChelyabinsk, Novokuznetsk, NorilskUralmash, nhà máy máy kéo ở Volgograd, Chelyabinsk, Kharkov, Uralvagonzavod... và nhiều nơi khác. Năm 1935, Stalin cho khởi công giai đoạn đầu tiên của Tuyến tàu điện ngầm Moskva với tổng chiều dài 11,2 km, một công trình hiện đại thời bấy giờ và vẫn được sử dụng cho tới ngày nay.[75]

Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, Liên Xô đã xây dựng nền công nghiệp nặng với kỹ thuật tiên tiến, đã xây dựng 1.500 xí nghiệp, chủ yếu là loại lớn và hiện đại. Kế hoạch được thực hiện trong 4 năm 9 tháng, giá trị tổng sản phẩm công nghiệp tăng 2 lần, trong đó công nghiệp nặng tăng 2,7 lần. Công nghiệp đã cho ra đời những ngành mới nhưu sản xuất máy kéo, ô tô, máy bay, máy liên hợp, đầu máy chạy điện, sản xuất cao su nhân tạo, tơ tổng hợpchất dẻo[76] Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất đã hoàn thành trước khi thời hạn (4 năm 3 tháng), nền công nghiệp Liên Xô lúc này có khả năng trang bị kỹ thuật mới không chỉ trong công nghiệp và cả trong các ngành giao thông vận tải, xây dựngnông nghiệp.[63]

Kế hoạch 5 năm lần thứ 2 đặc biệt chú trọng công nghiệp nặng, đã xây dựng 4.500 nhà máy; giá trị tổng sản phẩm công nghiệp tăng 2,2 lần, trong đó nhóm A tăng 2,4 lần. Công nghiệp nhẹ cũng tăng nhưng không đạt kế hoạch (do số vốn đầu tư phải rút bớt cho công nghiệp quốc phòng để đề phòng nguy cơ chiến tranh)

Công nghiệp hóa nông nghiệp được chú trọng hàng đầu. Với sự xuất hiện của ngành công nghiệp máy kéo trong nước, năm 1932 Liên Xô đã không cần nhập khẩu máy kéo từ nước ngoài, và trong năm 1934 các nhà máy KirovLeningrad bắt đầu sản xuất nhãn hiệu máy kéo "Universal", nhãn hiệu máy kéo đầu tiên xuất khẩu ra nước ngoài. Trong mười năm (1932-1941), Liên Xô đã xuất khẩu khoảng 700 nghìn máy kéo, chiếm 40% sản lượng thế giới.[77]

Sự tăng trưởng của tổng sản lượng công nghiệp Liên Xô trong thời gian 1928-1937.[78]
Sản lượng 1928 1932 1937 Tăng trưởng 1932 so với 1928 (%)
Kế hoạch 5 năm lần 1
Tăng trưởng 1937 so với 1928 (%)
Kế hoạch 5 năm lần 2
Sắt, triệu tấn 3,3 6,2 14,5 188 % 439 %
Thép, triệu tấn 4,3 5,9 17,7 137 % 412 %
Kim loại đen, triệu tấn 3,4 4,4 13 129 % 382 %
Than, triệu tấn 35,5 64,4 128 181 % 361 %
Dầu, triệu tấn 11,6 21,4 28,5 184 % 246 %
Điện, tỷ KW/h 5,0 13,5 36,2 270 % 724 %
Giấy, ngàn tấn 284 471 832 166 % 293 %
Xi măng, triệu tấn 1,8 3,5 5,5 194 % 306 %
Đường, tấn 1283 1828 2421 165 % 189 %
Máy công cụ, nghìn chiếc 2,0 19,7 48,5 985 % 2425 %
Xe hơi, nghìn chiếc 0,8 23,9 200 2988 % 25000 %
Giày dép, cặp xách 58,0 86,9 183 150 % 316 %

Đến năm 1937, Liên Xô đã vươn lên hàng thứ 2 thế giới và đứng đầu châu Âu về sản lượng công nghiệp, trở thành một cường quốc công nghiệp

Kế hoạch 5 năm lần thứ ba (1938-1942) đã đề ra nhiệm vụ đuổi kịp và vượt qua các nước Tư bản không những về trình độ kỹ thuật và tốc độ phát triển, về mặt tổng sản lượng mà còn cả về mặt sản lượng tính theo đầu người. Dự tính đến cuối năm 1942 sẽ tăng sản lượng công nghiệp lên gấp đôi so với năm 1937, sẽ mở rộng công nghiệp than và luyện kim ở Viễn Đông, xây dựng cơ sở dầu lửa ở khu vực sông VolgaUral, đặc biệt là củng cố quốc phòng, trang bị vũ khí hiện đại cho Hồng quân. Trong vòng 3 năm của kế hoạch (1938-1940) sản phẩm công nghiệp tăng 45% và tới giữa năm 1941, tức là trước khi chiến tranh nổ ra đã đạt được 86% tổng sản phẩm ấn định trong kế hoạch. Từ năm 1938 đến tháng 6 năm 1941, Liên Xô đã xây dựng và đưa vào hoạt động khoảng 3.000 nhà máy, xí nghiệp, hầm mỏ và nhà máy thuỷ điện. Trong khắp các nước cộng hoà cũng mọc lên nhiều công trình xây dựng mới.[63]

Tới năm 1940, sản lượng công nghiệp của Liên Xô đã tăng gấp 7,7 lần so với năm 1913, bình quân hàng năm tăng 14%. Công nghiệp Liên Xô đã chiếm 77,4% cơ cấu nền kinh tế và chiếm 10% giá trị công nghiệp toàn thế giới. Cho đến lúc đó, thế giới chưa từng chứng kiến nhịp độ tăng trưởng nào như vậy[79]. Trong lịch sử, nước Anh cần 200 năm để trở thành một nước công nghiệp, nước Mỹ cần 120 năm, Nhật Bản cần 40 năm. Trong khi đó, Liên Xô chỉ cần 18 năm để hoàn thành về cơ bản quá trình công nghiệp hóa của mình. Đây là tốc độ công nghiệp hóa nhanh nhất mà thế giới từng ghi nhận.

Nếu tổng sản lượng công nghiệp năm 1913 được coi là 100 đơn vị, các chỉ số tương ứng của năm 1938 là 93,2 cho Pháp; 113,3 cho Anh, 120 cho Hoa Kỳ; 131,6 đối với Đức, và 908,8 cho Liên Xô (tức là tăng gấp 9 lần). Trong chuyến thăm mùa hè năm 1944 của Eric Johnston, Chủ tịch Phòng Thương mại Hoa Kỳ, người đã đến thăm Ural, SiberiaKazakhstan, đã tuyên bố rằng sự tiến bộ của nền kinh tế Liên Xô từ năm 1928"một thành tựu phi thường trong lịch sử phát triển công nghiệp của cả thế giới"[80] Nói một cách hình tượng, trong một khoảng thời gian ít hơn 1/4 thế kỷ, trình độ kỹ thật của nước Nga đã nhảy vọt từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XX[81] Kenneth Neill Cameron nhận xét[82]:

Khi chúng ta xem xét các số liệu thời Stalin, rõ ràng là chúng ta đang chứng kiến một ​​sự tiến bộ kinh tế to lớn nhất từng được ghi nhận, ngay cả so với các cuộc cách mạng công nghiệp. Trong thời hạn 10 năm, một xã hội ​​chủ yếu là phong kiến đã thay đổi thành một đất nước công nghiệp. Và lần đầu tiên trong lịch sử, một bước tiến như vậy không phải do chủ nghĩa tư bản, mà là do chủ nghĩa xã hội tiến hành.

Theo Robert Lewis, các kế hoạch 5 năm do Stalin hoạch định đã hiện đại hóa đáng kể nền kinh tế của Liên Xô trước đây vốn lạc hậu. Sản phẩm mới được phát triển, quy mô và hiệu quả sản xuất tăng lên rất nhiều. Một số cải tiến dựa trên phát triển kỹ thuật nội địa, những cải tiến khác dựa trên công nghệ nhập khẩu từ nước ngoài[83] Tuy cái giá phải trả là rất lớn, nỗ lực công nghiệp hóa này đã cho phép Liên Xô chiến đấu, và cuối cùng giành chiến thắng trong Chiến tranh thế giới thứ hai.[84] Sản xuất quốc phòng tăng 2,8 lần chỉ sau 5 năm, vũ khí trang bị và trình độ cơ giới hóa cho quân đội Liên Xô đã đạt tương đương với các cường quốc khác[85]

Tổng công trình sư hàng đầu Liên Xô, Anatoli Ivanovich Savin, người từng tham gia chế tạo bom nguyên tử, thiết kế tên lửa có cánh, các chương trình chinh phục vũ trụ và thiết kế hệ thống chống vệ tinh duy nhất trên thế giới, đánh giá rất cao tài năng của Stalin. Ông coi Stalin là người đặt nền móng cho những thành tựu khoa học đã đưa Liên Xô trở thành siêu cường thế giới[86]:

Hiện nay, khi mà tôi bắt đầu suy nghĩ về kinh tế và khoa học quản lý thì mới thấy vô cùng khâm phục Stalin, tại sao một con người không được đào tạo sâu về chuyên môn lại có thể lãnh đạo một đất nước rộng lớn như đất nước chúng ta.
Tôi nghiên cứu rất kỹ lịch sử hình thành nền công nghiệp và toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Cho đến năm 1929 thì Liên Xô đã từng thử nghiệm rất nhiều phương pháp làm kinh tế và chỉ đến khi áp dụng hệ thống kế hoạch hóa và áp dụng bộ tiêu chí về giá thành tối thiểu của sản phẩm thì lúc đó kinh tế mới phát triển.

Giáo sư Kolesov tin rằng nếu không có các chính sách công nghiệp hóa của Stalin thì Liên Xô không thể duy trì nền độc lập chính trị và kinh tế của đất nước. Giá trị của công nghiệp hóa đã được xác định trước bởi tình trạng lạc hậu về kinh tế và một thời hạn quá ngắn để loại bỏ nó. Liên Xô đã loại bỏ tình trạng lạc hậu của đất nước chỉ trong thời gian rất ngắn là 13 năm (ngay trước khi Đức Quốc xã tấn công Liên Xô).[84]

Văn hóa, xã hội, y tế và thể thao

Tem thư của Liên Xô năm 1925 mô tả về hệ thống y tế tại nước này, khuyến khích phụ nữ tới trạm y tế để sinh đẻ thay vì nhờ vào các bà đỡ không được đào tạo.

Xã hội Xô viết đã chứng kiến những sự thay đổi to lớn. Do công nghiệp hóa đại quy mô, tỉ lệ thất nghiệp giảm xuống hầu như bằng 0. Từ năm 1923 tới 1937, số lượng công nhân tăng thêm 1,5 triệu người.[87] Những cải cách xã hội dẫn tới nhiều quyền bình đẳng hơn cho phụ nữ và hệ thống giáo dục bắt buộc được cải tiến dẫn tới tỉ lệ biết đọc biết viết tăng nhanh.[88]

Về y tế, nguyên tắc xã hội chủ nghĩa về chăm sóc sức khỏe đã được hình thành ngay trong năm 1918. Chăm sóc sức khỏe được kiểm soát bởi nhà nước và sẽ được cung cấp miễn phí cho mọi công dân, điều này đồng thời là một khái niệm mang tính cách mạng. Phụ nữ Liên Xô lần đầu tiên được sinh đẻ trong những bệnh viện an toàn, với khả năng tiếp cận chăm sóc trước khi sinh. Chăm sóc y tế rộng rãi và miễn phí được nhìn nhận là sự ưu việt của hệ thống xã hội chủ nghĩa so với hệ thống tư bản chủ nghĩa.[89] Chất lượng nhà ở và hệ thống chăm sóc sức khỏe cũng cải thiện khiến tuổi thọ trung bình của người dân Soviet tăng đáng kể và các dịch bệnh như thổ tả, sốt rét... bị đẩy lùi.[90]

Trước cách mạng Tháng Mười, số lượng bác sĩ ở Đế quốc Nga là 20.000; con số này tăng lên 105.000 vào năm 1937. Số giường bệnh cũng tăng từ 175.000 lên đến 618.000[91] Trong giai đoạn Stalin lãnh đạo, nhờ việc thiết lập hệ thống y tế rộng khắp, tỷ lệ tử vong trẻ em đã giảm nhanh chóng, từ 286,6/1000 trẻ (năm 1913) xuống còn 81/1000 trẻ (năm 1950). Tiêu thụ rượu giảm 2 lần. Tỷ lệ dân số tử vong hàng năm giảm từ 2,91% (năm 1913) xuống còn 1% (năm 1950)[92].

Trong văn hóa, Liên Xô chứng kiến sự thống trị của chủ nghĩa xã hội hiện thực nhấn mạnh vào ca ngợi sự ưu việt của hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Các khuynh hướng từng được cho là cách mạng như chủ nghĩa biểu hiện, nghệ thuật trừu tượng và nghệ thuật tiền phong bị coi là chủ nghĩa hình thức và bị loại bỏ khỏi đời sống văn hóa. Trong kiến trúc, chủ nghĩa tân cổ điển với kích thước công trình đồ sộ làm nên cái mà sau giới sử học gọi là "Phong cách đế chế Stalin", thay cho chủ nghĩa cấu trúc những năm 1920 ở Nga.

Liên Xô còn thi hành chính sách cấm phân biệt chủng tộc, bảo đảm sự bình đẳng giữa các dân tộc trên lãnh thổ Liên bang Xô Viết và thực hiện nam nữ bình quyền. Chính phủ Liên Xô chi ra những khoản đầu tư lớn để phát triển kinh tế xã hội tại các vùng kém phát triển như Trung Á, Siberia... nhằm thúc đẩy sự tiến bộ của các dân tộc chậm tiến tại các vùng này. Liên Xô cho phép phụ nữ có quyền bầu cử trước cả các nước phương Tây đồng thời khuyến khích, tạo điều kiện để phụ nữ được giáo dục ở bậc cao và tham gia vào các hoạt động chính trị - xã hội.

Mặc dù là một người Gruzia, Stalin tiến đến chỗ tin vào sự ưu việt của nước Nga và khuyến khích việc ca ngợi lịch sử, ngôn ngữ và các anh hùng dân tộc Nga trong những năm 1940, xem dân tộc Nga là anh cả của những tộc thiểu số khác.[93]

Nhờ thành quả của công nghiệp hóa, các tiêu chuẩn của cuộc sống được cải thiện. Năm 1936, chế độ tem phiếu đã được hủy bỏ, đi kèm với sự gia tăng tiền lương trong khu vực công nghiệp và sự gia tăng lớn hơn giá trị bữa ăn công cộng cho tất cả các loại hàng hoá. Mức tiêu thụ hàng tiêu dùng bình quân đầu người năm 1938 đã cao hơn 22% so với năm 1928[94]

Trên lĩnh vực văn hoá - giáo dục, năm 1930 chính phủ Xô viết thực hiện chế độ giáo dục bắt buộc. Trước Cách mạng, khoảng 75% dân số Nga mù chữ. Từ 1930 - 1932, có trên 30 triệu người đã được thanh toán mù chữ. Trong thời gian kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, số trường cao đẳng công nghiệp tăng 10 lần, số trường cung cấp kỹ thuật tăng 4 lần, ngành giáo dục đại học cung cấp 10 vạn kỹ sư, hàng chục viện nghiên cứu khoa học được ra đời.[63]

Năm 1935, Liên Xô đã thực hiện xong nền giáo dục cấp I bắt buộc cho tất cả mọi người và phổ cập giáo dục phổ thông cấp II ở thành phố. Số học sinh từ 8 triệu năm 1913 tăng lên 28 triệu trẻ em vào năm 1937. Số sinh viên tăng từ 112.000 lên 542.000. Đến đầu năm 1937. Đội ngũ tri thức Xô Viết đã có tới 10 triệu người. Các tác phẩm văn học, âm nhạc, điện ảnh, nghệ thuật, hội họa cũng có nhiều phát triển.[63] Trong một thời gian ngắn, số người được xóa mù chữ đã tăng nhanh. Vào năm 1940, Liên Xô đã có thể tự hào thông báo rằng nạn mù chữ đã được loại bỏ, điều mà nhiều cường quốc tư bản phương Tây đương thời như Mỹ, Pháp... cũng chưa hoàn thành được.[95]

Nhiều chính sách hiệu quả của Stalin vẫn được áp dụng ở Nga cho tới nay. Chương trình nâng cao thể lực nhân dân được Stalin đưa ra vào những năm 1930, với tinh thần rèn luyện sức khỏe để "sẵn sàng lao động và bảo vệ tổ quốc". Các công dân được yêu cầu phải tham gia nhiều môn thể thao phối hợp như chạy bộ, nhảy xa, trượt tuyết, bơi lội. Các cuộc thi thể thao được tổ chức thường xuyên, người chiến thắng được trao huân chương và vinh danh. Năm 2014, Tổng thống Nga Vladimir Putin đã cho khôi phục chương trình, với mục tiêu duy trì vị thế hàng đầu thế giới của thể thao Nga cũng như để "tỏ lòng tôn kính truyền thống lịch sử của đất nước chúng ta"[96].

Tôn giáo

Ảnh chụp Nhà thờ Chúa Cứu thế Moskva bị phá hủy ngày 5 tháng 12 năm 1931.

Thập niên 1920, Tòa thánh Vatican cáo buộc Liên Xô "đàn áp khắc nghiệt các giáo sĩ, tu sĩ và nữ tu và những người khác liên quan đến Giáo hội". Tuy nhiên, theo một báo cáo chính thức dựa trên điều tra dân số năm 1936, đã có hơn 55% công dân Liên Xô công khai nhận mình có niềm tin với một tôn giáo nào đó, trong khi những người khác có thể che giấu niềm tin của họ.

Ngay từ năm 1926, Giáo hoàng Piô XI đã cử một linh mục Dòng Tên người Pháp, Michel d'Herbigny, tới Liên Xô để liên hệ với các tổ chức bí mật của giáo hội tại đây[97] Ngày 19/3/1937, Giáo hội Công giáo, đứng đầu là Giáo hoàng Piô XI, đã ra một Thông điệp chống Cộng cho toàn thể giáo dân trên thế giới (Divini Redemptoris), trong đó lên án "chủ nghĩa vô thần được lãnh đạo bởi Bolshevik" (Liên Xô).[98] Người kế tục, Giáo hoàng Piô XII, đã phát động cuộc thập tự chinh chống Cộng ghê gớm trong suốt thế kỷ XX[99]

Đáp trả lại, chính quyền Stalin, bên cạnh việc truyền bá hệ tư tưởng cộng sản, khuyến khích chủ nghĩa vô thần thông qua tuyên truyền bài tôn giáo trong dân chúng và trong trường học, cùng một chiến dịch truy bắt nhằm vào các tín đồ bị tố cáo hoạt động gián điệp hoặc phá hoại. Vào cuối những năm 1930, tuyên bố công khai mình theo tôn giáo là một điều nguy hiểm.[100]

Vai trò của Stalin trong vận mệnh của Giáo hội Chính thống giáo Nga khá phức tạp. Những sự đàn áp liên tục trong những năm 1930 đã dẫn tới nó gần như tuyệt chủng với tư cách một thể chế công khai: tới năm 1939, các giáo xứ hoạt động đã giảm xuống từ 54000 năm 1917 xuống còn vài trăm, nhiều nhà thờ bị phá sụp, hàng chục nghìn lịch mục, tu sĩ và sơ bị thẩm vấn, bắt giam hoặc xử bắn. Trên 100 nghìn người liên quan tới tôn giáo bị xử bắn trong những đợt thanh trừng 1937-1938.[101][102] Trong vòng 1 thập kỷ, tất cả những chức danh tôn giáo được bổ nhiệm bí mật bởi Michel d'Herbigny đều đã bị lộ, bắt giam hoặc trục xuất, cố gắng để nắm quyền chỉ huy mạng lưới nhà thờ tại Liên Xô của Vatican bằng các phương pháp bí mật đã bị bỏ rơi, và d'Herbigny bị Tòa thánh cách chức một cách bí mật. Kế hoạch được ví như Con ngựa thành Troia của Vatican dành cho Liên Xô đã thất bại[103]

Sau này, khi lãnh đạo Giáo hội công nhận uy quyền thế tục của Stalin và chính quyền Liên Xô, Stalin cho phép Chính thống giáo hoạt động trở lại và vận dụng giáo hội vào việc động viên chiến tranh trong Thế Chiến II.

Đối ngoại

Chân dung Stalin tại lễ kỷ niệm 65 năm ngày Chiến thắng Đức Quốc xã năm 2010

Sau khi các cường quốc Âu Mỹ can thiệp thất bại vào Nội chiến Nga, quan hệ với quốc gia tự xem mình là người báo hiệu một cuộc cách mạng thế giới tiếp tục đóng băng một thời gian dài. Tuy nhiên dần dần các quốc gia chấp nhận sự tồn tại của Liên Xô. Tới năm 1933, Pháp, Đức, Anh và Nhật cùng với nhiều quốc gia khác đã công nhận chính phủ Xô viết và thiết lập quan hệ ngoại giao. Ngày 16 tháng 11 năm 1933, Hoa Kỳ trở thành cường quốc lớn cuối cùng chấp nhận Liên Xô.[104] Năm 1934, Liên Xô được chào đón gia nhập Hội Quốc Liên.[105]

Ban đầu quan hệ Liên Xô-Pháp khá căng thẳng, do cạnh tranh phạm vi ảnh hưởng ở Trung Âu, và kết quả là Liên Xô xích lại gần Đức. Tuy nhiên, chính sách tăng cường vũ trang của Hitler khiến cho Stalin lo ngại, và tháng 5 năm 1935 Liên Xô ký hiệp ước tương trợ lẫn nhau với Pháp và Tiệp Khắc. Hiệp ước này ít có tác dụng thực tế bởi Tiệp Khắc không có biên giới chung với Liên Xô mà ngăn cách bởi Ba LanRumani, cả hai nước này từ chối cho Liên Xô hành quân qua trong trường hợp bị Đức xâm lược, trong khi Pháp thiên về bảo toàn lực lượng, Anh thì từ chối liên minh với Liên Xô để chống lại Hitler. Đức Quốc xã thôn tính Áo rồi Tiệp Khắc, trong khi thiết lập một mặt trận chung chống Liên Xô (dưới tên Hiệp ước chống Quốc tế Cộng sản năm 1936) với Đế quốc Nhật Bản rồi sau đó thêm Italia, lập nên "Phe Trục".[106]

Tháng 4 năm 1939, Stalin đề xuất tái lập liên minh quân sự với Anh và Pháp nhưng phái đoàn Anh-Pháp tỏ ra lạnh nhạt. Cuối cùng Stalin quay ra ủng hộ phương án hòa hoãn với Đức.[107] Ngày 23 tháng 8 năm 1939, dưới chỉ đạo của Stalin, Hiệp ước Molotov-Ribbentrop được ký tại Moskva, với nội dung hai nước Liên Xô và Đức cam kết không xâm lược lẫn nhau.[108] Một phần của Hiệp ước là một Nghị định thư bí mật, trong đó Liên Xô và Đức chia sẻ vùng ảnh hưởng ở châu Âu, Đức ghi nhận Liên Xô có quyền thiết lập ảnh hưởng tại các nước Baltich và một số lãnh thổ Đông Âu.[109]

Tuy không giữ vị trí nào trong Quốc tế Cộng sản, vai trò đỡ đầu của Liên Xô trong tổ chức đóng ở Moskva này khiến cho Stalin có tiếng nói bao trùm, nhất là sau khi các đối thủ chính trị như Zinoviev, Trotsky đã bị cho hành quyết. Quốc tế Cộng sản dưới thời Stalin từ bỏ chính sách mặt trận thống nhất thời 1924-1928 (mà Zinoviev cổ vũ), thay vào đó khuyến khích những cuộc bạo động khởi nghĩa sớm. Tuy vậy các cuộc khởi nghĩa này sớm bị đàn áp đẫm máu như Xô viết Nghệ Tĩnh ở Việt Nam hay cuộc khởi nghĩa của cộng sản Indonesia năm 1930. Đường lối hoạt động của Quốc tế Cộng sản cũng bị chi phối mạnh bởi lợi ích đối ngoại của Liên Xô, điển hình là sự quay lại chính sách mặt trận thống nhất chống phát xít từ năm 1935. Nhiều thành viên cao cấp của Quốc tế Cộng sản hoặc lãnh đạo các đảng cộng sản ở nhiều nước châu Âu và châu Á cũng là nạn nhân của cuộc Đại thanh trừng năm 1937.[110] Việc Stalin ký hiệp ước với Đức Quốc xã gây chia rẽ lớn trong nội bộ các đảng cộng sản trên thế giới[111] và cuối cùng, khi Stalin muốn chứng tỏ với các đồng minh phương Tây rằng Chiến tranh Vệ quốc là một phần cuộc chiến của thế giới tự do chống lại kẻ thù chung là chủ nghĩa phát xít, Quốc tế Cộng sản bị giải thể.[112]

Trên Hà Thành ngọ báo ngày 26 Tháng Mười Hai 1933 có bình luận về việc Stalin hỗ trợ Cách mạng Trung Quốc: "Từ năm 1924 đến năm 1927, trong cuộc cách mệnh ở Trung Quốc, Staline có từng đứng xa giựt dây, kết quả bị thất bại to, Trotsky hết sức công kích chỗ đó. Bình tâm mà bàn, về việc ấy Staline quả sai lầm thật, đan cử như Tưởng Giới Thạch đã rõ ràng phản cộng. Staline còn ở xa cố mưu hợp tác, mãi về sau mới chịu đổi phương châm... Nhưng mà Trung Quốc vẫn nguyên hình dạng cũ năm 1911, quyết chưa có thể theo chủ nghĩa Cộng sản. Hiện nay, những phần tử Sô viết ở Trung Quốc, số nhiều đều là nông dân, cái ý muốn của họ chỉ là cốt được chia ruộng đất để cày cấy mà ăn, thực ra chẳng cảm hóa gì được mảy may về chủ nghĩa Cộng sản cả. Nhân đó mà khu Cộng sản ở Trường giang, hoặc sẽ thành cái cột trụ gây nên "nước Trung Hoa chủ nghĩa tư bản mới" cũng chưa biết chừng... Cuộc thế giới cách mệnh và cuộc Quốc gia cách mệnh, theo cái đại thể ngày nay mà xem xét, tiền đồ còn là mập mờ... Làm sao chủ nghĩa Cộng sản ở nước Nga thì được thành công mà mãi đến nay không thể gây dựng được ở nước khác? Tác giả có thể đem những nguyên nhân cốt yếu mà bày ra sau này: Nước Nga trước khi cách mệnh, giai cấp tư bản có rất ít người, lực lượng cũng yếu, giai cấp trung đẳng thì lại không đủ nói, lúc đó chỉ có các thợ thuyền, phải chịu cách sinh hoạt tàn bạo, bóc lột và khốn khổ, ngoài cái thân ra, không còn mảy may tài sản, ngoài cách cố lo giải phóng, thực không còn có đường nào mong sống nữa. Nông dân ở Nga bấy giờ, cũng lại cùng khốn lắm nữa, ăn mặc không đủ, phần lớn đất cát ở dưới chế độ phong kiến thái ấp của vua Nga, còn không được mấy. Cho nên giai cấp vô sản bị đè ép ấy, vào cái dịp dễ cách mệnh trong năm 1917, lại được nông dân giúp sức, hèn chi nhất cử mà được thành công ngay. Người Nga Sôviết cũng là do cái hoàn cảnh đặc biệt sinh ra vậy. Còn ngày nay ở trong các nước, giai cấp tư bản không ngu xuẩn, ươn hèn như ở Nga bấy giờ, vả các nước công nghiệp lại không như nước Nga ngày xưa có vấn đề đất cát của nông dân. Đến như thợ thuyền ở các nước phương tây, hầu hết là thân phần "nửa nhà tư bản", bọn họ chịu nhà tư bản hun đúc lâu ngày, đều mong sẽ có ngày trở nên phú hào, đó thực là cái hào lũy rất tốt để chống lại chủ nghĩa quá khích vậy"[113]

Trước khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ (9/1939), Liên Xô có 2 lần can dự vào chiến tranh ngoài lãnh thổ nước mình:

  • Năm 1936, trong Nội chiến Tây Ban Nha, Liên Xô cử các cố vấn quân sự và viện trợ vũ khí cho phe Cộng hòa để chống lại phe Quốc gia của Francisco Franco (được sự hỗ trợ của Đức Quốc xã), đồng thời vận động phong trào cộng sản quốc tế ủng hộ.[114] Tuy nhiên cuối cùng phe Quốc gia của Franco giành chiến thắng, thiết lập chế độ thân phát xít và ủng hộ cho phe Trục của Đức Quốc xã.
  • Ở biên giới phía Đông, quân Nhật bắt đầu gây hấn từ năm 1932, tấn công Mông Cổ và đe dọa Liên Xô. Trong Chiến dịch Khalkhyn Gol (8/1938), liên quân Liên Xô-Mông Cổ đã đánh bại quân đội Nhật bản, bảo vệ lãnh thổ và nền độc lập của Mông Cổ. Thất bại này khiến Đế quốc Nhật Bản phải chuyển hướng chiến lược sang mặt trận châu Á-Thái Bình Dương. Hai bên ký hiệp ước đình chiến ngày 15 tháng 9 năm 1939[115] Liên Xô tạm yên mặt đông và có thể tập trung vào mặt trận châu Âu.[116]

Trấn áp đối thủ

Mặc dù trong thời kỳ Nội chiến Nga, các lãnh đạo Bolshevik như Lenin, Trotsky đã từng sử dụng các biện pháp trấn áp nhằm tiêu diệt kẻ thù của Cách mạng (quân Bạch Vệ) và gieo rắc nỗi sợ cho kẻ thù dưới tên "Khủng bố Đỏ", chính Stalin là người tiến hành việc thanh trừng trong nội bộ Đảng Cộng sản và trải rộng toàn xã hội Soviet, tạo nên một thời kỳ thường gọi là "Đại thanh trừng" hoặc "Đại Khủng bố" (tên gọi sau nhắc lại thời kỳ Triều đại Khủng bố trong Cách mạng Pháp năm 1789), kéo dài từ năm 1934 tới năm 1940.[117]

Stalin và Kirov, năm 1934

Tuy đã nắm được vị trí tối cao trong Đảng, Stalin vẫn cảm thấy nguy cơ bị thách thức về chính trị, nhất là sau những hỗn loạn xã hội đầu thập niên 1930 và nạn đói năm 1933.[118] Mặt khác, Stalin đã cho rằng Đảng Cộng sản Liên Xô không thể củng cố hàng ngũ của mình nếu không có những cuộc thanh lọc định kỳ đối với những cán bộ tham nhũng suy thoái, biến chất trong nội bộ[119]:

Trong Liên Xô

Từ "thanh trừng" ban đầu chỉ có nghĩa giới hạn trong việc khai trừ những đảng viên bị coi là "thiếu phẩm chất" hoặc đi theo "đường lối phản cách mạng": Chỉ trong năm 1933 đã có 400 nghìn Đảng viên bị khai trừ. Tuy nhiên về sau việc khai trừ thường đồng nghĩa với bắt giữ, thẩm vấn hoặc thậm chí là xử tử.

Ngày 1 tháng 12 năm 1934, Bí thư Thành ủy Leningrad, Sergei Kirov bị ám sát, Stalin lấy cớ đó để phát động thanh trừng hàng loạt, mở đầu bằng việc xử tử 104 người với cáo buộc họ tham gia vào âm mưu giết Kirov, mặc dù họ đang ở trong tù vào thời điểm xảy ra vụ ám sát.[120] Nhiều nhân vật đương thời và các nhà sử học về sau tin rằng chính Stalin đã ra lệnh giết Kirov, tuy là một người theo đường lối Stalin nhưng một ngôi sao chính trị đang lên trong Đảng, làm lu mờ cả vị trí của Stalin.[121]

Tràng An báo (xu hướng bảo hoàng) số ngày 27 tháng 1 năm 1942 lấy lại từ báo Dépêtre d'Indochine bình luận mục đích của Stalin trong sự kiện này là nhằm loại bỏ những phần tử hiếu chiến trong quân đội:

Trên tờ Sông Hương số ngày 3 tháng 7 năm 1937:

Các nhóm thiểu số dân tộc và tôn giáo bị nghi ngờ móc nối với ngoại quốc cũng trở thành nạn nhân của cuộc thanh trừng. Các dân tộc Trung Á và người Do Thái bị truy bức, nhưng nặng nề nhất là người Ba Lan với con số ước tính 143 810 người bị bắt giữ và 111 091 người bị hành quyết.[124] Khoảng 85% trên tổng số 35 nghìn linh mục bị bắt, khoảng 100 nghìn người liên quan tới tôn giáo bị giết. Trong số các nạn nhân có cả vài trăm người là di dân từ Hoa Kỳ và Canada do cuộc Đại khủng hoảng.[125]

Bên ngoài Liên Xô

Chiến dịch thanh trừng của Stalin cũng vươn ra ngoài địa hạt Liên Xô. Quốc tế Cộng sản được chỉ đạo tiến hành thanh trừng hàng loạt trong đội ngũ lãnh đạo và tấn công những người theo Trotsky trên thế giới. Hàng loạt lãnh đạo đảng cộng sản bị triệu hồi về Moskva rồi bị thẩm vấn, nhiều trong số họ bị bỏ tù (lãnh tụ cộng sản Việt Nam Hồ Chí Minh cũng từng bị thẩm vấn và điều tra bởi một nhóm ba người nhưng không bị kết tội).[126] Stalin cũng gửi điệp viên tới các quốc gia khác để mưu sát những người chạy trốn và những địch thủ khác, đáng chú ý nhất là vụ mưu sát Trotsky tại nơi ở của ông này ở México.[127]

Ở những vùng ảnh hưởng của Liên Xô, Stalin cũng tìm cách phát động các cuộc thanh trừng. Các thành viên NKVD của Liên Xô được gửi tới Cộng hòa Nhân dân Mông CổTân Cương (dưới quyền lãnh chúa Thịnh Thế Tài thân Liên Xô) để chống lại cái gọi là khuynh hướng Trotsky hoặc "gián điệp cho Nhật" ở nơi đây. [128][129] Cuộc thanh trừng ở Mông Cổ đã dẫn tới việc xử tử khoảng 18000 lạt ma, cùng với một số nhân vật chính trị và cả dân thường.[130] Những hố chôn tập thể của hàng trăm thường dân và tu sĩ Phật giáo bị hành quyết được phát hiện ở đây vào năm 2003.[131]

Hậu quả và vai trò của Stalin

Về mặt chính trị, Đại thanh trừng đã loại bỏ hầu như mọi sự đối đầu với quyền lực cá nhân của Stalin. Hầu hết những người Bolshevik đồng chí với Stalin và Lenin thời kỳ đầu đều bị xử tử, trừ vài người như Molotov và Kalinin chịu tuân phục Stalin.

Các nhân vật chính trị, trí thức, nghệ sĩ sau khi bị bắt giữ thì tên tuổi của họ cũng bị xóa sạch khỏi các văn bản, tranh ảnh, như là chưa hề tồn tại. Vụ thanh trừng tuy vậy làm suy yếu năng lực điều hành của chính quyền, nhất là sự thiếu hụt sĩ quan có kinh nghiệm trong quân đội.[134]

Một danh sách truy bức mà Molotov, Stalin, Voroshilov, Kaganovich, và Zhdanov ký trong thời kỳ này.

Mặc dù Yagoda, Yezhov và Beria trực tiếp chỉ đạo việc thanh trừng, Stalin đóng vai trò chỉ lãnh đạo cao nhất và liên hệ chặt chẽ với nó. Đã từng có những lý thuyết trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh về nỗi sợ khủng bố, sự mất kiểm soát của chính quyền trung ương và về vai trò của các nhà lãnh đạo khu vực như là nguyên nhân chính dẫn tới số lượng người chết quá lớn, nhưng theo nhà sử học Oleg V. Khlevniuk thì các lý do này đơn giản là không được các ghi chép lịch sử ghi lại.[135] Trong một số trường hợp, Stalin đã trực tiếp chỉ đạo Yezhov thẩm vẫn những người không chịu thú tội.[136] Trong suốt thời kỳ những năm 1937 và 1938, Stalin đã tự tay ký 357 danh sách trong đó chuẩn thuận việc tòa án tuyên án tử hình hàng nghìn người, và 90% số đó về sau được xác nhận là đã bị bắn.[137] Stalin cũng chọn riêng Vasili Blokhin giám sát việc thi hành án tử hình các nhân vật quan trọng.[138]

Sử gia Đức, một giáo sư khác về lịch sử Đông Âu tại đại học Humboldt ở Berlin, Jörg Baberowski, đã từ bỏ quan điểm ban đầu cho là Stalin tiến hành cuộc thanh trừng vì ý thức hệ độc tài cấp tiến muốn cải tổ và tạo trật tự xã hội mà ông bị ảnh hưởng của tư tưởng Zygmunt Bauman. 7 năm sau, sau khi đọc hàng ngàn trang tài liệu, trong cuốn sách mới ấn bản 2012 với tựa là "Verbrannte Erde – Stalins Herrschaft der Gewalt", ông cho là Stalin đã bị chứng Rối loạn nhân cách chống xã hội bạo động, cho nên mới có những bạo động có hoạch định và có chỉ tiêu.[139]

rong cuốn sách được viết sau 10 tuần ở Liên Xô vào năm 1941, Quentin Reynolds thì cho rằng cuộc thanh lọc của Stalin là một biện pháp hữu hiệu để chống lại gián điệp và bảo vệ đất nước trong Thế Chiến thứ Hai[140]:

"Hôm nay đã không còn một gián điệp, không còn một kẻ phản bội nào ở nước Nga Xô Viết. Người Đức đã cố gắng một cách tuyệt vọng để thiết lập các tòa án với người dân địa phương là người đứng đầu danh nghĩa của các tòa án đó khi họ chiếm các thành phố như Odessa, Kiev, và những nơi khác trong cuộc tiến quân thành công của họ vào mùa thu năm ngoái. Nhưng trong mọi trường hợp, Đức không thu được thành công. Những kẻ phản bội tiềm năng, tất cả đã bị tống vào các trại lao động của phía bắc xa xôi. Stalin biết rõ những gì ông đã làm vào năm 1938: tinh thần đoàn kết tuyệt vời của người dân nước Nga hiện nay và tinh thần hoàn toàn không khiếp sợ trước thảm kịch khủng khiếp mà Đức gây ra là bằng chứng thực tế rằng người dân Nga chấp nhận các cuộc thanh trừng của Stalin. Nói cách khác, đó là việc "Bạn không thể làm món trứng tráng mà không đập vỡ quả trứng".

Cùng là một con người và sự kiện, nhưng tùy theo nhãn quan chính trị mà việc đánh giá Stalin là rất khác nhau. Ngày nay, sách giáo khoa lịch sử của Nga nhìn nhận sự trấn áp của Stalin một cách khách quan hơn. Trong thời kỳ này, ở Liên Xô luôn tồn tại chủ nghĩa dân tộc cực đoan đe dọa gây ra thảm họa mới cho đất nước. Trong khoảng thời gian 1944-1954, đã có tới 40.000 dân thường chết do lực lượng theo chủ nghĩa dân tộc gây ra. Stalin đã cứng rắn và khôn khéo lãnh đạo đất nước dập tắt phong trào này, góp phần củng cố, phát triển Liên bang Xô Viết. Sách giáo khoa mới đã đánh giá việc trấn áp của Stalin là phù hợp với tình hình lúc bấy giờ. Đối với vấn đề thanh trừng nội bộ cũng được sách bình luận theo chiều hướng tích cực: Trấn áp không phải để "lạm sát người vô tội" mà bản ý của Stalin là loại bỏ những cán bộ kém năng lực, suy thoái đạo đức, tham nhũng trong nội bộ chính quyền. Thực tế này được xem là khát vọng của ông muốn bảo đảm cho bộ máy quản lý phát huy hiệu quả lớn nhất.[4]

Chính sách dân tộc

Dưới thời kỳ Stalin cầm quyền, người ta chứng kiến những đợt trục xuất và di dân quy mô vào hàng lớn nhất trong lịch sử. Theo số liệu chính thức của Liên Xô ước tính, có hơn 14 triệu người đã từng bị buộc phải di cư, bị đưa đến những trại lao động hoặc công trường từ năm 1929 tới 1953, cùng với khoảng 7 tới 8 triệu người bị trục xuất và bị đưa tới những miền xa xôi và khí hậu khắc nghiêt.[141]

Những lý do mà chính quyền Soviet đưa ra cho những đợt di dân, ngoài tù nhân phải lao động cải tạo, là để đối phó với chủ nghĩa ly khai, sự chống đối chính quyền Liên Xô và những phần tử hợp tác với quân Đức Quốc xã xâm lược. Những căn cứ này có lúc đúng nhưng cũng có lúc sai lầm hoặc vội vã. Người ta thường di dời cả cộng đồng chứ không xem xét đến trường hợp từng gia đình hay ý nguyện của họ. Chẳng hạn sau khi quân phát xít chiếm Kavkaz, do lo ngại người Tatar ở Crimea hợp tác với quân Đức, toàn bộ dân miền núi và người Tatar ở Crimea - tổng cộng hơn 1 triệu người - bị trục xuất mà không được thông báo, cũng không mang theo được tài sản.[142]

Các đợt di dân lớn diễn ra ít lâu trước Thế Chiến II và giai đoạn đầu của nó. Người ta ước tính rằng giữa 1941 và 1949 có khoảng 3,3 triệu người bị đưa tới Siberia và miền Trung Á,.[143][144] Định kiến của Stalin về lòng trung thành của một số nhóm sắc tộc đặc biệt, bao gồm người Triều Tiên ở Liên Xô, người Chechen, người Tatar Krym, người Đức ở miền Volga và người Ba Lan khiến những dân tộc này chịu nhiều ảnh hưởng nhất, hàng trăm nghìn người đã chết trên đường di cư.[143] Trong số những người có thể tới nơi định cư mới, theo một ước tính thì có 18-43% những người tái định cư bị chết trong vòng 15 năm do bị mắc bệnh hoặc thiếu ăn.[145]

Những đợt di cư này đã làm thay đổi mạnh bản đồ nhân khẩu và dân tộc của Liên Xô. Nhiều dân tộc bị di dời khỏi nơi cư trú truyền thống của mình, gây ra nhiều hậu quả lâu dài. Tới năm 1956 Khrushchev lên án chính sách trục xuất của Stalin là vi phạm nguyên tắc chính sách dân tộc của Lenin và tìm cách khắc phục.[146] Tuy nhiên tiến trình này diễn ra chậm, phải tới khi Liên Xô tan rã (1991) thì các dân tộc thiểu số mới được phép di cư quy mô lớn về quê hương cũ; nhiều nhóm dân vì điều kiện địa lý mà chưa thể quay về.

Hậu quả của sự trục xuất và di dân kéo dài tới ngày nay. Chẳng hạn, cộng đồng người Tatar ở Krym vốn là nhóm đa số ở Krym từ nhiều đời, bị trục xuất khỏi quê hương năm 1944 và từ đó khiến người Nga trở thành sắc tộc đa số ở miền này. Trong cuộc Khủng hoảng Krym năm 2014, nước Nga can thiệp quân sự rồi sáp nhập Krym viện dẫn đó là ý nguyện của đa số người dân địa phương thuộc dân tộc Nga. Cộng đồng người Tatar cho rằng chính họ mới là những người có quyền vận mệnh Krym chứ không phải người Nga di dân.[147] Ký ức đau thương về những đợt trục xuất còn sâu đậm trong tâm trí nhiều dân tộc thiểu số, và là một nguồn động lực cho chủ nghĩa ly khai hiện nay ở những vùng thuộc Nga như Chechnya.[148]

Mặt khác, Stalin duy trì quyền bình đẳng giữa mọi công dân thuộc mọi chủng tộc. Bình đẳng dân tộc trong mọi hình thức (ngôn ngữ, giáo dục...) là một yếu tố thiết yếu trong các giải pháp xử lý các vấn đề quốc gia. Stalin đề ra một chính sách nhà nước dựa trên nền dân chủ đầu phiếu, nghiêm cấm mọi loại đặc quyền của riêng một dân tộc nào đó hoặc những hình thức phân biệt đối xử với các dân tộc thiểu số.[149] Ví dụ như Kazakhstan là một trong những nước cộng hòa dân tộc thiểu số của Liên Xô, và chính quyền đã thông qua luật quy định tất cả các ngành công nghiệp tại Kazakhstan phải sử dụng ít nhất 50% nhân công là người dân tộc bản địa, cả trong sản xuất và quản lý. Đây có thể là một luật rất tiến bộ, tạo ra cảm hứng cho các giáo sư và chủ nghĩa nhân đạo trên tất cả các nơi trên thế giới[150]

Dù người ta có thể nói về việc thiếu tự do cá nhân dưới thời Stalin, không ai có thể nghi ngờ rằng Liên Xô đã thực hiện các nguyên tắc bình đẳng dân tộc tương đương với những nền dân chủ tốt nhất. Stalin là hoàn toàn đúng trong việc tăng cường sức mạnh của nước Nga Xô Viết khi thực hiện chính sách đó[151].

Một nhà báo phương Tây sau khi sang thăm Liên Xô năm 1938 đã nhận xét:

Những người cộng sản có một điểm tuyệt vời là họ có niềm tin rằng tất cả các chủng tộc đều bình đẳng với những khả năng tiềm ẩn, và rằng người ta có thể trở nên tốt như nhau nếu họ có cơ hội như nhau. Giữ vững niềm tin này, họ đang cố gắng cung cấp các cơ hội như nhau cho tất cả các chủng tộc và bộ lạc ở Nga vào thời gian sớm nhất có thể. Họ đã phân phối một lượng lớn ngân quỹ sẵn có của mình cho giáo dục, y tế công cộng và vệ sinh môi trường tại khu vực châu Á, nơi mà những điều này thường bị lãng quên.[152]

Xây dựng sùng bái cá nhân

Một buổi lễ mừng sinh nhật Stalin 70 tuổi ở Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.

Stalin đã góp phần tạo nên phong trào sùng bái lãnh tụ, trước hết là đối với Lenin sau rồi là bản thân, nhất là sau khi Liên Xô tổ chức lễ sinh nhật 50 tuổi cho ông năm 1929.[153] Rất nhiều thị trấn, làng mạc và thành phố, bao gồm thành phố lớn Stalingrad (xem danh sách các địa danh đặt theo tên Stalin (tiếng Anh)) được đổi tên theo tên ông; bên cạnh đó còn có các giải thưởng như Giải Stalin, Giải Hòa bình Stalin được lập nên lúc ông còn sống. Stalin cũng chấp nhận người ta gọi ông bằng những tên gọi khoa trương như "Người cha của Tổ quốc" (bắt đầu từ 1936),[154] "Nhạc trưởng của Khoa học", "Thiên tài Kiệt xuất của Nhân loại", "Đại kiến trúc sư của Chủ nghĩa Cộng sản", "Người trông nom Hạnh phúc Loài người". Tuy trong giới lãnh đạo ít thấy sự tôn thờ Stalin, hầu hết không bày tỏ sự bất bình với tệ sùng bái cá nhân, và tất cả đều ủng hộ cho tệ này phát triển.[155]

Tệ sùng bái cá nhân cho Stalin phát triển mạnh trong thời kỳ Chiến tranh thế giới thứ hai, khi Liên Xô cần những hình ảnh để nâng cao tinh thần cho binh sĩ và nhân dân. Ban đầu hình ảnh Stalin gắn bó chặt chẽ với Lenin như một đồng chí trung thành nhất, người thừa kế xuất sắc của Lenin,[156] và hai người thường xuất hiện cùng nhau trong từ ngữ và tranh ảnh,[157] tuy nhiên về sau báo chí tuyên truyền thường mô tả sự lãnh đạo tài tình của Stalin như là nhân tố chính cho sự tươi đẹp của xã hội Soviet.[158]

Bộ máy tuyên truyền Liên Xô thường mô tả Stalin theo hình ảnh người lãnh tụ các dân tộc và mang tính thần thánh, vay mượn một số nhân tố từ Chính thống giáo.[159] Những cuộc tiếp xúc với trẻ em là một yếu tố quan trọng trong hình ảnh lãnh tụ Liên Xô. Stalin thường xuyên xuất hiện trong các buổi tăng quà cho trẻ em nhiều dân tộc khác nhau. Từ năm 1935, câu nói "Tuổi thơ Hạnh phúc nhờ ơn Đồng chí Stalin Kính yêu!" xuất hiện trên cửa vào các trại trẻ, trường học, trường mầm non và trẻ em thường hô câu này trong lễ hội.[160] Stalin cũng được mô tả là gần gũi với người dân thường; báo chí thường đăng những lá thư từ công nhân nông trường hay xí nghiệp viết để ca ngợi lãnh tụ[161] cũng như xuất hiện những bài viết, bài thơ về việc gặp mặt Stalin. Nhưng từ sau Thế Chiến II khi Stalin ít xuất hiện trước đám đông, báo chí bắt đầu tập trung tới những liên lạc xa xôi hơn (chẳng hạn kể về việc ai đó nhận được điện báo của Stalin hay nhìn thấy lãnh tụ từ xa).[162]

Bộ máy tuyên truyền và bản thân Stalin đã tìm cách chỉnh sửa lịch sử Liên Xô để gán cho Stalin tầm quan trọng lớn hơn trong buổi đầu của phong trào cách mạng. Chẳng hạn lịch sử sửa đổi này cho rằng Stalin, chứ không phải Chủ tịch Soviet Petrograd Leon Trotsky là lãnh tụ thứ nhì, sau Lenin trong Cách mạng Tháng Mười. Stalin ủng hộ việc này và tự cho mình có thẩm quyền về lịch sử Đảng.[163]

Nhiều bức tranh và tượng của Stalin ở các nơi công cộng thường minh họa Stalin rất cao, ngang với Nga hoàng Aleksandr III, trong khi thực tế các ảnh chụp cho thấy ông chỉ cao khoảng 165–168 cm. Ảnh tượng Stalin không chỉ xuất hiện tại các nơi công cộng và văn phòng chính quyền mà còn ở các tư gia. Từ đầu những năm 1930, tại nhiều gia đình xuất hiện "phòng Stalin" với chân dung lãnh tụ để bày tỏ sự tôn kính.[164] Hình ảnh Stalin cũng trở thành tâm điểm của nền nghệ thuật tuyên truyền, bao gồm thơ, ca, nhạc, họa, phim ảnh. Một ví dụ là "Khúc ca Stalin" của A. V. Avidenko dưới dây:

Cảm ơn Người, Stalin. Cảm ơn người vì tôi thấy sung sướng. Cảm ơn Người vì tôi vui. Bất kể sau tôi có già ra sao, tôi sẽ không bao giờ quên chúng ta đã đón tiếp Stalin hai ngày trước ra sao. Hàng thế kỉ sẽ trôi qua, và các thế hệ vẫn sẽ xem chúng ta là những người trần hạnh phúc nhất, may mắn nhất trong loài người, bởi vì chúng ta sống trong một thế kỉ mà nhiều thế kỉ mới có, bởi vì chúng ta được đặc ân trông thấy Stalin, lãnh tụ tôn kính của chúng ta... Mọi thứ thuộc về người, lãnh tụ của Tổ quốc vĩ đại. Và khi người phụ nữ tôi yêu cho tôi đứa con đầu lòng, tiếng đầu tiên nó sẽ bập bẹ sẽ là: Stalin...[165][166]

Ở những chỗ cá nhân, Stalin thường khẳng định rằng sự tôn sùng ông là cần thiết về mặt tuyên truyền, ít nhất là cho bộ phận dân chúng tầng lớp thấp, nhưng có thể phản tác dụng đối với giới trí thức tinh hoa.[167] Stalin cũng muốn hình ảnh của mình như là hiện thân của Đảng Cộng sản, và tiết lộ rất ít về đời sống cá nhân của mình với truyền thông[168] Stalin không phải lúc nào cũng thoải mái với sự tán tụng triền miên; một người cộng sản Phần Lan là Arvo Tuominen từng ghi nhận một lần Stalin từng chế nhạo sự tán tụng chính mình trong một bữa tiệc năm mới của Đảng năm 1935, khi nói với giọng mỉa mai: "Các đồng chí! Tôi muốn đề nghị nâng cốc cho đấng thượng phụ của chúng ta, sự sống và mặt trời, nhà giải phóng các dân tộc, kiến trúc sư của chủ nghĩa xã hội - Josef Vissarionovich Stalin, và tôi hi vọng đây sẽ là diễn văn đầu tiên và cuối cùng dành cho thiên tài đó trong tối hôm nay."[169]

Mặt khác, một số người ác cảm với Stalin thì cho rằng ông khiêm tốn giả vờ. Chủ tịch Khrushchev, trong bài phát biểu chỉ trích Stalin sau khi ông qua đời, cho rằng chính Stalin đòi ông phải được ghi nhận về "tính khiêm tốn đáng kinh ngạc của những vĩ nhân thực sự".[170]

Các học giả hiện vẫn tranh cãi với nhau về mức độ tán thưởng của Stalin đối với sự sùng bái chính ông ta. Tuy vậy, Stalin thường tỏ ra khiêm tốn, thậm chí nhiều lần nhấn mạnh tầm quan trọng của lực lượng xã hội, chứ không phải thiên tài cá nhân, thậm chí dù là cả Lenin, là yếu tố quyết định thành công của cách mạng và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Người ta cũng ghi nhận Stalin thường sửa một số văn bản, xóa bớt những lời ngợi ca bản thân mình và thêm vào lời ca ngợi cho các lãnh đạo Soviet khác.[171] Hơn nữa, năm 1936 Stalin đã cấm phong trào đổi tên địa danh theo tên mình.[168]

Củng cố nền quốc phòng

Tăng cường quốc phòng là mục tiêu quan trọng mà Stalin theo đuổi. Một trong những mục tiêu chính của công nghiệp là xây dựng quân đội của Liên Xô. Vì vậy, nếu như ngày 1/1/1932, Hồng quân chỉ có 1446 xe tăng và 213 xe bọc thép, thì vào tháng 1/1934, Hồng quân Liên Xô đã được trang bị 7574 xe tăng và 326 xe bọc thép các loại.[cần dẫn nguồn]

Sự phát triển của quân đội Liên Xô
từ năm 1939 đến năm 1941
[172]
1/1/1939 22/6/1941 % tăng trưởng
Số lượng sư đoàn 131,5 316,5 140,7
Quân số 2.485.000 5.774.000 132,4
Pháo và súng cối 55.800 117.600 110,7
Xe tăng và xe thiết giáp 21100 25700 21,8
Máy bay các loại 7700 18700 142,8

Trước ngày 22 tháng 6 năm 1941, nền công nghiệp quốc phòng Liên Xô đã có sự phát triển mạnh sau kế hoạch năm năm lần thứ ba (1936-1940). Do sự đe dọa của Đức Quốc xã đã cận kề, công nghiệp quốc phòng của Liên Xô được thúc đẩy và có bước phát triển lớn. Tới năm 1938, so với đầu những năm 30, sản xuất xe tăng Liên Xô đã tăng hơn gấp 3. Kể từ 1-1-1939 tới 22-6-1941, Hồng quân đã được trang bị hơn 7.000 xe tăng và nếu chỉ tính riêng năm 1941 thì Hồng quân đã được cung cấp gần 5.500 xe, 29.637 pháo dã chiến, 52.407 súng cối. Tổng số pháo và súng cối tính cả đại bác trên xe tăng là 92.578. Theo tướng Zhukov thì về mặt số lượng và chất lượng, các súng cối của Liên Xô đã vượt khá xa các súng cối Đức.[173]

Năm 1939, Liên Xô cho xây thêm 9 nhà máy sản xuất máy bay và 7 nhà máy sản xuất động cơ, ngoài ra còn có 7 nhà máy khác chuyển sang chế tạo sản phẩm cho máy bay. Cuối năm 1940, công nghiệp sản xuất máy bay Liên Xô đã tăng lên 70%.[173]

Lực lượng hải quân Liên Xô sát chiến tranh có gần 600 tàu chiến, 211 tàu ngầm, hơn 1.000 pháo phòng thủ bờ biển với trên 2.500 máy bay. Gần 270 tàu các loại được đóng vào sát cuối năm 1940. Nhiều căn cứ hải quân mới được xây dựng trong khi các khu vực ở vùng Baltic, Biển Đen và biển Bắc cực được Hồng quân củng cố thêm.[cần dẫn nguồn]

Cùng với việc đẩy mạnh xây dựng công nghiệp quốc phòng, Liên Xô cũng tiến hành tổ chức lại lực lượng vũ trang. Những đơn vị quân đội địa phương đã được giải tán, lực lượng vũ trang được chính quy hoá. Tháng 9 năm 1939, Xô viết tối cao thông qua luật nghĩa vụ quân sự mới. Tới đầu năm 1941, tổng số lục quân, hải quân đã lên tới 5 triệu binh lính. Nhiều binh chủng mới ra đời như phòng không, nhảy dù, các trường đạo tạo sĩ quan chỉ huy các cấp cũng được mở rộng. Năm 1939 Liên Xô có 63 trường lục quân, 32 trường không quân, 14 trường đại học quân sự chính quy và nhiều trường hàm thụ ngắn hạn.[63]

Trong bữa tiệc tối ngày 7/11/1940, Stalin đã chỉ trích một số lãnh đạo Bộ Quốc phòng khi họ không chịu cập nhật kiến thức mới về quân sự để chuẩn bị cho cuộc chiến sắp tới với Đức Quốc xã:

Lịch sử đã quá chiều chuộng chúng ta. Chúng ta đã giành được tương đối nhiều thắng lợi. Và điều đó đã khiến nhiều người trong chúng ta cảm thấy tự mãn. Họ không muốn học hỏi gì thêm nữa mặc dù chúng ta đã tạo ra những điều kiện tuyệt vời để làm việc này. Họ nghĩ, một khi họ thuộc thành phần giai cấp công nhân và nông dân, một khi tay họ đã đầy chai thì việc gì họ cũng làm được, họ không cần phải học hỏi ai và cũng không cần phải tự tu dưỡng nữa. Trong khi thực ra thì họ đần ơi là đần.
Chúng ta có rất nhiều người trung thực, dũng cảm nhưng quên rằng chỉ có lòng dũng cảm thôi thì chưa đủ. Cần có kiến thức, kỹ năng. Cần phải thường xuyên học hỏi và đào tạo lại sau hai ba năm.
Chúng ta đã chiến thắng quân Nhật tại Khalkhin Gol. Nhưng máy bay của chúng ta thua kém máy bay Nhật về tốc độ và tầm bay. Chúng ta vẫn chưa sẵn sàng để tiến hành một cuộc chiến như những gì đang diễn ra giữa Đức và Anh.
Mọi người vô tư lự quá, không muốn học hỏi và không muốn học thêm. Nghe tôi nói xong rồi lại vẫn y nguyên. Nhưng tôi nói thực với quý vị, nếu tôi hết kiên nhẫn thì tôi sẽ tẩn cho tất cả những “bị gạo” đến tung tóe hết cả ra. Sống lúc nào thì phải học hỏi lúc ấy

Chiến tranh thế giới thứ hai

Phân chia ảnh hưởng và sáp nhập các nước Baltic

Trong các năm 1936-1937, Liên Xô đã giúp đỡ những người Cộng hòa Tây Ban Nha chống lại chế độ Franco được Adolf Hitler bảo trợ nhưng lại không được Anh, Pháp ủng hộ tích cực. Ngược lại, từ tháng 11 năm 1937, Anh-Pháp đã mở nhiều cuộc hội đàm với các thủ lĩnh Đức Quốc xã tại Obersanzberg. Họ cho rằng chế độ của Hitler đã trở thành thành trì chống chủ nghĩa Bolshevik và đã đến lúc có thể tiến hành cuộc "thập tự chinh" mới về phương Đông. Ngày 1 tháng 3 năm 1938, nước Đức Quốc xã thôn tính Áo mà không cần nổ một phát súng. Trong khi Bộ trưởng dân ủy ngoại giao Liên Xô tuyên bố lên án cuộc xâm lược này[174] thì thủ tướng Anh Neville Chamberlain lại nói: "Chúng ta phải tránh bị mắc lừa. Và chúng ta cũng không để cho các nước nhỏ có ảo tưởng về sự giúp đỡ của Hội Quốc Liên có thể dành cho họ để chống lại sự xâm lược".[175]

Hiệp định Munich 1938 không chỉ mở đường cho nước Đức Quốc xã chiếm đóng Tiệp Khắc mà còn "bật đèn xanh" cho quân đội Đức tại Đông Phổ chiếm vùng Klaipeda của Litva và khuyến khích nước Ý phát xít của Benito Mussolini xâm lược Albania. Tháng 4 năm 1939, trong một nỗ lực cuối cùng để cứu vãn nền an ninh tập thể của châu Âu, Liên Xô mở lại các cuộc thương lượng với Anh và Pháp, thành thực tìm kiếm một hiệp định tương trợ thật sự với các nước Tây Âu và Đông Âu nhưng họ đã vấp phải sự lạnh nhạt của các chính phủ Anh và Pháp. Chính thái độ này của Anh và Pháp đã khuyến khích các nước Đức, Ý, Nhật ký kết với nhau tại Berlin bản "Hiệp ước chống quốc tế cộng sản" ngày 27 tháng 9 năm 1940. Toàn bộ tình hình trên đã buộc chính phủ Liên Xô phải có những hành động kiên quyết trong việc tìm con đường để đảm bảo cho nền anh ninh đất nước. Con đường đó là con đường lợi dụng mâu thuẫn giữa các kẻ thù, khi Liên Xô quyết định chấp nhận đề nghị của Đức Quốc xã ký với họ hiệp ước không xâm lược lẫn nhau.[176]

Trong khi đó, hính sách của Ba Lan được nhà báo kiêm sử gia người Mỹ William Shirer mô tả là "tương đương với sự tự sát". Quan hệ giữa Ba Lan và Nga đã đóng băng kể từ Chiến tranh Nga-Ba Lan (1919-1921), trong đó Ba Lan đã chiếm nhiều vùng đất thuộc Nga và có khoảng 6 triệu dân Belarusia và Ukraina (là người dân thuộc Nga) đã phải sống trên lãnh thổ Ba Lan. Sau cái chết của Jozef Pilsudski, chính sách của Ba Lan tiếp tục với lập trường đối đầu với Liên Xô. Như vậy, theo Shirer, Ba Lan đã có một đường biên giới "không thể chấp nhận" đối với cả Đức và Liên Xô, trong khi họ không đủ mạnh để có thể "tranh chấp với hai người láng giềng" cùng một lúc.[177]

Theo Nghị định thư tối mật giữa Liên Xô và Đức, hai nước này chia nhau vùng ảnh hưởng ở miền Đông Âu. Ngày 1 tháng 9 năm 1939, Đức xâm lược Ba Lan, chính thức khởi đầu Chiến tranh thế giới thứ hai.[178] Ngày 17 tháng 9, Stalin cho Hồng quân tràn vào miền Đông Ba Lan để thu hồi những lãnh thổ bị mất trong Chiến tranh Nga-Ba Lan (1919-1921).[179][180] 11 ngày sau đó, nghị định thư tối mật được sửa đổi, cho phép Hitler nắm phần lãnh thỗ Ba Lan lớn hơn, đổi lại Liên Xô thu được phần lớn Litva.[181]

Liên Xô bắt đầu tấn công Ba Lan vào ngày 17 tháng 9 theo Hiệp ước Molotov-Ribbentrop. Hồng quân tiến nhanh chóng và gặp ít kháng cự,[182] bởi các lực lượng Ba Lan đối mặt với họ nhận được lệnh không tham chiến với quân Liên Xô. Khoảng 250.000[183][184]-454,700[185] binh sĩ và cảnh sát Ba Lan đã bị bắt làm tù binh và bị chính quyền Liên Xô giam giữ. Khoảng một nửa số tù binh được trả tự do hoặc trốn thoát, trong khi 125.000 người bị giam tại các trại do NKVD điều hành.[183] Trong số đó, có 42.400 binh sĩ, chủ yếu là người thuộc sắc tộc UkrainaBelarus phục vụ trong quân đội Ba Lan và sống tại các lãnh thổ cũ của Ba Lan khi ấy đã bị Liên Xô sáp nhập, và được thả ra vào tháng 10.[184][186][187] 43.000 binh sĩ sinh ra tại Tây Ba Lan, khi ấy thuộc quyền kiểm soát của Đức, được chuyển cho người Đức; đổi lại người Liên Xô nhận được 13.575 tù nhân Ba Lan từ phía Đức.[184][187]

Một nhóm lớn các tù binh chiến tranh Ba Lan
Tù binh Ba Lan bị Hồng quân bắt giữ trong cuộc tấn công Ba Lan

Ngoài những quân nhân và viên chức chính phủ, các công dân Ba Lan khác cũng bị trấn áp nếu bị kết tội chống chính quyền. Hàng ngàn thành viên giới trí thức Ba Lan cũng bị bắt giam vì bị kết án là "nhân viên tình báo, sen đầm, địa chủ, những kẻ phá hoại, chủ nhà máy, luật sưthầy tu."[183] Bởi hệ thống đăng lính của Ba Lan yêu cầu tất cả những người tốt nghiệp đại học không thuộc diện miễn trừ phải đăng ký làm sĩ quan dự bị,[188] NKVD đã bắt giữ một lượng lớn giới trí thức Ba Lan.[f] Theo những ước tính của Viện Tưởng niệm Quốc gia (IPN), khoảng 320.000 công dân Ba Lan đã bị trục xuất sang Liên Xô (con số này bị một số nhà sử học, những người ủng hộ ước tính cũ khoảng 700.000-1.000.000 người, nghi ngờ). Theo Tadeusz Piotrowski, "...trong cuộc chiến và sau năm 1944, 570.387 công dân Ba Lan đã là đối tượng của một số hình thức trấn áp chính trị của Liên Xô][189]

Stalin đã ra lệnh thực hiện vụ xử bắn hàng ngàn sĩ quan Ba Lan bị bắt trong cuộc chiến thế giới lần thứ Hai khi Liên Xô cùng Đức Quốc xã tấn công Ba Lan.[190] Hạ viện Duma Nga đã ra tuyên bố lên án Stalin và các viên chức gây ra vụ xử bắn hàng loạt tại Katyn.[190] Có đến nửa thế kỷ Liên Xô đổ lỗi cho phát xít Đức là thủ phạm gây ra vụ thảm sát, nhưng đến 1990 mới bắt đầu công nhận sự thật đó.[190] Động cơ của Stalin khi ra mệnh lệnh này vẫn còn đang tranh cãi. Có ý kiến thì cho rằng ông muốn loại bỏ những thành phần chống đối Xô viết tại Ba Lan (quân đội Ba Lan từng tham chiến bên cạnh quân Bạch vệ để chống lại Hồng quân), ý kiến khác thì cho rằng ông muốn trả thù cho hàng chục vạn tù binh Nga đã chết trong trại tù của người Ba Lan trong cuộc Chiến tranh Nga-Ba Lan 1919-1921, nơi ông từng là sĩ quan chỉ huy.

Chính quyền Liên Xô tuyên bố hành động của mình là để bảo vệ người UkrainaBelarus (những dân tộc Đông Slav có quan hệ gần gũi với người Nga và xem chính phủ Ba Lan như kẻ chiếm đóng) sống ở phía đông của Ba Lan[191][192] Những người gốc Ukraina và Belarus đã hoan nghênh Hồng quân vì họ và dân tộc Nga có quan hệ gần gũi (nhóm chủng tộc đông Slav) và cùng thuộc về Đế quốc Nga trước kia. Trong chiến dịch Ba Lan, Liên Xô ít gặp chống cự vì người gốc Ukraina và Belarus chiếm đa số tại đây, họ coi Hồng quân là người giải phóng đã giúp họ rửa mối thù bị Ba Lan chiếm đóng để trở về với "Đất mẹ Nga". Cuộc tấn công của Liên Xô, mà Bộ Chính trị và nhân dân Liên Xô, Ukraina và Belarus gọi là "chiến dịch giải phóng Tây Belarus và Tây Ukraina", đã dẫn đến việc hợp nhất hàng triệu người Ukraina và Belarusia cũng như người gốc Ba Lan vào các nước cộng hòa UkrainaByelorussia.[193]

Những thay đổi lãnh thổ được hoạch định và trên thực tế ở miền Đông và Trung Âu 1939–1940 theo thỏa thuận Xô-Đức

Sau khi Stalin tuyên bố rằng ông sẽ "giải quyết vấn đề Baltic" vào tháng 6 năm 1940, Litva, Latvia và Estonia được sáp nhập vào Liên Xô, và Liên Xô về cơ bản đã hoàn tất công cuộc thu hồi những lãnh thổ thuộc nước Nga cũ[194][195][196] Sau khi vấp phải sự chống trả quyết liệt trong cuộc tấn công Phần Lan,[197] một hòa ước tạm thời được ký kết, nhượng cho Liên Xô miền đông Karelia (10% lãnh thổ Phần Lan).[197]

Tổn thất lớn dù có ưu thế vũ khí vượt trội so với đối phương trong chiến dịch Phần Lan đã khiến Stalin phải xem lại sự tự tin quá mức của ông ta trước cuộc chiến,[198] và bắt đầu chỉnh đốn việc huấn luyện quân đội và tăng cường các nỗ lực tuyên truyền.[199] Tháng 6 năm 1940, Stalin chi đạo việc thu hồi các miền Bessarabia và bắc Bukovina (bị Romania chiếm năm 1921), tuyên bố rằng miền lãnh thổ Rumani này là một phần của Cộng hòa Xô viết Moldavia thuộc Liên Xô; tuy nhiên bước đi này đã vi phạm nghị định thư Molotov-Ribbentrop.[200]

Stalin và Molotov tại lễ ký kết Hiệp ước Xô-Nhật với Đế quốc Nhật Bản, 1941

Sau khi hiệp ước tay ba lập nên phe trục do Đức, Nhật và Itaia được ký kết, Stalin trao đổi thư từ với Ngoại trưởng Đức Quốc xã Ribbentrop, trong đó Stalin đề nghị đi tới một thỏa thuận xem xét một "cơ sở bền vững" cho "lợi ích tương hỗ" giữa hai bên.[201] Sau một hội nghị ở Berlin giữa Hitler, Molotov và Ribbentrop, Đức đề xuất Liên Xô tham gia vào Phe Trục.[202] Ngày 25 tháng 11, Stalin trở lời tán thành gia nhập Phe Trục, nhưng không được hồi đáp. Ít lâu sau đó, Hitler ban hành một chỉ thị tối mật về việc sẽ xâm lược Liên Xô.[203] Trong một nỗ lực để bày tỏ ý muốn hòa bình với Đức, ngày 13 tháng 4 năm 1941, Stalin chứng kiến lễ ký Hiệp định trung lập với đồng minh Đức là Nhật.[204]

Ngày 6 tháng 5, Stalin thay thế Molotov làm Chủ tịch Hội đồng Dân ủy (tức Thủ tướng). Mặc dù đã từ lâu Stalin là người đứng đầu de facto của chính quyền, ông kết luận rằng những mối quan hệ với Đức Quốc xã đã suy mòn tới độ ông cần phải nắm cả danh nghĩa chính thức để điều hành.[205]

Theo Giáo sư sử học Jeffrey Roberts thuộc Đại học Ailen, chính sách của Liên Xô dựa trên cơ sở tính thực tế mong muốn hạn chế khu vực ảnh hưởng của Đức. Trong đó sẽ ưu tiên đảm bảo nhu cầu về an ninh của quốc gia, chủ yếu là để giữ cho đất nước không bị hút vào cuộc chiến và để hạn chế sự mở rộng của Đức về phía đông.[206] Trong bài diễn văn truyền thanh gửi đến nhân dân Nga ngày 3 tháng 7 năm 1941, Stalin phát biểu:

Chúng ta đã tranh thủ được nền hòa bình cho đất nước ta trong một năm rưỡi, cũng như đã tạo cơ hội chuẩn bị cho các lực lượng của ta nhằm chống lại phát xít Đức vi phạm hiệp ước mà tấn công chúng ta. Đây là cái được của đất nước ta và cái mất của phát xít Đức.

Phát xít Đức tấn công

Vào tháng 6 năm 1941, Đức mở chiến dịch Barbarossa xâm lược Liên Xô, mở màn cuộc chiến ở mặt trận Phía Đông.[207] Mặc dù đã nhận được sự cảnh báo từ trước, nhưng Stalin vẫn bị bất ngờ trước hành động của Đức.[208] Ông đã thành lập Ủy ban Quốc phòng, trong đó ông là người đứng đầu như người chỉ huy Tối cao[209] đồng thời cũng là Tổng tư lệnh Tối cao của lực lượng vũ trang Xô viết (Stavka),[210] còn Georgy Zhukov được bổ nhiệm làm Tổng tham mưu Trưởng.[210] Chiến thuật chiến tranh chớp nhoáng của quân Đức đã phát huy hiệu quả trong giai đoạn đầu của cuộc chiến, không quân Xô viết đã bị thiệt hại nặng chỉ trong vòng hai ngày.[211] Quân Đức dần tiến sâu vào lãnh thổ của liên Xô;[212] chỉ trong một thời gian ngắn Ukraine, Belorussia, và vùng Baltic đã bị Đức chiếm đóng.[210] Trong khi đó những người tị nạn đã tràn vào các thành phố lớn như MoscowLeningrad để thoát khỏi quân đội Đức,[210] mặc dù có một bộ phận công dân Liên Xô — cụ thể là những người không phải dân tộc Nga cũng không phải là người Do Thái — thì chào đón quân đội Đức như những người giải phóng.[210] Đến tháng bảy, lực lượng không quân Luftwaffe của Đức ném bom Moscow,[210] và đến tháng 10 quân Đức đã chuẩn bị cho một cuộc tấn công vào thủ đô Moscow.[213] Chính phủ Liên Xô lên kế hoạch sơ tán đến Kuibyshev, mặc dù Stalin quyết định ông vẫn sẽ ở lại Moscow để cổ vũ tinh thần binh sĩ.[214] Bước tiến của quân Đức tới Moscow đã bị chặn lại, và khi mùa đông đến, Hồng quân phản công đẩy lùi quân Đức. Kế hoạch của quân Đức nhằm chiếm đóng Moscow trước mùa đông đã bị phá sản.[210]

Bỏ qua những lời tham mưu của Zhukov và các vị tướng lĩnh khác, Stalin vẫn chủ trương tấn công quân Đức chứ không phòng thủ.[215] Vào tháng 6 năm 1941, ông ra lệnh tiến hành một cuộc tiêu thổ nhằm phá hủy tất cả cơ sở hạ tầng và nguồn cung lương thực trước khi người Đức có thể chiếm giữ chúng,[216] đồng thời ông ra lệnh cho NKVD thanh trừng khoảng 100,000 tù nhân chính trị trong những khu vực mà quân đội Đức tiếp cận.[217] Ngoài ra ông cũng tiến hành thanh lọc bộ máy chỉ huy quân sự, một số chỉ huy cấp cao đã bị giáng chức trong khi một số khác đã bị bắt và xử bắn vì đã để thua trận[218] Với Lệnh Số 270, Stalin đề ra mệnh lệnh rằng: bất cứ binh sỹ Hồng quân nào có hành vi đào ngũ hay đầu hàng quân địch thì đồng đội có quyền xử bắn tại chỗ, và gia đình của họ sẽ bị bắt giữ.[219] Trong giai đoạn diễn ra cuộc chiến, cả quân đội Đức và quân đội Liên Xô đều đã bỏ qua các nguyên tắc của chiến tranh được đề ra trong Công uớc Geneva[210]. Liên Xô mạnh mẽ lên án hành động thảm sát những người cộng sản, người Do Thái, và người Romani của quân Phát xít.[210] Stalin đã khai thác triệt để tinh thần chống Quốc xã của người Do Thái, và vào tháng 4 năm 1942 ông đã quyết định tài trợ cho Ủy ban Do Thái chống phát xít (JAC) để thu hút sự ủng hộ của dân Do Thái cũng như của những người nước ngoài dành cho quân đội Xô viết trong cuộc chiến tranh với Đức quốc xã.[220]

Trung tâm thành phố Stalingrad sau khi được giải phóng, 2 tháng 2 năm 1943

Liên Xô quyết định liên minh với hai cường quốc của phe Đồng minh là Vương Quốc AnhHoa Kỳ.[221] Để phục vụ cho công cuộc kháng chiến, Liên Xô tăng cường phát triển công nghiệp ở miền trung nước Nga, tập trung gần như hoàn toàn sản xuất cho quân đội.[210] Họ đã đạt được năng suất công nghiệp rất cao, vượt xa Đức.[210] Trong thời gian diễn ra chiến tranh, Stalin đã tỏ ra khoan dung hơn đối với Giáo hội Chính thống Nga, ông cho phép Giáo hội tiếp tục hoạt động và đích thân ông đã có cuộc gặp gỡ với Đức Thượng Phụ Sergius vào tháng 9 năm 1943.[222] Bài hát Quốc tế ca, vốn là quốc ca của Liên Xô từ ngày đầu thành lập, đã được Stalin thay thế bằng một bài hát khác mang tính yêu nước hơn.[210] Quốc tế Cộng sản bị giải thể vào năm 1943,[223] và Stalin khuyến khích các đảng Mác-Lênin nước ngoài tập trung vào chủ nghĩa dân tộc hơn là chủ nghĩa quốc tế để mở rộng hơn sự ủng hộ trong nước của họ.[210]

Vào tháng 4 năm 1942 Stalin ra lệnh cho Hồng quân tổ chức một cuộc phản công ở miền đông Ukraine để chiếm lại Kharlov từ tay quân Đức, nhưng không thành công.[224] Đến tháng 6 năm 1942, Quân đội Đức mở cuộc tấn công vào thành phố Stalingrad; Stalin ra lệnh cho các chiến sĩ Hồng Quân phải giữ được thành phố bằng mọi giá.[210] Trận Stalingrad giữa Hồng quân Liên XôĐức Quốc xã đã diễn ra vô cùng khốc liệt. Đến tháng 2 năm 1943, sau khi Hồng quân phản công, quân Đức tại Stalingrad đầu hàng. Chiến thắng của Liên Xô trong trận Stalingrad đánh dấu một bước ngoặt lớn của cuộc thế chiến.[221] 

Liên Xô phản công

Tháng 11 năm 1942, Quân đội Liên Xô đã bắt đầu phản công quân Đức ở cánh phía Nam trong chiến dịch Blau và mặc dù đã có 2.5 triệu binh lính Liên Xô thương vong trong nỗ lực đó, quân đội Liên Xô giờ đây đã chiếm được ưu thế trong phần còn lại của cuộc chiến ở mặt trận Phía Đông.[225] Đức đã cố gắng tổ chức một cuộc tấn công bao vây ở Kursk trong nỗ lực cuối cùng để giành lại thế chủ động trên toàn mặt trận, tuy nhiên rốt cuộc Hồng quân đã đẩy lùi được cuộc tấn công của quân địch.[226] Đến cuối năm 1943, Liên Xô đã chiếm lại được một nửa phần lãnh thổ đã bị quân Đức thôn tính từ năm 1941 đến năm 1942.[225] Mức sản xuất công nghiệp quân sự của Liên Xô cũng đã tăng đáng kể từ cuối năm 1941 cho đến đầu năm 1943 sau khi Stalin cho di rời tất cả các nhà máy về phía Đông, các nhà máy này trở nên an toàn trước cuộc xâm lăng của quân Đức và những cuộc oanh tạc bằng không quân của kẻ thù.[225]

Ở các nước Đồng minh phương Tây, Stalin ngày càng được nhìn nhận một cách tích cực hơn trong suốt cuộc chiến.[210] Năm 1941, Dàn nhạc giao hưởng London đã tổ chức một buổi hòa nhạc để kỉ niệm ngày sinh nhật của Stalin,[210] và trong năm 1942 tạp chí Times bình chọn ông là "Nhân vật của năm".[210] Khi Stalin biết được rằng người dân Tây Âu gọi ông bằng biệt danh trìu mến là "Chú Joe", ban đầu ông đã tỏ ra bị xúc phạm vì nghĩ đó là cách gọi không đàng hoàng.[227] Thủ tướng Anh Churchill đã bay đến Moskva để gặp gỡ Stalin vào tháng 8 năm 1942 và một lần nữa vào tháng 10 năm 1944.[228] Stalin hiếm khi rời Moscow trong suốt cuộc chiến,[210] khiến cho Tổng thống Mỹ Roosevelt và Churchill nhiều phen thất vọng bởi Stalin thường từ chối gặp gỡ họ.[210]

Trong tháng 11 năm 1943, Stalin đã có cuộc gặp với Churchill và Roosevelt tại Tehran, một địa điểm mà Stalin đã đích thân lựa chọn.[229]  Tại Tehran, ba vị nguyên thủ đồng ý rằng để ngăn chặn Đức tăng cường sức mạnh quân sự và tiếp tục gây chiến, nước Đức cần phải bị chia cắt một lần nữa.[210] Stalin cũng tỏ ra thiếu kiên nhẫn và ông liên tục kêu gọi Mỹ và Anh phải nhanh chóng mở một mặt trận Phía Tây chống lại Đức để giảm bớt áp lực đối với quân đội Liên Xô ở mặt trận phía Đông, cuối cùng, phe Đồng minh cũng đáp ứng yêu cầu của Stalin vào giữa năm 1944.[230] Stalin cũng bày tỏ mong muốn rằng, khi chiến tranh kết thúc, Liên Xô sẽ được sáp nhập những lãnh thổ mà họ đã chiếm được của Ba Lan theo Hiệp ước Molotov–Ribbentrop với Đức, tuy vậy điều này đã bị Churchill phản đối.[225] Thảo luận về số phận của vùng Balkan, sau này trong năm 1944 Churchill đã đồng ý với lời đề nghị của Stalin rằng sau chiến tranh, Bulgaria, Romania, Hungary, và Nam Tư sẽ nằm trong sự kiểm soát của Liên Xô trong khi Hy Lạp sẽ nằm trong phạm vi ảnh hưởng của phương Tây.[231]

Năm 1944, Liên Xô đã đánh bật quân Đức ra khỏi lãnh thổ của mình, họ bắt đầu tiến quân vào giải phóng vùng Đông Âu[225]. Hồng quân mở chiến dịch Bagration, một cuộc đại phản công chống lại Đạo quân Trung tâm của Đức.[232] và đã liên tiếp giành được thắng lợi. Quân đội Đức đã bị đẩy ra khỏi vùng Baltic, vùng đất này sau đó được tái sáp nhập vào Liên Xô.[210] Hồng quân tiếp tục tái chiếm vùng KavkazCrimea, một số nhóm sắc tộc thiểu số sống trong khu vực— Kalmyk, Chechen, Ingushi, Karachai, Balka, và nngười Tatar Krym—bị cáo buộc đã hợp tác với Phát xít Đức. Chính quyền Stalin sau đó đã giải tán những nước cộng hòa tự trị của họ và từ cuối năm 1943 đến đầu năm 1944, phần lớn người dân của những khu vực này đã bị trục xuất đến Trung ÁSiberia.[233] Ước tính có hơn một triệu người đã bị trục xuất.[221]

Trong tháng 2 năm 1945, ba nhà lãnh đạo của ba cường quốc Đồng minh đã gặp nhau ở Hội nghị Yalta.[234] Roosevelt và Churchill chấp nhận yêu cầu của Stalin rằng Đức phải trả Liên Xô 20 tỷ đô la tiền bồi thường, và Liên Xô sẽ được phép chiếm đóng quần đảo Sakhalin và quần đảo Kurile đổi lại việc Liên Xô cam kết sẽ tham gia cuộc chiến tranh chống Phát xít Nhật.[210] [235] Mặc dù che giấu những tham vọng của mình, Stalin đã đặt quyết tâm lớn vào việc chiếm được Berlin trước phe Đồng minh, tin rằng điều này sẽ giúp cho Liên Xô có thể dễ dàng kiểm soát châu Âu hơn sau cuộc chiến. Churchill đã tỏ ý lo ngại về điều này, và đã cố gắng để thuyết phục người Mỹ rằng các nước Đồng Minh phương Tây cũng nên theo đuổi mục tiêu tương tự, nhưng không thành công[210]. Vào tháng 4 năm 1945, Hồng quân chiếm đóng Berlin, Hitler tự sát, và Đức đầu hàng vô điều kiện.[236]

Hội nghị Yalta 1945: Churchill, Roosevelt và Stalin

Thời hậu chiến

Khôi phục Liên Xô

Sau chiến tranh thế giới II, Liên Xô bị tàn phá ghê gớm. Tổn thất vật chất ước tính là 2,5 nghìn tỷ rúp, tương đương với 30% toàn bộ nguồn của cải của đất nước. Sự phát triển các ngành kinh tế quan trọng bị thụt lùi tới 10-15 năm. Khoảng 20 tới 27 triệu người Liên Xô đã chết trong chiến tranh.

Stalin đề ra một kế hoạch 5 năm khôi phục kinh tế và ông đã hoàn thành nó trong 4 năm 3 tháng. Đến năm 1950, Liên Xô đã đạt tổng sản phẩm quốc dân là 126 tỷ đôla (thời giá 1950), vượt mức trước chiến tranh và đứng thứ hai thế giới chỉ sau Mỹ (381 tỷ đôla). Về khoa học - kỹ thuật và quân sự, vào ngày 10/10/1948, Liên Xô đã bắn quả tên lửa đạn đạo đầu tiên (P-1). Tiếp đến ngày 29/8/1949, bom nguyên tử được Liên Xô thử thành công, phá vỡ thế độc quyền vũ khí hạt nhân của Mỹ và đưa Liên Xô đạt thế cân bằng quân sự với Mỹ.

Về công nghệ, Liên Xô đã khởi động nhà máy điện hạt nhân đầu tiên trên thế giới. Đồng thời đất nước này còn chế tạo được tuốc-bin hơi nước có công suất 100 triệu oát, lớn nhất thế giới lúc bấy giờ. Công nghệ vũ trụ được Stalin chỉ đạo nghiên cứu, tạo tiền đề cho việc Liên Xô phóng tàu vũ trụ đầu tiên trên thế giới vào năm 1959.

Chiến tranh Lạnh và khối Đông Âu

Sau khi đánh bại Đức Quốc xã, các lực lượng quân sự Xô Viết đã đóng quân tại Trung và Đông Âu, ở những quốc gia này, họ hỗ trợ cho các lực lượng thân Xô Viết thiết lập chính phủ. Các chính phủ chống Cộng tại phương Tây và Hoa Kỳ xem đây là "sự bành trướng xã hội chủ nghĩa" tại châu Âu của Liên Xô, khi Churchill xem toàn bộ khu vực là một "Bức tường Sắt" và thành sân sau của Liên Xô.[237][238] Những quốc gia chủ nghĩa xã hội mới thành lập này ở Đông và Trung Âu thường được gọi là "Khối Đông Âu" hay "Khối Xô-viết".

Khối Đông Âu cho đến năm 1989

Nhà nước Cộng hòa Dân chủ Đức ra đời ngày 7 tháng 10 năm 1949, với hiến pháp mới đẩy chủ nghĩa xã hội lên vị trí độc tôn và giúp Đảng Liên minh Xã hội ("SED") lên nắm quyền.

Tại Hội nghị Yalta, Stalin đã hứa là sẽ tổ chức bầu cử tự do tại Ba Lan,[239] sau khi thất bại trong cuộc bỏ phiếu trưng cầu dân ý năm 1946,[240] gian lận bầu cử đã xảy ra bí mật để giúp những người cộng sản Ba Lan giành thắng lợi đa số trong cuộc bầu cử[241][242][243] Ngay tiếp sau đó, nền kinh tế Ba Lan bắt đầu kỷ nguyên quốc hữu hóa.[244] Tại Hungary, khi Liên Xô thành lập chính phủ xã hội chủ nghĩa, Rákosi Mátyás được đưa lên nắm quyền, ông được xem như là "học trò xuất sắc nhất của chủ tịch Stalin".[245][246] Rákosi áp dụng chiến thuật "sa-la-mi" bằng cách chia nhỏ các đối thủ chính trị ra như kiểu bánh sa-la-mi để tập trung quyền lực nhiều hơn cho chính phủ của ông.[247][248] Rákosi áp dụng đường lối chủ nghĩa Stalin trong chính trị kinh tế, điều này biến ông thành 1 nhà lãnh đạo với biệt danh "sát thủ đầu hói", chế độ của ông được xem là khắc nghiệt nhất châu Âu cho tới năm 1956, khi Rakosi bị thay thế bởi những người cộng sản ôn hòa hơn.[249][250] Xấp xỉ 350 nghìn người Hungary bị thẩm vấn hoặc bắt giam từ giữa năm 1948 đến 1956.[249]

Trong suốt chiến tranh thế giới lần hai, Hồng Quân Xô viết đã vượt biên giới, gầy dựng và hỗ trợ cho những người cộng sản tại đây làm cuộc đảo chính, lật đổ chính phủ thân Đức Quốc xã tại Bulgaria năm 1944.[251] Nhờ vậy mà các chỉ huy quân sự của lực lượng Hồng Quân nắm quyền lực rất cao, các lực lượng thân Liên Xô, đứng đầu là Kimon Georgiev nắm hoàn toàn tình hình chính trị trong nước.

Năm 1949, Liên Xô, Cộng hòa Nhân dân Bulgari, Tiệp Khắc, Cộng hòa Nhân dân hungary, Cộng hòa Nhân dân Ba Lan và Cộng hòa Nhân dân Romania thành lập nên Hội đồng Tương trợ Kinh tế theo mong muốn của Stalin để làm tăng ảnh hưởng của Liên Xô tại Trung Âu và làm giảm ảnh hưởng của chính sách Kế hoạch Marshal của Hoa Kỳ dành cho châu Âu,[252][253] Tiệp Khắc, Hungary và Ba Lan có tỏ thái độ muốn được nhận viện trợ từ chương trình Marshal mặc dù họ biết rằng họ phải đáp ứng các điều kiện như cho phép trao đổi tiền tệ và thực hiện kinh tế thị trường. Vào tháng 7 năm 1947, Stalin ra sắc lệnh buộc các chính phủ thân Xô viết phải rút khỏi Hội nghị Pa-ri bàn về chương trình Tái thiết châu Âu. Điều này đã cho thấy rõ tình hình hậu Thế Chiến hai dẫn đến sự chia rẽ châu Âu thành hai phần riêng biệt.

Tại Hi Lạp, Anh và Hoa Kỳ ủng hộ phe chống cộng trong Nội chiến Hy Lạp và Liên Xô đứng về phe những người cộng sản. Mặc dù vậy, Stalin từ chối về việc can thiệp sâu vào tình hình tại Hi Lạp trong khi Anh-Mỹ thì liên tục tăng cường quân đội tấn công vào Hy Lạp, kết quả là những người cộng sản Hy Lạp đã bị khối chống cộng đánh bại và chính phủ quân phiệt Hy Lạp (1947-1964) ra đời. Albania vẫn duy trì mối quan hệ với Max-cơ-va trong khi Cộng hòa Liên bang Nam Tư lại nằm ở tư thế chống Liên Xô trong suốt thời gian chia rẽ giữa hai bên cho đến khi nó kết thúc vào năm 1955.

Quan hệ Trung – Xô

Mao tại lễ sinh nhật lần thứ 71 của Stalin tại Moskva, tháng 12 năm 1949

Tại châu Á, trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến, Hồng Quân đã đánh tan đạo quân Quan Đông của Nhật để giành quyền kiểm soát Mãn Châu, rồi đến Triều Tiên cho tới vĩ tuyến 38. Năm sau, vùng Mãn Châu được trao trả cho Trung Quốc, Liên Xô cũng rút khỏi Triều Tiên, trao lại quyền quản lý cho chính phủ lâm thời Triều Tiên.

Sự bất đồng giữa Mao Trạch Đông và Stalin đã thể hiện ngay từ lúc khởi đầu. Trong suốt Chiến tranh thế giới thứ hai, Stalin đã giúp đỡ cho chính phủ Tưởng Giới Thạch để chống lại quân Nhật và nhắm mắt làm ngơ để Tưởng Giới Thạch tàn sát những thành viên Đảng Cộng sản Trung Quốc. Nhìn chung, Stalin muốn giúp Tưởng Giới Thạch chống Nhật để giữ hòa khí giữa hai bên, ngay cả sau khi chiến tranh kết thúc, Stalin đã ký hiệp ước bất tương xâm với Tưởng và đề nghị Mao Trạch Đông và những người Cộng sản Trung Quốc hợp tác với Tưởng Giới Thạch. Tuy nhiên, Mao Trạch Đông không chấp nhận đề nghị này và bắt đầu cuộc chiến với Tưởng. Stalin không hề tin rằng Mao Trạch Đông có thể đánh bại Tưởng Giới Thạch nên ông ta đưa ra rất ít sự giúp đỡ cho Mao. Dù vậy, Đảng Cộng sản của Mao Trạch Đông vẫn giành được thắng lợi trước Quốc Dân Đảng của Tưởng Giới Thạch vốn được hỗ trợ rất lớn từ Hoa Kỳ trong Chiến tranh Quốc – Cộng dù rằng họ rất ít khi được Liên Xô hỗ trợ. Điều này đã làm xấu đi tình hình quan hệ giữa hai bên kể từ khi Đảng Cộng sản giành được chính quyền tại Trung Hoa đại lục. Liên Xô vẫn tiếp tục giữ quan hệ ngoại giao với Quốc Dân Đảng của Tưởng cho đến khi Mao giành chiến thắng hoàn toàn.

Stalin cũng ủng hộ những người Thổ Hồi giáo ở Tây Trung Quốc để thành lập quốc gia riêng (Cộng hòa Đông Thổ) trong suốt nổi loạn, li khai chống Trung Hoa Dân Quốc. Ông ủng hộ lãnh đạo Cộng sản Hồi giáo Ehmetjan Qasim để chống lại các lực lượng chống cộng của Quốc Dân Đảng.

Khi Đảng Cộng sản của Mao Trạch Đông giành được chiến thắng tại đại lục và ép chính phủ Quốc Dân phải bỏ chạy ra đảo Đài Loan, Stalin đã nhận ra vị thế mới của Mao Trạch Đông. Liên Xô nhanh chóng công nhận nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa do Mao Trạch Đông lãnh đạo. Đỉnh điểm của mốt quan hệ Trung – Xô thể hiện vào năm 1950 bằng một Hiệp ước thân thiện và hợp tác. Cả hai nước cùng nhau hỗ trợ quân sự cho quốc gia đồng minh ở bắc Triều Tiên để chống lại chính phủ phía Nam do Hoa Kỳ hậu thuẫn. Sau vài vụ xung đột ở biên giới hai miền, cuối cùng Chiến tranh Triều Tiên đã nổ ra vào năm 1950.

Triều Tiên

Lãnh đạo bắc Triều Tiên là Kim Nhật Thành từng là một chiến sĩ kháng chiến chống Nhật bền bỉ suốt 20 năm. Ông muốn chấm dứt tình trạng chia cắt Triều Tiên và thống nhất hoàn toàn đất nước. Stalin đã viện trợ đáng kể cho quân đội Bắc Triều Tiên của Kim Nhật Thành về cả lục quân và không quân, trong đó bao gồm các loại xe tăng T-34/85 và các cố vấn huấn luyện để hỗ trợ Kim Nhật Thành thành lập quân đội thực hiện mong muốn tái thống nhất đất nước Triều Tiên.

Quân đội Bắc Triều Tiên mở màn cuộc chiến vào ngày Chủ nhật, 25 tháng 6 năm 1950, vượt biên giới vĩ tuyến 38, nã pháo tấn công và tràn xuống Nam Triều Tiên[254] Trong suốt cuộc chiến Triều Tiên, các phi công Xô viết sử dụng máy bay của họ cất cánh từ căn cứ tại Trung Quốc để chống lại máy bay của Liên Hiệp Quốc với thành phần chủ yếu là không quân Mỹ.

Việt Nam

Cuối tháng 1 năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh bí mật sang Bắc Kinh để bàn về vấn đề viện trợ cho cuộc kháng chiến chống Pháp tại Việt Nam, sau đó đi Moskva gặp gỡ Stalin và các lãnh đạo Trung Quốc (Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai) đang ở thăm Liên Xô. Stalin và Mao Trạch Đông đã khẳng định sẽ viện trợ vũ khí cho người Việt đánh Pháp: "Việt Nam cần trang bị 10 đại đoàn để đánh thắng Pháp, trước mắt hãy trang bị cho 6 đại đoàn có mặt ở miền Bắc. Việt Nam có thể đưa ngay một số đơn vị sang nhận vũ khí trên đất Trung Quốc. Tỉnh Quảng Tây sẽ là hậu phương trực tiếp của Việt Nam."

Ngay sau đó 1 tháng, chuyến hàng viện trợ đầu tiên của Liên Xô cho Việt Nam được chuyển tới, bao gồm nhiều tấn thuốc men. Sau đó là các loại vũ khí khác nhau. Viện trợ vũ khí của Liên Xô cho Việt Nam được duy trì đều đặn suốt hàng chục năm, đã đóng góp một phần quan trọng vào trang bị của Quân đội Nhân dân Việt Nam trong suốt các cuộc chiến tranh sau đó (nguồn viện trợ chỉ chấm dứt cho tới khi Liên Xô sụp đổ vào năm 1991). Quan hệ ngoại giao hữu hảo với Liên Xô luôn được chính phủ Việt Nam đặc biệt coi trọng, ngay cả với Nhà nước kế thừa là Liên bang Nga. Hiện nay, Liên bang Nga là nước có quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Việt Nam.[255]

Qua đời

Cuộc chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, dưới sự lãnh đạo của Stalin và Đảng Cộng sản Liên Xô, kinh tế, xã hội đất nước đã được khôi phục nhanh chóng. Tới năm 1949, sản lượng kinh tế của Liên Xô đã đạt mức ngang bằng trước chiến tranh, sớm hơn kế hoạch gần 2 năm rưỡi. Cũng trong thời gian này, bom nguyên tử và bom khinh khí được chế tạo thành công ở Liên Xô. Liên Xô đã trở thành một siêu cường theo chủ nghĩa Cộng sản, đủ sức đối đầu với Hoa Kỳ trong Chiến tranh Lạnh.

Ngày 1 tháng 3 năm 1953, sau khi ăn tối với Bộ trưởng bộ nội vụ Lavrenty Pavlovich Beria và ba thủ tướng tương lai Georgi Maximilianovich Malenkov, Nikolai Alexandrovich BulganinNikita Sergeyevich KhrushchevMoskva, Stalin ngã quỵ xuống ở trong phòng, ông chắc đã bị tai biến mạch máu não làm liệt bên phải của ông. Tuy các cận vệ lấy làm lạ ông không thức dậy như thường lệ vào hôm sau, nhưng họ đang có lệnh không được quấy rầy ông, cho nên cái chết của ông không được khám phá ra cho đến tối hôm đó. Bốn ngày sau, Stalin qua đời ngày 5 tháng 3 năm 1953, hưởng thọ 74 tuổi, và chôn cất ngày 9 tháng 3. Lý do chính thức của cái chết là chảy máu não. Thi hài ông được giữ trong Lăng Lenin đến ngày 31 tháng 10 năm 1961. Theo quá trình phi Stalin hóa, thi hài của ông bị mang ra khỏi lăng và được chôn tại khu nghĩa trang dành cho các nguyên thủ nước Nga (bên cạnh tường điện Kremlin). Cũng trong năm 1961, thành phố, mà từ 1925 được đặt theo tên ông, Stalingrad được đổi lại là Volgagrad.

Khi được tin về cái chết của Stalin, đất nước Israel đã công bố quốc tang nhằm ghi nhận công lao của ông trong việc ủng hộ người Do Thái thành lập nhà nước Israel độc lập.

Tại Việt Nam (khi đó đang được Liên Xô viện trợ để chống Pháp), có nhiều nhà văn viết bài tưởng nhớ ông. Theo nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn, cơ quan Hội văn nghệ có cho ra "sưu tập Văn Nghệ số 40 ra 3-1953" để tưởng nhớ Stalin. Về thơ, Chế Lan Viên có bài Stalin không chết, của Huy Cận là bài Nhớ đồng chí Stalin. Nổi tiếng nhất là bài Đời đời nhớ Ông của Tố Hữu, sau đó là các bài của Bàn Tài Đoàn, Nông Quốc Chấn. Xuân Diệu có bài Thương tiếc Đại nguyên soái Stalin. Về phần văn xuôi, Phan Khôi có bài Một vị học giả mác-xít thiên tài. Lê Đạt ghi lại không khí một nhà máy trong rừng khi nghe tin Stalin mất.[256]

Gia đình

Stalin lấy người vợ đầu Ekaterina Svanidze, một người thợ may, vào năm 1906, chết một năm sau đó vì bệnh sưng ruột. Ông có với bà một người con trai, Yakov. Với người vợ thứ hai Nadezhda Alliluyeva Stalin có một người con trai, Vasiliy, và một người con gái, Svetlana. Nadezhda chết năm 1932, chính thức vì bệnh. Theo hồi ký Khrushchyov, Kaganovich, một người thân cận của Stalin, đã triệu tập các bí thư đảng khu vực Moskva và nói rằng Nadezda Sergeyevna chết đột ngột, ngày hôm sau cùng với những người này, ông thuật lời Stalin nói rằng Allilueva không chết vì bệnh, mà là tự sát bằng súng. Vlasik, Đội trưởng cảnh vệ của Stalin cho biết, hôm trước đó Stalin sau bữa ăn tại nhà Uỷ viên dân uỷ Vorosilov, đã về nhà nghỉ với vợ Gusev, một quân nhân mà cũng có mặt trong buổi tiệc. Alliluyeva đêm hôm đó đã gọi tới nhà nghỉ và biết được chuyện này, trong cơn nóng giận bà đã tự sát. Sáng sớm hôm sau, khi Stalin về thì vợ đã chết, ông đã theo xe tang đưa thi thể vợ đi chôn cất, rõ ràng là ông rất đau khổ và khóc bà ấy.[257]

Khi Vasily còn thiếu niên, anh thường tỏ ra hỗn xược, vô lễ và học tập kém do ảnh hưởng từ vụ tự tử của người mẹ, nhưng Ban giám hiệu trường lại bỏ qua và giấu kín việc này vì Vasily là con trai Stalin. Một thầy giáo dạy môn Lịch sử của trường, sau khi chứng kiến Vasily sa sút trầm trọng với sự nuông chiều của Ban giám hiệu, đã viết thư tố cáo cho Stalin. Dù bận rộn, ngày 8 tháng 6 năm 1938, Stalin đã viết thư trả lời thầy giáo và yêu cầu được giữ kín nội dung bức thư này. Tới năm 1991, con trai vị thầy giáo đã công bố thư này. Trong thư, Stalin viết[258]:

Gửi thầy giáo Martyshkin! Xin cảm ơn thầy đã gửi thư.

Sở dĩ tôi viết trả lời thầy muộn, là do công việc quá nhiều. Tôi xin lỗi thầy về điều đó. Con trai tôi, Vasily là một thanh niên hư hỗn, năng lực bình thường, nói dối, hay dọa nạt những kẻ yếu, tư chất yếu đuối và vô tổ chức. Chính những kẻ dung dưỡng, luôn tâm niệm đó là "con trai Stalin" đã làm hư cháu. Tôi mừng, vì nhờ thầy mà tôi biết vẫn còn một giáo viên có lòng tự trọng, đối xử với cháu Vasily như với tất cả học trò khác... Chính các hiệu trưởng như thầy đề cập, đã làm hư cháu Vasily. Họ không xứng có mặt trong trường học, và nếu như cháu Vasily vẫn chưa kịp tự giết mình, là bởi ở đất nước chúng ta vẫn còn có những giáo viên không nỡ để cho đứa học trò "con ông cháu cha", tính khí thất thường đó trượt dài thêm nữa.

Tôi đề nghị thầy nghiêm khắc hơn với Vasily, tôi luôn ủng hộ. Tiếc là chính tôi cũng không có điều kiện gần gũi với Vasily, nhưng tôi hứa với thầy dần dần tôi sẽ đưa cháu vào khuôn khổ.

Xin chào thầy!

Khi Thế Chiến II bùng nổ, Stalin quyết định cả hai con trai của mình đều phải ra mặt trận cầm súng chống quân thù. Anh cả Yakov Dzhugashvili (1907-1943) đã chiến đấu trong lực lượng Pháo binh, rồi bị bắt làm tù binh trong một trận đánh không cân sức gần thành phố Smolensk cửa ngõ phía tây của nước Nga. Do là con trai Tổng tư lệnh tối cao nên Yakov được cấp trên quan tâm đặc biệt, họ đề nghị cử lính đến giải cứu riêng nhưng anh từ chối. Ngày 16 tháng 7 năm 1941, Yakov bị bắt làm tù binh. Trong lần đầu hỏi cung của quân Đức với Yakov, anh trả lời rằng mình rất xấu hổ trước người cha vì đã để bị bắt sống.

Lời khai của Yakov đã bị sĩ quan của Gestapo là Roisller sửa chữa để tuyên truyền rằng anh đã cộng tác với Đức, nhằm kêu gọi binh sĩ Xô viết "theo gương con trai Stalin" mà đầu hàng quân Đức. Khi Stalin biết tin, ông đã căn cứ theo luật về đối tượng phản quốc và ra lệnh bắt tạm giam Iulia, vợ Yakov. Dù Stalin là Tổng tư lệnh nhưng ông không cho thân nhân của mình bất cứ đặc quyền nào, ông quyết định rằng pháp luật phải bình đẳng với mọi người. Vào năm 1943, khi đã làm rõ là Đức ngụy tạo về sự phản bội của Yakov, vợ Yakov được trả tự do.

Yakov Dzhugashvili từng được đề nghị đổi lấy Thống chế Đức Friedrich Paulus bị Hồng quân Liên Xô bắt sống tại trận Stalingrad. Stalin đã cương quyết từ chối, trong bức thư gửi Hitler[cần dẫn nguồn] ông nói: "Tôi sẽ không đổi một Thống chế lấy một binh sĩ bình thường". Theo báo Time, Yakov đã bị bắn chết trong trại tập trung ở Sachsenhausen vào năm 1943, sau khi cãi lộn với bạn tù, có ý định tự tử, thách thức lính gác SS bằng cách leo hàng rào và hô to "Đừng hèn nhát thế, bắn đi".[259],[260], báo Spiegel thì dẫn nguồn cho là ông chết vì bị điện giật tại hàng rào nhà tù.[261] Sau khi làm rõ các hành động và tinh thần dũng cảm của Yakov trong chiến đấu và khi bị giam, vào năm 1977, đoàn chủ tịch Xô viết tối cao Liên Xô đã ra nghị quyết truy tặng Huân chương Vệ quốc hạng nhất cho Yakov.

Trước khi mất, Yakov có một con trai là Evgeni Dzhugashvili sinh năm 1936, sau này trở thành giáo sư, nhà sử học, kỹ sư, nhà hoạt động chính trị - quân sự Xô Viết. Mang hàm đại tá, đến năm 1991 Evgeni về hưu. Ông luôn đấu tranh để bảo vệ quan điểm và lý tưởng của ông nội mình. Năm 1996, ông là Chủ tịch Cộng đồng thừa kế tư tưởng Joseph Stalin (Georgia) và năm 1999 là Chủ tịch Liên minh dân tộc yêu nước Georgia; năm 2001, giữ chức Tổng bí thư đảng Cộng sản Georgia. Ông mang quốc tịch kép Nga - Georgia]], vì thế lúc ông sống tại Tbilisi (Georgia), khi thì ở Moskva (Nga).

Người con trai thứ 2 là Vasily Iosifovich Dzhugashvili xung phong vào Không quân, lần lượt tham gia các trận đánh then chốt của Hồng quân như trận Moskvatrận Stalingrad (nay là Volgagrad), giải phóng BelarusBa Lan, rồi tổng công kích quân Đức Quốc xã tại thủ đô Berlin. Trong các trận không chiến, Vasily đã bắn rơi 2 máy bay tiêm kích và cường kích của quân phát xít. Đến cuối năm 1942, ông được phong hàm Đại tá Không quân. Sau khi Thế Chiến thứ II kết thúc, Đại tá V. Stalin được Ban lãnh đạo Bộ Tư lệnh Đặc khu Thủ đô (nay là Quân khu Moskva) đề cử giữ chức Tư lệnh Lực lượng Không quân phòng thủ Moskva. Tuy vậy, Stalin đã nhiều lần gác lại việc phong hàm tướng cho con bởi ông muốn con trai mình "phải trau dồi phẩm chất cùng tích lũy kinh nghiệm nhiều hơn nữa", và ông đã tự gạch chéo bằng mực đỏ xóa tên của Vasily trong danh sách dự kiến phong cấp tướng định kỳ. Tới năm 1946, Vasily mới được bổ nhiệm Thiếu tướng. Tới năm 1952, Stalin đã cương quyết cách chức con trai ruột sau khi xảy ra sự cố tai nạn ở sân bay Tushino vào tháng 7 năm 1952, một cuộc bay biểu diễn ngang qua quảng trường Đỏ đã bị hủy bỏ vì gió bão và mây mù, nhưng Vasily tự ý ra lệnh họ phải bay.[262] Sau đó ông phải chuyển về Học viện Quân sự Trung ương, trở thành một giảng viên của Khoa Huấn luyện Không quân.

Ngay sau khi Stalin từ trần vào đầu tháng 3 năm 1953, những thế lực thù ghét Stalin đã tìm cách hãm hại con trai của ông. Chỉ nội 3 tuần lễ sau, Tướng V. Stalin đã bị Bộ trưởng Quốc phòng Nikolai Bulganin cho về hưu sau khi từ chối những chức vụ mới. Tới cuối tháng 8 năm 1954, Tướng V. Stalin chính thức bị tước quân tịch và phải ra Tòa án binh, sau một đêm nhậu nhẹt với những người ngoại quốc, tòa đã tuyên phạt ông mức án 8 năm tù giam về tội "tiết lộ bí mật nhà nước và làm mất uy tín của lãnh đạo cao cấp".[262]

Sau 7 năm ngồi tù dưới một cái tên khác để bạn tù khỏi phát hiện ra, trước sự phản đối của những cán bộ trung kiên từng làm việc dưới quyền lãnh tụ Stalin, tháng 4 năm 1961, V. Stalin được tha trước thời hạn, đồng thời được phục hồi cấp bậc và được hưởng phụ cấp là 300 rúp/tháng, tương đương mức lương cấp tướng.[263] Theo văn khố Munzinger Đức và theo lời kể của em gái ông, Svetlana, sau khi trở về Moskva Vasily tiếp tục sống cuộc sống buông thả và trở thành nghiện rượu, sau đó có đi chữa bệnh tại Kaukasus rồi dọn về Kasan với người vợ thứ tư mà ông ta cưới vào năm 1962. Ông chết trong năm đó vì bệnh nghiện rượu kinh niên vào ngày 19 tháng 3, 2 ngày trước sinh nhật 41 tuổi.[264][265]

Người con gái duy nhất của ông, Swetlana Iossifowna Allilujewa (1926–2011), năm 1967 bỏ trốn sang Hoa Kỳ sống, để con cái ở lại Liên Xô. Bà có viết 4 quyển sách, trong đó có 2 cuốn hồi ký bán rất chạy.[266]

Trong cuốn sách, bà mô tả cha mình là một người đàn ông khó gần và khó tính. Bà nói với tờ Wisconsin State Journal trong một cuộc phỏng vấn hiếm hoi năm 2010: "Đối với ông ấy, không có gì là phức tạp cả. Với con cái ông ấy cũng rất đơn giản. Ông ấy yêu quý tôi, muốn tôi bên cạnh ông ấy và trở thành người được đào tạo theo chủ nghĩa Marx." Svetlana đã phải trả giá đắt cho cuộc bỏ trốn năm đó vì phải để lại hai đứa con - sinh ra từ những cuộc hôn nhân trước - ở Nga. Cả hai người con đều cảm thấy thất vọng về sự rời bỏ Tổ quốc của mẹ. Bà cũng chưa bao giờ gần gũi lại với họ.

Tính cách

Ngay từ năm 1943, Stalin đã từng nói: "Tôi biết là sau khi tôi chết sẽ có nhiều kẻ mang rác đến đổ trên mộ tôi, nhưng những cơn gió của lịch sử sẽ thổi bay những đống rác rưởi đó một cách không thương tiếc". Nhân dịp 60 năm ngày mất của Xtalin (05/03/1953), mục "Các nhân vật" của Báo "Bình luận quân sự độc lập" (Nga) đã cho đăng bài báo liệt kê một số chi tiết về Stalin:[40]

  • Trung bình mỗi ngày Stalin đọc khoảng 300 trang sách và thường xuyên tự học. Có thể đánh giá trình độ học vấn của Stalin qua số lượng sách mà ông đã đọc và nghiên cứu. Riêng tại nhà nghỉ Bliznhaia của Stalin, trong phòng đọc này có 20.000 đầu sách. Sau khi ông mất, người ta đã chuyển các quyển sách có các ghi chú của Stalin từ thư viện ở nhà nghỉ Bliznhaia cho Viện Marx-Lenin. Tổng cộng có 5.500 quyển.
  • Theo các tiêu chí hiện đại về kết quả công tác nghiên cứu khoa học thì Stalin đã có học vị tiến sĩ triết học từ năm 1920.
  • Hiệu quả làm việc của Stalin trong vai trò là nhà lãnh đạo là luôn đặt ra các mục tiêu rất dài hạn, và các giải pháp đang thực hiện (vào một thời điểm nào đó) là một phần của các kế hoạch quy mô lớn.
  • Từ năm 1930 đến 1953, cơ quan bảo vệ chỉ thấy Stalin say xỉn đúng 2 lần.
  • Những sản phẩm dư thừa của nền kinh tế do Stalin tạo ra, các kế hoạch mà ông vạch ra, những con người do ông huấn luyện (kể cả về mặt kỹ thuật và đạo đức) lỗi lạc đến mức mà sau khi Stalin mất được 35 năm, Liên Xô vẫn duy trì được vị thế siêu cường.
  • Stalin là người có vai trò quan trọng trong việc thành lập nhà nước Israel khi bỏ phiếu thông qua nghị quyết của Liên Hợp Quốc. Người Israel coi trọng ông sánh ngang với những nhà lập quốc của họ. Vào ngày mất của Stalin, chính quyền Israel đã tuyên bố quốc tang.
  • Vào năm 1927, Stalin đã ra quyết định: các nhà nghỉ ngoại ô của cán bộ đảng không được có quá 3-4 phòng.
  • Stalin đối xử rất tốt với những người bảo vệ và phục vụ. Thường xuyên mời cơm họ, một lần trông thấy lính gác bị ướt dưới trời mưa, ông đã ra lệnh xây tại đó một bốt gác. Tuy nhiên, trong công việc của họ thì Stalin không chấp nhận bất kỳ một sự lơ là nào dù nhỏ. Đối với bản thân, ông rất tiết kiệm: quần áo không có cái nào thừa, và những gì đã có thì ông dùng đến lúc hỏng không thể sửa được nữa thì mới bỏ.
  • Chiến thắng của Hồng quân tại Trận Kursk có đóng góp từ một sáng kiến của Stalin khi ông nhớ lại việc thí nghiệm bom hàng không mini PTAB và ông đã ra lệnh phải sản xuất được 800.000 quả bom như vậy trong thời gian ngắn.
  • Loại xe tăng huyền thoại T-34 của Liên Xô rất có thể đã không ra đời (các quan chức quân sự không mặn mà với các dự án này), nhưng Stalin lúc đó đã nhìn ra tiềm năng của loại xe này và đã can thiệp, cấp kinh phí và yêu cầu nhà máy Kharkov tiếp tục chế tạo và thử nghiệm. T-34 sau đó đã trở thành loại xe tăng tốt nhất của Thế Chiến 2.

Chống nạn xa xỉ trong cán bộ

Stalin rất phản đổi việc cán bộ Nhà nước sống xa xỉ so với quần chúng nhân dân.

Nhà chinh phục vùng cực, anh hùng Liên Xô Ivan Dmitrievich Papain xây được một khu nhà nghỉ ngoại ô, căn nhà sử dụng nhiều vật liệu đắt tiền. Sau khi khánh thành công trình này, ông đã mời nhiều lãnh đạo tới tham quan khu nhà này, gồm cả Stalin. Sau khi đến thăm, Stalin quyết định khu nhà nghỉ này sẽ được sung công làm nhà trẻ. Tại cuộc họp của Bộ chính trị, Stalin đã phát biểu:

Tôi mời các đồng chí phân xử vì tôi coi đây là một vấn đề mang tính nguyên tắc. Chuyện liên quan tới Papanin. Không ai làm giảm đi những đóng góp đầy tính anh hùng của đồng chí ấy. Đất nước đã đánh giá xứng đáng kỳ tích của đồng chí ấy và trao tặng danh hiệu Anh hùng.
Đồng chí ấy là lãnh đạo của cơ quan “Con đường biển phương Bắc”, và được cấp một nhà nghỉ ngoại ô theo tiêu chuẩn. Tuy nhiên, đồng chí ấy thấy thế vẫn còn là ít và đã tự xây cho mình một nhà nghỉ ngoại ô khác, nơi có thể đặt thoải mái một nhà trẻ, thứ mà chúng ta vẫn đang: thiếu.
Thế nhưng đồng chí ấy vẫn cảm thấy là ít. Đồng chí ấy muốn có đá hoa cương Hy Lạp, Italia… Thực đáng tiếc là có những Ủy viên Bộ Chính trị sẵn sàng ủng hộ đồng chí ấy. Thế thì thưa các đồng chí ủy viên Bộ Chính trị, giai cấp công nhân và nông dân sẽ nghĩ gì về chúng ta?
Tất nhiên, không thể thế được, đó là ý kiến chung của Bộ Chính trị. Tôi cũng chung ý kiến này. Tôi nghĩ, chúng ta đã hành động đúng. Không thể nào nạo tới 10 lần từ một tảng băng.

Chống thói vô kỷ luật trong quân đội

Năm 1942, phi công Leonid Khrushchev (con trai lớn của Nikita Khrushchev, phụ tá thân cận của Stalin) đã lái máy bay đào ngũ sang Đức, nhưng sau đó bị tình báo Liên Xô bắt giữ và đưa về Moskva. Stalin được báo cáo chuyện đó, và ông quyết định không giảm nhẹ hình phạt cho Leonid dù đó là con trai của phụ tá thân cận. Thư ký riêng thay mặt Stalin trả lời: “Không ai được phép đứng ngoài vòng pháp luật, nên cứ thực hiện theo quy định thời chiến là nghiêm trị tội đào ngũ”. Leonid Khrushchev phải chịu hình phạt xử bắn. Việc Stalin không giảm tội cho Leonid được xem là một trong những nguyên nhân khiến Nikita Khrushchev công kích Stalin sau khi ông qua đời[267]

Sau chiến tranh, một thượng tướng lên báo cáo với Stalin về tình hình ở Berlin. Vị thượng tướng này đã lấy riêng cho mình một số thứ ở Đức, nhưng tới trạm kiểm soát thì bị giữ lại, nên xin với Stalin cho nhận lại chúng. Stalin phê duyệt như sau:

“Trả lại cho thượng tá của nả của đồng chí ấy! Stalin.”

Vị thượng tướng nói: "Kính thưa đồng chí Stalin, ở đây có một chữ viết nhầm ạ. Tôi không phải là thượng tá mà là thượng tướng ạ!". Stalin rít tẩu thuốc và cười khẩy, nói: "Không, mọi chữ đều đúng, đồng chí thượng tá ạ!" (hàm ý rằng ông đã đánh tụt chức vụ của vị thượng tướng xuống thành thượng tá vì việc lén lấy của riêng tại Đức)

Nhận định

Cống hiến

Các thành viên Đảng Cộng sản Vương Quốc Anh mang theo ảnh của Stalin trong một cuộc diễu hành năm 2008.

Iosif Vissarionovich Stalin được xem là một trong những nhà chính trị mâu thuẫn nhất vào thế kỷ XX. Ông được xem là người có những cống hiến to lớn cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Liên Bang Xô Viết. Trong cuộc thăm dò ý kiến của 40 triệu người Nga vào năm 2008, ông đã được bình chọn là nhân vật vĩ đại thứ 3 trong lịch sử Nga, sau Đại công tước Aleksandr Yaroslavich Nevsky và Thủ tướng Pyotr Arkadyevich Stolypin. Thậm chí kết quả này còn bị Đảng Cộng sản Liên bang Nga cáo buộc là gian lận, rằng chính phủ Nga đã tìm cách ngăn cản để Stalin hoặc Lenin không giành được vị trí thứ nhất.[cần dẫn nguồn]

Trong một cuộc thăm dò khác năm 2006, trên 35% người Nga được hỏi cho biết sẽ bỏ phiếu cho Stalin nếu ông vẫn còn sống[268] Chỉ có ít hơn 1/3 người Nga cho rằng Stalin là một lãnh đạo tàn nhẫn[269] 54% thanh niên Nga cho rằng Stalin có nhiều công lao hơn là tội lỗi, một nửa cho rằng ông là một nhà lãnh đạo tài giỏi, 46% không cho rằng ông là người nhẫn tâm. 55% số người được hỏi mong muốn chính quyền Nga trả lại tên Stalingrad trước đây cho thành phố Volgograd.[270]

Năm 2013, nhân dịp 60 năm ngày Stalin qua đời, Trung tâm Levada đã khảo sát và kết quả có 49% người Nga coi Stalin có vai trò tích cực trong lịch sử, chỉ 32% coi ông có vai trò tiêu cực. Các chuyên gia đưa ra hai lý do: Một mặt, điện Kremlin đã âm thầm thúc đẩy hình ảnh của Tổng thống Vladimir Putin là một nhà lãnh đạo mạnh mẽ giống như Stalin, người đã giữ ổn định đất nước sau những hỗn loạn của việc Đế quốc Nga sụp đổ. Mặt khác, mọi người coi trọng Stalin bởi vì họ thấy ít tự hào về tình hình nước Nga kể từ sau sự sụp đổ của Liên Xô. "Nhận thức về Stalin là một cách để người Nga nhớ lại thời kỳ của những hành động tuyệt vời và cả những sự hy sinh có lẽ còn vĩ đại hơn thế" - nhà sử học Roy Medvedev, người đã viết một cuốn sách về Stalin nói[271] Ông viết[272]:

Trong thời gian lãnh đạo của Stalin, Liên Xô chuyển từ một nước lạc hậu thành một siêu cường thế giới với tiềm lực công nghiệpquân sự khổng lồ. Trong thi phú, ông được ca ngợi như "Stalin sâu thăm thẳm hơn đại dương, cao vòi vọi hơn Himalaya, sáng rực rỡ hơn mặt trời". Chính ông là người đã xóa bỏ chế độ tem phiếu lương thực vào năm 1935, nên được nhiều người biết ơn. Stalin đã cấp cho toàn bộ công dân Xô Viết được tiếp cận chăm sóc sức khoẻ và giáo dục miễn phí, nhờ đó dập tắt các dịch sốt rét, dịch tả, tuổi thọ trung bình của người Liên Xô tăng lên hàng thập kỷ. Phụ nữ Liên Xô lần đầu tiên được sinh sản trong những bệnh viện an toàn, với khả năng tiếp cận chăm sóc trước sinh. Giáo dục cũng là một ví dụ về tăng chất lượng cuộc sống. Nạn mù chữ đã được Stalin thanh toán, và thế hệ sinh ra dưới thời của Stalin là thế hệ có trình độ đại học cao đầu tiên. Các đường vận tải được cải thiện với việc nhiều tuyến đường sắt được xây dựng. Những sự kiện như khởi công xây tuyến đường xe điện ngầm tại thành phố Moskva, hay ban bố Hiến pháp của Liên bang Xô viết đều diễn ra dưới chế độ Stalin.

Được coi là một nhà lãnh đạo lỗi lạc, thời gian ông cầm quyền gắn liền với giai đoạn 1930 – 1940, một giai đoạn lớn mạnh trong lịch sử Liên Xô. Trong thời gian đó, nền văn hoá, âm nhạc, văn học,… của Liên Xô giành được nhiều thành tựu lớn lao. Không những thế, ông còn là nhân vật đóng vai trò không nhỏ trong cuộc kháng chiến của Liên Xô chống phát xít. Piter Ustinov, một chuyên gia lịch sử đã nhận xét: "Có lẽ không thể có một ai khác ngoài Stalin có thể làm được những việc như thế trong Chiến tranh: quyết liệt, mềm dẻo, nhất quán, như yêu cầu đánh thắng trong những kích cỡ phi thường như thế…".

Nhà nghiên cứu Howard K. Smith cho biết: "Stalin đã làm được nhiều việc để thay đổi thế giới trong nửa đầu của thế kỷ này hơn bất kỳ người nào khác, những người sống cùng thời đó. Ông đã tạo cho nước Nga một quyền lực to lớn, nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới... Ông đã làm thay đổi toàn bộ thái độ của phương Tây đối với người lao động". Năm 1928, Liên Xô là một quốc gia gồm phần lớn là nông dân lạc hậu, bao quanh bởi một thế giới toàn những kẻ thù. Khi Stalin qua đời, ông để lại đất nước có sức mạnh công nghiệp đứng thứ hai thế giới. Chủ nghĩa xã hội đã chuyển đổi sự nghèo đói thành những xã hội hiện đại, trong đó tất cả mọi người đều có đủ thức ăn, quần áo, và nhà ở; nơi người cao tuổi có lương hưu an toàn; và nơi mà tất cả trẻ em (và nhiều người lớn) được đi học và không ai bị từ chối chăm sóc y tế. Howard K. Smith lưu ý rằng: Tất cả các ý tưởng điều tiết nền kinh tế của chính phủ các nước phương Tây hiện đại, từ "New Deal" ở Mỹ cho tới "nhà nước phúc lợi" ở Anh, đều được phát triển trong cuộc cạnh tranh với các Kế hoạch 5 năm của Stalin[273].

Thủ tướng Winston Churchill của Anh - một người trên thực tế có ác cảm lớn với Liên Xô - cũng phải thừa nhận:[274]

Tượng đài Stalin trước tòa thị chính thành phố Gori, quê hương của ông.

Cố tổng thống Pháp, tướng Charles de Gaulle, một trong những lãnh đạo của Chiến tranh thế giới thứ hai, đánh giá cao những phẩm chất cá nhân của Stalin. Trong cuốn hồi ký chiến tranh của mình, tướng De Gaulle viết: "Stalin có một uy tín to lớn, và không chỉ riêng ở nước Nga. Ông biết "thuần hoá" kẻ thù, không hoảng hốt khi núng thế và không say sưa với thắng lợi. Mà Ông lại là người có nhiều chiến thắng hơn thất bại…".

Nguyên soái Xô-viết Georgi K. Zhukov, vị tướng lừng danh nhất của Liên Xô trong Chiến tranh thế giới thứ hai, thì hồi tưởng:

"Ông đọc rất nhiều và biết nhiều thứ trong các lĩnh vực khác nhau. Sức làm việc đáng kinh ngạc của Ông, khả năng nhanh chóng nắm bắt thông tin cho phép Ông trong một ngày xem xét và thấu hiểu một khối lượng tư liệu lớn đến mức chỉ những vĩ nhân mới có thể làm được như thế. Ông làm việc nhiều, khoảng 12 đến 15 giờ trong một ngày. Tôi đã nghiên cứu Stalin như một nhà hoạt động quân sự rất kỹ càng vì tôi đã đi cùng Ông trong suốt cuộc chiến tranh. Stalin nắm chắc các vấn đề tổ chức chiến dịch mặt trận và các chiến dịch phối hợp giữa các nhóm mặt trận, và Ông chỉ huy các chiến dịch này rất bài bản, vì biết rõ các vấn đề chiến lược lớn. Trong chỉ đạo chiến tranh nói chung, Stalin được giúp đỡ bởi trí tuệ thiên phú của Ông và một linh tính rất phong phú. Ông biết tìm ra mắt xích chủ đạo trong tình huống chiến lược và nắm lấy nó, phân tích kẻ thù, tiến hành chiến dịch tấn công lớn này hay chiến dịch tấn công lớn khác. Không có gì hoài nghi nữa, Ông là một Tổng tư lệnh tối cao xứng đáng".[275]

Có những chỉ trích từ các nước phương tây rằng chính sách công nghiệp hóa Liên Xô của Stalin quá khắc nghiệt, họ chỉ trích nó là "vô nhân đạo". Về vấn đề này, Ludo Martens cho rằng[276]:

Cho đến thời nay, di sản của Stalin vẫn chưa phai. Ông được Gennady Zyuganov - Chủ tịch Đảng Cộng sản Liên bang Nga - so sánh với "Những nhân vật vĩ đại nhất của thời kỳ Phục Hưng". Ngày 8/12/2004, trong bài viết dài kỷ niệm 125 năm Ngày sinh của Stalin, Zuganov phát biểu: "Những năm gần đây trong bối cảnh đất nước suy tàn, hỗn loạn và khủng hoảng liên tiếp, sự quan tâm của mọi người trong việc suy xét đánh giá lại Stalin ngày càng tăng. Đó là sự thật ai cũng rõ."[277] Trong cuộc họp báo ngày 14/7, ông Zyuganov đã nêu ra hàng loạt những công lao mà Stalin đã lập nên đối với nước Nga và kết luận: "Nói theo cách của Thủ tướng Anh Winston Churchill, ông Stalin đã tiếp quản nước Nga với cày chìa vôi và khi ra đi đã để lại một nước Nga có vũ khí hạt nhân". Theo ý kiến của ông, người Nga hôm nay càng đánh giá cao những công lao của Stalin khi so sánh với sự khủng hoảng mà các lãnh đạo sau này như Boris YeltsinMikhail Gorbachev đã gây ra: "Người dân so sánh, cân nhắc và dĩ nhiên là ủng hộ những ai làm tăng thêm sức mạnh cường quốc của đất nước. Ngay cả khi biết rằng trong thời gian Stalin lãnh đạo đất nước, có xảy ra những vụ việc này nọ nhưng đó không phải điều họ lưu tâm, vì họ nhìn thấy ở Stalin một người yêu nước, một nhà lãnh đạo quốc gia vĩ đại". Ông Zyuganov cũng tỏ ý tin tưởng rằng, nếu dưới sự lãnh đạo của Stalin thì nhiều vấn nạn mà người Nga đang phải chứng kiến hôm nay (tham nhũng, tội phạm có tổ chức...) sẽ không thể xảy ra vì Stalin "có thể giải quyết nhanh gọn các vấn đề như thế chỉ trong một ngày".[278]

Theo phát ngôn viên hội đồng thành phố Oryol, Olga Patenkova, các nhà lập pháp nơi đây đã thông qua một bản kiến nghị vào ngày 31 tháng 3, nội dung yêu cầu lập lại các hình ảnh của Iosif Vissarionovich Stalin.

Theo tờ Izvestia số ra ngày 14 tháng 4 năm 2005:

Nữ luật sư Larisa Tokunova sống tại vùng Viễn Đông nước Nga đã gọi Stalin là "thiên tài", người đã đưa Liên Xô trở thành một siêu cường quốc. Bà cho biết: "Nếu chúng ta muốn quản lý để chấn hưng đất nước, thì chỉ có thể tuân theo kế hoạch của Stalin". Doanh nhân Roman Fomin cho biết: "Họ không nên làm mờ nhạt những thay đổi to lớn mà đất nước đã đạt được. Chiến thắng mà Stalin có được là sự tăng trưởng kinh tế và thịnh vượng. Nhiều người mong muốn ông lại quay trở lại"[279]

Sách giáo khoa lịch sử của Nga biên soạn năm 2006 đã viết: "Stalin là nhà lãnh đạo thành công nhất của Liên Xô". Tác giả cuốn sách (Andrei Filipov) cho rằng:

Chính là trong thời gian Stalin lãnh đạo, lãnh thổ đất nước đã mở rộng, đạt tới (và ở một số nơi còn vượt qua) biên giới đế quốc Nga trước đây; giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh lớn nhất trong lịch sử loài người - chiến tranh vệ quốc vĩ đại; thực hiện công nghiệp hóa kinh tế và cách mạng văn hóa, kết quả này làm cho không những tỷ lệ dân số được tiếp nhận giáo dục tăng vọt, mà còn xác lập một thể chế giáo dục tốt nhất trên thế giới. Trong sự phát triển khoa học, Liên Xô bước vào hàng ngũ những nước tiên tiến; trên thực tế đã bỏ hiện tượng thất nghiệp".[4]

Về những biện pháp lãnh đạo khắc nghiệt và những sai lầm Stalin mắc phải, Nghị sĩ Molotov cho rằng: "Hiện nay có xu hướng ở Nga miêu tả Stalin như một người tự mãn, tự kỷ, luôn cho rằng ông nói thế nào thì mọi sự sẽ diễn ra y như thế. Làm vậy là không đúng, là vu cáo... Nếu đổ cho một mình Stalin mọi lầm lỗi như thế thì cũng có thể nói, một mình Stalin đã xây dựng thành công Chủ nghĩa Xã hội, một mình Stalin đã chiến thắng phát xít Đức... Mỗi người trong bộ máy chính trị đều có phần trách nhiệm riêng... Nói tới vai trò của Stalin trong chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại, cần thấy rằng, bản chất vấn đề không phải là ở chỗ đoán đúng hay sai ngày nổ ra chiến tranh. Bản chất vấn đề là ở chỗ, không cho Hitler vào Moskva, Leningrad hay Stalingrad. Bản chất vấn đề là ở chiến thắng chung cuộc rất vẻ vang. Và chúng ta đã làm được điều này. Trong đó có công lao to lớn của Stalin. Cần phải công bằng chứ không nên như bây giờ, đổ mọi lỗi lầm cho Stalin khi ông không còn sống nữa".[275] Nina Nesterina, quan chức chính quyền Oryol chuyên trách bảo vệ quyền lợi của các nạn nhân chính trị, nói về thái độ của mình đối với Stalin: "Stalin không thực sự phải chịu trách nhiệm về các vụ đàn áp. Theo các tài liệu chính thức, các mệnh lệnh được đưa ra bởi toà án quân sự của NKDV (tiền thân của KGB)".

Zinoviev, một chính trị gia gần như cả đời chỉ phê phán Stalin và Liên Xô, nhưng gần đây khi suy ngẫm lại ông đã nói rằng: Liên Xô có được những thành tựu vĩ đại là nhờ có được sự lãnh đạo của Stalin và Đảng CS Liên Xô. Cần phải đánh giá lại những hoạt động trấn áp của Stalin những năm 1930, việc xây dựng chế độ mới thường đi kèm với cuộc đấu tranh với các thế lực chống phá. Một đất nước rộng lớn và đa sắc tộc, tôn giáo như Liên Xô thời kỳ đó luôn tồn tại nhiều mầm mống bất ổn và chia rẽ, nên rất cần những lãnh đạo đủ tài năng và sự cứng rắn (thực tế chỉ ít lâu sau khi Liên Xô sụp đổ, các cuộc chiến tranh ly khai, xung đột sắc tộc đã nổ ra khắp nơi). Sự trấn áp của Stalin, dù rằng trong đó có rất nhiều hành vi quá mức, trên thực tế cũng đã tiêu diệt những kẻ biến chất và tiềm tàng nguy hiểm cho đất nước.

Năm 2013, khi trả lời những chỉ trích của báo chí Anh về sự cai trị cứng rắn của Stalin, tổng thống Nga Vladimir Putin đã trả lời rằng Stalin chẳng có gì tồi tệ hơn so với nhà lãnh đạo cách mạng Anh - Oliver Cromwell, cả hai đều cần sử dụng vũ lực để ổn định tình hình đất nước trong hoàn cảnh hỗn loạn. Khi đó, Cromwell là người đã lật đổ và chém đầu vua Anh, đàn áp thẳng tay những đối thủ trong nội chiến Anh cũng như giết hại hàng loạt người Thiên chúa giáo ở Ireland, đương thời ông bị nhiều người nguyền rủa, nhưng ngày nay thì ông được người Anh chọn vào danh sách 10 người vĩ đại nhất nước Anh mọi thời đại trong cuộc bình chọn của BBC năm 2002.[280], và còn được dựng tượng trước tòa nhà Quốc hội của Anh. Tổng thống Putin nói: "Sự khác biệt thực sự giữa Cromwell và Stalin là gì? Không gì cả"'.[281][282]

Bản thân Stalin cũng đoán biết trước sau khi qua đời, ông sẽ trở thành mục tiêu công kích của nhiều thế lực. Ngay từ năm 1943, ông đã nói với đồng chí của mình rằng:

"Sau khi tôi chết, sẽ có những kẻ tìm cách trút mọi thứ rác rưởi lên mộ tôi. Nhưng rồi ngọn gió của lịch sử sẽ thổi bạt tất cả những thứ rác rưởi đó đi."[283]

Chỉ trích

Bên cạnh thành công, ông bị lên án vì có những chính sách sai lầm và tệ sùng bái cá nhân. Có tài liệu còn gọi ông là "Nga hoàng Đỏ".[284] Một bộ phận người Nga xem những sai lầm cá nhân của Stalin là nguyên nhân khiến tổn thất của Liên Xô bị tăng thêm trong những năm chiến tranh.

Để đạt được những mục tiêu của mình, Stalin sử dụng các phương pháp điều hành cứng rắn, bao gồm cả khủng bố nhà nước và đại thanh trừng những thành phần chống đối, theo ước tính từ tháng 08/1937 đến tháng 10/1938, chỉ riêng trong nhà tù tại Ủy ban an ninh quốc gia, chế độ Stalin đã kết án tử hình 20.760 người, trong đó có khoảng 1.000 người lãnh đạo tôn giáo. Giáo chủ giáo phận St. Petersburg Serafin là cũng bị tử hình vào thời gian này.[cần dẫn nguồn]

Các nhà sử học được các báo chí quốc tế trích dẫn lời cho rằng dưới thời cầm quyền của Stalin, nhiều triệu người đã bị Stalin và bộ máy thanh lọc của ông cưỡng bức di cư, thẩm vấn hoặc giam giữ trong các trại lao động hoặc các nhà tù. Trong thời cải cách "Perestroika" của Michail Gorbachev, người ta đã giải mật được 1,7 triệu hồ sơ "những tên phản cách mạng" bị kết án trong giai đoạn 1937-1938, trong đó hơn 700 ngàn người bị kết án tử hình. Những người này đã được Tổng thống Nga Putin cho là: "Những người bị thảm sát, khủng bố là những con người ưu tú nhất, có trí tuệ cao nhất và là những người can đảm nhất của nước Nga và Liên Xô thời đó."[285]

Tổng thống Nga Dmitry Anatolyevich Medvedev viết trên blog của mình sáng 30 tháng 10 năm 2009, nhân dịp nước Nga kỷ niệm "Ngày Tưởng nhớ Ðàn áp Chính trị," phóng viên nhật báo Ba Lan, Gzeta Wyborcza, tại Moskva đưa tin. "Tôi tin rằng, tưởng nhớ về bi kịch của dân tộc cũng thiêng liêng như tưởng nhớ về chiến thắng. Không có lý do gì để biện giải cho sự đàn áp chính trị. Chúng ta chỉ cần nghĩ - hàng triệu người đã chết vì khủng bố cùng những cáo buộc dối trá. Cho đến ngày hôm nay, có thể thấy, những tổn thất to lớn trên được biện minh bằng những mục đích cao hơn của nhà nước. Tôi tin rằng, không có sự phát triển, sự thành công, và tham vọng nào của đất nước, có thể đạt được bằng cái giá của bi kịch và mất mát. Không gì có thể được đặt trên giá trị cuộc sống con người. Và không bất cứ sự biện minh nào cho sự đàn áp chính trị (là có thể chấp nhận được).[286]

Quy mô của đàn áp, theo như Medvedev nhắc nhở, là "không thể tưởng tượng nổi." Ðề cập đến ủy ban chống lại sự bóp méo lịch sử, được thành lập gần đó, và trực thuộc Văn phòng Tổng thống, Medvedev giải thích rằng, sự dối trá về quá khứ không chỉ là "sự cố gắng sửa lại kết cục chiến tranh", và ông cảnh cáo những người muốn xuyên tạc lịch sử. Bình luận của ông Medvedev trái ngược với trào lưu xếp Stalin vào hàng lãnh tụ có năng lực đã làm thay đổi bộ mặt của Liên bang Xô Viết. Tuy nhiên, một sử gia nghiên cứu về những vụ trấn áp của Stalin đã bị bắt sau đó. BBC cho rằng dường như đang tồn tại một sự chia rẽ rõ rệt trong giới lãnh đạo Nga về đề tài nhạy cảm này.[287]

Nhân Kỷ niệm 65 năm chiến thắng chống phát xít, Tổng thống Nga Dmitry Medvedev nói "Stalin đã phạm nhiều tội lỗi chống lại nhân dân" và "không thể tha thứ". Ông còn cho rằng thắng lợi phần lớn là nhờ sự hy sinh to lớn của nhân dân, dù vai trò lãnh đạo của Stalin cũng rất quan trọng.[288] Cũng trong bài trả lời phỏng vấn báo Izvestia ngày 7 tháng 5, ông Dmitry Medvedev nói rằng dù từng cá nhân có quyền đánh giá khác nhau về Stalin, và nhiều người ngưỡng mộ ông ta, thì quan điểm của nhà nước Nga hiện nay cho rằng chủ nghĩa Stalin không thể quay lại trên nước Nga.

Olga Ulianova - cháu gái của cựu lãnh đạo Lênin - cho rằng Stalin là người đầu tiên gây ra và chịu trách nhiệm với những chính sách sai lầm của Liên Xô. Bà nói: "Sai lầm lớn nhất là người ta bóp méo và ngụy tạo học thuyết của Lenin. Người đầu tiên làm như vậy là Stalin".

Vào ngày 30 tháng 10 năm 2017, đúng vào "Ngày Tưởng niệm các nạn nhân của đàn áp chính trị" ở Nga, Tổng thống Nga Vladimir Putin đã tham gia buổi lễ khánh thành Bức tường Đau khổ (Wall of Grief), một tượng đài ở Moscow được dựng lên để tưởng nhớ các nạn nhân của cuộc đàn áp chính trị trong giai đoạn Joseph Stalin cầm quyền. Tại buổi lễ, Putin đã phát biểu: "Đối với tất cả chúng ta, đối với các thế hệ tương lai, điều rất quan trọng là phải biết và ghi nhớ thời kỳ bi thảm này trong lịch sử nước ta, khi toàn bộ các tầng lớp, toàn bộ các dân tộc: công nhân và nông dân, kỹ sư và thuyền trưởng, linh mục, quan chức chính phủ, nhà khoa học và nhà văn hóa bị bức hại nghiêm trọng [...] "Quá khứ khủng khiếp này không thể bị xoá nhòa khỏi ký ức của quốc gia, không có bất cứ điều gì, không có lợi ích cao cả nào cho nhân dân có thể biện minh cho chuyện đó"[...] "Đàn áp chính trị là bi kịch cho tất cả nhân dân, cho toàn xã hội, đòn tàn nhẫn với đất nước chúng ta, đến tận gốc rễ, văn hóa, ý thức, khiến chúng ta phải gánh chịu hậu quả cho đến tận bây giờ" [289]

Báo chí Việt Nam và Stalin

Tràng An báo ngày 7 Tháng Ba 1939 bình luận:

Tờ báo Tràng An ngày 3 Tháng Ba 1939 (xu hướng bảo hoàng) bình phẩm xã hội Nga dưới thời Stalin: "Xã hội chủ nghĩa đã thành lập, giai cấp đã huỷ trừ, mà dân Nga vẫn còn sống trong vòng bất bình đẳng. Người thì lương bổng mỗi tháng 100 rúp, người lại đến 1000 rúp... Đời sống của ông quản lý với tên thợ quèn, ông tướng soái với một nông phu cách nhau một trời một vực thế mà dám nói xã hội chủ nghĩa đã thành lập, giai cấp đã hủy trừ... Tinh thần quốc tế phai lạt. Người ta trở lại phụng sự cho chủ nghĩa quốc gia, người ta hồi phục lại chế độ phẩm hàm huy chương chức tước. Trong quân sự người ta bài trí các đẳng cấp võ quan và tướng soái..." và báo kết luận ở Liên Xô lúc đó "xã hội chủ nghĩa vẫn chưa thành lập"[291]

Đăng trên các báo Cứu quốc, Nhân dân, Quân đội nhân dân, Sự Thật (các năm 1952-1954):

.

.

.

Xem thêm

Chú thích

  1. ^ “Nhìn lại cuộc đời nhà lãnh đạo Xô Viết Joseph Stalin”.
  2. ^ How Russia faced its dark past, BBC News (ngày 5 tháng 3 năm 2003)
  3. ^ DER TRIUMPH STALINS, Spiegel,(18 12 2007)
  4. ^ a b c Niên giám thông tin Khoa học xã hội nước ngoài, số 1, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 2010
  5. ^ "Russian youth: Stalin good, migrants must go: poll", Reuters (ngày 25 tháng 7 năm 2007)
  6. ^ "The Big Question: Why is Stalin still popular in Russia, despite the brutality of his regime? ", The Independent (ngày 14 tháng 5 năm 2008)
  7. ^ "Josef Stalin: revered and reviled in modern Russia", The Telegraph (ngày 15 tháng 6 năm 2012)
  8. ^ Montefiore 2007, tr. 12
  9. ^ "Among the Dead", MississippiReview.com”. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 3 năm 2008. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2008.
  10. ^ Ludwig, Arnold M., King of the Mountain: The Nature of Political Leadership, University Press of Kentucky, 2002, ISBN 0-8131-9068-1 tr.152
  11. ^ Montefiore 2007, tr. 61.
  12. ^ Trong tiếng Việt, tên ông cũng được viết là Xtalin hoặc Xít Ta Lin, phiên âm Hán Việt là Tư Đại Lâm.
  13. ^ Simon Sebag Montefiore (2007). “Before the terror”. The Guardian.
  14. ^ “Mục từ Xtalin I. V. trong Từ điển Bách khoa Toàn thư Việt Nam”.
  15. ^ Montefiore 2007.
  16. ^ Simon Sebag Montefiore, Young Stalin, page 262
  17. ^ Simon Sebag Montefiore, Young Stalin, page 271
  18. ^ Simon Sebag Montefiore, Young Stalin, page 272
  19. ^ Simon Sebag Montefiore, Young Stalin, page 276
  20. ^ a b Simon Sebag Montefiore. Young Stalin. 2007. ISBN 978-0-297-85068-7
  21. ^ a b c d Robert Service. Stalin: A Biography. 2004. ISBN 978-0-330-41913-0
  22. ^ Russian Civil War Encyclopaedia Britannica Online 2012
  23. ^ Simon Sebag Montefiore. Stalin: The Court of the Red Tsar, Knopf, 2004 (ISBN 1-4000-4230-5).
  24. ^ Ignatev, V. L. (2010). The Great Soviet Encyclopedia, 3rd Edition (1970-1979). The Gale Group.
  25. ^ Battle Of Warsaw 1920 by Witold Lawrynowicz; A detailed write-up, with bibliography. Polish Militaria Collectors Association. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2006.
  26. ^ Figes, Orlando (1998). A People's Tragedy: The Russian Revolution: 1891–1924. New York: Penguin Books. tr. 798–799. ISBN 0-14-024364-X.
  27. ^ Thatcher, Ian D. (2003), Trotsky, p. 122. Routledge, ISBN 0-415-23250-3
  28. ^ Lieven, Dominic C. B.; Perrie Maureen; Suny, Ronald Grigor (ed., 2006), The Cambridge History of Russia, p. 175.
  29. ^ Knight, Ami W. (1991). “Beria and the Cult of Stalin: Rewriting Transcaucasian Party History”. Soviet Studies. 43 (4): 749–763. doi:10.1080/09668139108411959.
  30. ^ Shanin, Teodor (1989). “Ethnicity in the Soviet Union: Analytical Perceptions and Political Strategies”. Comparative Studies in Society and History. 31 (3): 409–424. doi:10.1017/S0010417500015978.
  31. ^ Service, Robert (ngày 4 tháng 9 năm 2008). Stalin: A biography. Pan Macmillan. tr. 189. ISBN 978-0-330-41913-0. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2014.
  32. ^ Gilbert, Felix and Large, David Clay, The End of the European Era: 1890 to the Present, 6th edition, p. 213.
  33. ^ “Lenin under the Knife. - Surgeon Extracts a Bullet Which Troubled Him for Three Years. - View Article”. The New York Times. ngày 26 tháng 4 năm 1922. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2012.
  34. ^ The New Cambridge Modern History, Volume XII. CUP Archive. tr. 453. GGKEY:Q5W2KNWHCQB.
  35. ^ Lenin, V. I. “Modern History Sourcebook: Vladimir Illyich Lenin: Testament, 1922”. Fordham University. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2014.
  36. ^ Service, Robert (ngày 4 tháng 9 năm 2008). Stalin: A biography. Pan Macmillan. tr. 231. ISBN 978-0-330-41913-0. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2014.
  37. ^ Tranh cãi về 'Di chúc Lenin muốn loại Stalin', 16 tháng 1 năm 2018, BBC Tiếng Việt
  38. ^ Leon Trotsky, "Speech to the Thirteenth Party Congress on ngày 26 tháng 5 năm 1924" contained in The Challenge of the Left Opposition: 1923–1925, pp161-162.
  39. ^ Shauman, S. S. “Fourteenth Congress of the All-Union Communist Party Bolshevik”. The Free Dictionary. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2014.
  40. ^ a b http://baodatviet.vn/the-gioi/quan-he-quoc-te/ba-muoi-su-kien-chi-tham-khao-khong-binh-luan-ve-xtalin-2342815/
  41. ^ Service 2004, tr. 258, ch. 23
  42. ^ Service 2004, tr. 260, ch. 23
  43. ^ Service 2004, tr. 265
  44. ^ Montefiore 2003, tr. 60
  45. ^ Montefiore 2003, tr. 64
  46. ^ Service 2004, tr. 284
  47. ^ McCauley, Martin, Stalin and Stalinism, p.25, Longman Group, England, ISBN 0-582-27658-6
  48. ^ A History of the Soviet Union from Beginning to End. Kenez, Peter. Cambridge University Press, 1999.
  49. ^ Kuromiya, Hiroaki (2007) The Voices of the Dead: Stalin's Great Terror in the 1930s. Yale University Press, ISBN 0-300-12389-2 p. 2
  50. ^ Hubbard, Leonard E. (1939). The Economics of Soviet Agriculture. Macmillan and Co. tr. 117–18.
  51. ^ Viola, Peasant Rebels Under Stalin
  52. ^ Fitzpatrick (1994), tr. 234.
  53. ^ Stalin, J. V. (ngày 2 tháng 3 năm 1930 (No. 60)). “Dizzy with Success: Concerning Questions of the Collective-Farm Movement”. Pravda (bằng tiếng Nga translated by Foreign Languages Publishing House in Works, Vol. 12, pp. 197-205, Foreign Languages Publishing House: Moskva, và 1955.). Truy cập ngày 15 tháng 9 năm 2010. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |date= (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  54. ^ Fainsod (1970), tr. 541.
  55. ^ a b https://eh.net/book_reviews/the-years-of-hunger-soviet-agriculture-1931-1933/
  56. ^ a b https://sputniknews.com/politics/201510191028730561-holodomor-hoax-invented-hitler-west/ According to some estimates, during the famine of 1932-1933 about three million people died (both from famine and epidemics) in the USSR, while one third of them died in Ukraine.
  57. ^ “Ukraine's Holodomor”. The Times. UK. ngày 1 tháng 7 năm 2008. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2008.
  58. ^ “Findings of the Commission on the Ukraine Famine”. Famine Genocide. ngày 19 tháng 4 năm 1988.
  59. ^ “Statement by Pope John Paul II on the 70th anniversary of the Famine”. Skrobach. Truy cập ngày 23 tháng 8 năm 2008.
  60. ^ “Expressing the sense of the House of Representatives regarding the man-made famine that occurred in Ukraine in 1932–1933”. US House of Representatives. ngày 21 tháng 10 năm 2003. Truy cập ngày 23 tháng 8 năm 2008.
  61. ^ Bilinsky, Yaroslav (1999). “Was the Ukrainian Famine of 1932–1933 Genocide?”. Journal of Genocide Research. 1 (2): 147–156. doi:10.1080/14623529908413948.
  62. ^ Giáo trình LS kinh tế, ĐH Kinh tế quốc dân. Trang 143
  63. ^ a b c d e f g http://user.hnue.edu.vn/index.php?page=news&uid=118&news_id=877
  64. ^ Cameron, Kenneth Neill. Stalin, Man of Contradiction. Toronto: NC Press, c1987, p. 74
  65. ^ “Holodomor Hoax: Joseph Stalin's Crime That Never Took Place”. Truy cập 8 tháng 2 năm 2018.
  66. ^ “Work in Gulag”. Gulag History. Roy Rosenzweig Center for History and New Media, George Mason University. Truy cập ngày 27 tháng 9 năm 2014.
  67. ^ Tucker 1990, tr. 96.
  68. ^ Sự thật về năm 1937 ở Liên Xô. Tạp chí Nghiên cứu lịch sử. Số tháng 8/2013. Tr. 78
  69. ^ http://www.cyberussr.com/rus/trud-28zak-r.html#47-e
  70. ^ “Cyber USSR”. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2010.
  71. ^ “Cyber USSR”. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2010.
  72. ^ Lewis, Robert (1994). The Economic Transformation of the Soviet Union. Cambridge University Press. tr. 188. Đã bỏ qua tham số không rõ |editors= (gợi ý |editor=) (trợ giúp)
  73. ^ Steele, Charles N. (2002). Sustainable Development: Promoting Progress or Perpetuating Poverty? (PDF). Profile Books. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 12 tháng 3 năm 2006. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2008.
  74. ^ “Reassessing the Standard of Living in the Soviet Union” (PDF). Centre for Economic Policy Research. 2002. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 3 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2008.
  75. ^ «Энтузиазм и самоотверженность миллионов людей в годы первой пятилетки — не выдумка сталинской пропаганды, а несомненная реальность того времени». См.: Роговин В. З. Была ли альтернатива? М: Искра-Research, 1993
  76. ^ Giáo trình LS kinh tế, ĐH Kinh tế quốc dân. Trang 144
  77. ^ Родичев В. А., Родичева Г. И. Тракторы и автомобили. 2-е изд. М.: Агропромиздат, 1987
  78. ^ СССР в цифрах в 1967 году. — Bản mẫu:Указание места в библиоссылке, 1968. См. также материалы по индустриализации СССР на сайте публичной библиотеки Вадима Ершова
  79. ^ Giáo trình LS kinh tế, ĐH Kinh tế quốc dân. Trang 145
  80. ^ Schuman, Frederick L. Soviet Politics. New York: A.A. Knopf, 1946, p. 212 and 491
  81. ^ Davis, Jerome. Behind Soviet Power. New York, N. Y.: The Readers’ Press, Inc., c1946, p. 46
  82. ^ Cameron, Kenneth Neill. Stalin, Man of Mâu thuẫn. Toronto: NC Press, c1987, p. 75
  83. ^ Lewis, Robert (1994). Harrison, Mark; Davies, R.W. and Wheatcroft, S.G., ed. The Economic Transformation of the Soviet Union. Cambridge University Press. p. 188.
  84. ^ a b Колесов Н. Д. Экономический фактор победы в битве под Сталинградом // Проблемы современной экономики. 2002. № 3.
  85. ^ Harrison M., Davis R. W. The Soviet Military-Economic Effort during the Second Five-Year Plan (1933—1937) // Europe-Asia Studies. 1997. Vol. 49, No. 3. P. 369.
  86. ^ “A.Savin: "Tôi chưa từng thử thua người Mỹ". Báo Đất Việt. Truy cập 8 tháng 2 năm 2018.
  87. ^ Tucker 1990, tr. 228.
  88. ^ Acton, Edward (1995) Russia, The Tsarist and Soviet Legacy, Longmann Group Ltd, ISBN 0-582-08922-0
  89. ^ Dinkel, R.H. (1990). The Seeming Paradox of Increasing Mortality in a Highly Industrialized Nation: the Example of the Soviet Union. tr. 155–77.
  90. ^ Da Vanzo, Julie; Farnsworth, Gwen biên tập (1996), Russia's Demographic "Crisis", RAND, tr. 115–21, ISBN 0-8330-2446-9.
  91. ^ Deutscher, Isaac. Stalin; A Political Biography. New York: Oxford Univ. Press, 1967, p. 340
  92. ^ http://lounge-project.ru/sssr-stalina-chem-by-l-sssr-vedomy-j-staliny-m/
  93. ^ “Russia”. Encyclopædia Britannica Online. 2007. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2008.
  94. ^ Allen R. C. The standard of living in the Soviet Union, 1928—1940 // Univ. of British Columbia, Dept. of Economics. Discussion Paper No. 97-18. August, 1997
  95. ^ Law, David A. (1975). Russian Civilization. Ardent Media. tr. 300–1. ISBN 0-8422-0529-2.
  96. ^ “Những cuộc hôn nhân hoàng gia bất chấp khoảng cách địa vị - Một Thế giới”. Những cuộc hôn nhân hoàng gia bất chấp khoảng cách địa vị - Một Thế giới. 9 tháng 2 năm 2017. Truy cập 8 tháng 2 năm 2018.
  97. ^ “The Life and Pontificate of Pope Pius Xii”. Google Books. Truy cập 16 tháng 5 năm 2015.
  98. ^ “Pius XI, Divini Redemptoris (19/03/1937)”. Truy cập 7 tháng 2 năm 2015.
  99. ^ “CHAPTER 7”.
  100. ^ Pospielovsky, Dimitry V. (1988) A History of Soviet Atheism in Theory and Practice, and the Believer, vol 2: Soviet Anti-Religious Campaigns and Persecutions, St Martin's Press, New York p. 89
  101. ^ Yakovlev, Alexander N.; Austin, Anthony and Hollander, Paul (2002). A Century of Violence in Soviet Russia. Yale University Press. tr. 165. ISBN 978-0-300-10322-9.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  102. ^ <Pipes, Richard (2001). Communism: A History. Modern Library Chronicles. tr. 66. ISBN 0-679-64050-9.
  103. ^ Stehle, Hansjakob, The Eastern Politics of the Vatican, 1917-1979, Ohio University Press, Athens OH, 1981 ISBN 0-8214-0564-0. P 87 and P. 177
  104. ^ “Pretty Fat Turkey”, Time (magazine), ngày 27 tháng 11 năm 1933.
  105. ^ League of Nations chronology, United Nations
  106. ^ Weinberg, Gerhard (1970). The Foreign Policy of Hitler's Germany Diplomatic Revolution in Europe 1933–36. Chicago: University of Chicago Press. tr. 342–346. ISBN 0226885097.
  107. ^ S. Z. Slutch. Сталин и Гитлер, 1933—1941. Расчёты и просчёты Кремля, trang. 110
  108. ^ Goldman, Stuart D (2012). Nomonhan, 1939: The Red Army's Victory That Shaped World War II. Naval Institute Press. tr. 3. ISBN 978-1-61251-098-9.
  109. ^ “Text of the Nazi–Soviet Non-Aggression Pact”. Fordham. ngày 23 tháng 8 năm 1939. Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp)Quản lý CS1: ref=harv (liên kết).
  110. ^ Courtois, Stéphane. The Black Book of Communism: Crimes, Terror, Repression. Harvard University Press. tr. 299. ISBN 0674076087, 9780674076082 Kiểm tra giá trị |isbn=: ký tự không hợp lệ (trợ giúp). Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2014.
  111. ^ van Dijk, Ruud biên tập (2008). Encyclopedia of the Cold War. Luân Đôn. tr. 597. ISBN 978-0-415-97515-5..
  112. ^ von Geldern, James. “1943: End of the Comintern”. Seventeen Moments ò Soviet History. Macalester College. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2014.
  113. ^ Hà Thành ngọ báo, ngày 26 Tháng Mười Hai 1933, tr.1
  114. ^ Howson, Gerald (1998). Arms for Spain. New York: St. Martin's Press. tr. 125. ISBN 0-312-24177-1. OCLC 231874197.
  115. ^ Timothy Neeno, M.A. http://www.militaryhistoryonline.com/20thcentury/articles/nomonhan.aspx Nomonhan: The Second Russo-Japanese War, 2005. - Truy cập: 12 tháng 5 năm 2007.
  116. ^ Steven J. Zaloga, Howard Gerrard, The Poland 1939: the birth of Blitzkrieg, Osprey Publishing, 2002, ISBN 1841764086, Google Print, p.80
  117. ^ Gellately, Robert (2007). Lenin, Stalin, and Hitler: The Age of Social Catastrophe. Knopf. tr. 2. ISBN 1-4000-4005-1.
  118. ^ Nicolas Werth, "Case Study:The NKVD Mass Secret Operation n° 00447 (August 1937 – November 1938)", Mass Violence
  119. ^ Stalin, Joseph. Works. Moskva: Foreign Languages Pub. House, 1952, Vol. 6, p. 239-240
  120. ^ Barmine, Alexander, One Who Survived, New York: G.P. Putnam (1945), p. 252
  121. ^ Barmine, Alexander, One Who Survived, New York: G.P. Putnam (1945), p. 247-248
  122. ^ Tràng An báo số ngày 27 tháng 1 năm 1942
  123. ^ Sông Hương ngày 3 Tháng Bảy 1937
  124. ^ Snyder, Timothy (2010). Bloodlands: Europe Between Hitler and Stalin. Basic Books. tr. 103–104. ISBN ISBN 0-465-00239-0 Kiểm tra giá trị |isbn=: ký tự không hợp lệ (trợ giúp). Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2014.
  125. ^ John Earl HaynesHarvey Klehr. American Communists and Radicals Executed by Soviet Political Police and Buried at Sandarmokh (appendix to In Denial: Historians, Communism and Espionage).
  126. ^ Quinn-Judge, Sophie. Ho Chi Minh: The Missing Years, 1919-1941 (ấn bản 2002). University of California Press. tr. 207–210. ISBN 9780520235335.
  127. ^ Ellman, Michael (2005). “The Role of Leadership Perceptions and of Intent in the Soviet Famine of 1931–1934” (PDF). Europe-Asia Studies. 57 (6): 826. doi:10.1080/09668130500199392.
  128. ^ Kuromiya, Hiroaki (2007). The Voices of the Dead: Stalin's Great Terror in the 1930s. New Haven, CT: Yale University Press. tr. 2. ISBN 0-300-12389-2.
  129. ^ Allen S. Whiting and General Sheng Shicai. " Sinkiang: Pawn or Pivot? " Michigan State University Press, 1958
  130. ^ Christopher Kaplonski, Thirty thousand bullets, in: Historical Injustice and Democratic Transition in Eastern Asia and Northern Europe, London 2002, p.155-168
  131. ^ Mass grave uncovered in Mongolia RTÉ News, Thursday, ngày 12 tháng 6 năm 2003
  132. ^ “Newseum: The Commissar Vanishes”. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2008.
  133. ^ Hick, Mike. “Falsification of history”. University of Minnesota. Truy cập ngày 27 tháng 9 năm 2014.
  134. ^ Stalin-era mass grave yields tons of bones Reuters. ngày 9 tháng 6 năm 2010
  135. ^ Khlevniuk, Oleg V. (2008). Master of the House: Stalin and His Inner Circle. Yale University Press. tr. xix. ISBN 0-300-11066-9. ... các lý thuyết về tính chất tự phát của khủng bố, về một sự mất kiểm soát của trung ương trong quá trình thanh trừng và về vai trò của các nhà lãnh đạo khu vực đơn giản là không được các ghi chép lịch sử hỗ trợ.
  136. ^ Marc Jansen, Nikita Vasilʹevich Petrov. Stalin's Loyal Executioner: People's Commissar Nikolai Ezhov, 1895-1940. Hoover Institution Press, 2002. ISBN 0-8179-2902-9 p. 111
  137. ^ Michael Ellman, Stalin and the Soviet Famine of 1932–33 Revisited Europe-Asia Studies, Routledge. Vol. 59, No. 4, June 2007, 663–693. PDF file
  138. ^ Snyder, Timothy. Bloodlands: Europe Between Hitler and Stalin. Basic Books, 2010. ISBN 0-465-00239-0 p. 137
  139. ^ "Stalin war ein psychopathischer Gewalttäter", deutschlandradiokultur, 29.2.2012
  140. ^ Knightley, Phillip. The First Casualty. New York: Harcourt Brace Jovanovich, 1975, p. 264
  141. ^ Conquest, Robert (1997). “Victims of Stalinism: A Comment”. Europe-Asia Studies. 49 (7): 1317–1319. doi:10.1080/09668139708412501. Chú thích có tham số trống không rõ: |1= (trợ giúp)
  142. ^ Bullock 1962, tr. 904–906.
  143. ^ a b Boobbyer 2000, tr. 130.
  144. ^ Pohl, Otto, Ethnic Cleansing in the USSR, 1937–1949, ISBN 0-313-30921-3
  145. ^ “Soviet Transit, Camp, and Deportation Death Rates”. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2010.
  146. ^ Kaiser, arrel Philip (2008). Emigration to and from the German-Russian Volga Colonies. Lulu.com, 2008. tr. 105. ISBN 978061517010 Kiểm tra giá trị |isbn=: số con số (trợ giúp). Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2014.
  147. ^ “Crimean Tatars Call On International Community To Support Their Right To Self-Determination”. Unrepresented Nations and Peoples Organization. Mejlis of the Crimean Tatar People. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2014.
  148. ^ Gessen, Masha. “What drives the separatists to commit such terrible outrages?”. Slate. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2014.
  149. ^ Stalin, Joseph. Stalin’s Kampf. New York: Howell, Soskin & Company, c1940, p. 196
  150. ^ Littlepage, John D. In Search of Soviet Gold. New York: Harcourt, Brace, c1938, p. 107
  151. ^ Snow, Edgar. The Pattern of Soviet Power, New York: Random House, 1945, p. 162
  152. ^ Littlepage, John D. In Search of Soviet Gold. New York: Harcourt, Brace, c1938, p. 256-259
  153. ^ Graeme Gill, "The Soviet Leader Cult: Reflections on the Structure of Leadership in the Soviet Union", British Journal of Political Science 10 (1980): 167.
  154. ^ Father of Nations tại the Encyclopedic dictionary of catchy words and phrases.
  155. ^ Ennker, "The Stalin Cult", 88.
  156. ^ Gill, "The Soviet Leader Cult", 168.
  157. ^ Bonnell, The Iconography of Power, 158.
  158. ^ Gill, "The Soviet Leader Cult", 169.
  159. ^ Victoria E. Bonnell, The Iconography of Power: Soviet Political Posters Under Lenin and Stalin (Berkeley: University of California Press, 1999), 165.
  160. ^ Catriona Kelly, "Riding the Magic Carpet: Children and the Leader Cult in the Stalin Era", The Slavic and East European Journal 49 (2005): 206–207.
  161. ^ Benno Ennker, "The Stalin Cult, Bolshevik Rule and Kremlin Interactions in the 1930s", in The Leader Cult in Communist Dictatorship: Stalin and the Eastern Bloc, ed. Balázs Apor et al. (New York: Palgrave Macmillan, 2004), 85.
  162. ^ Kelly, "Riding the Magic Carpet", 208.
  163. ^ Tucker, Stalin in Power, 155.
  164. ^ Catriona Kelly, "Riding the Magic Carpet", 202.
  165. ^ Avidenko, A. O. Halsall, Paul (biên tập). “Hymn to Stalin”. Internet Modern History Sourcebook. Fordham University, 1997. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2012.
  166. ^ Chi tiết cuối dường như đã được nhà thơ Việt Nam Tố Hữu sử dụng lại trong bài "Stalin! Stalin!" (1953): "Yêu biết mấy nghe con tập nói/Tiếng đầu lòng con gọi Sta-lin!"BBC Tiếng Việt http://www.bbc.co.uk/vietnamese/forum/story/2007/10/071031_stalinbytohuu.shtml. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2014. |title= trống hay bị thiếu (trợ giúp)
  167. ^ Davies, "Making of the Leader Cult", 37–38.
  168. ^ a b Davies, "Making of the Leader Cult", 41.
  169. ^ Arvo Tuominen, The Bells of the Kremlin, ed. Piltti Heiskanen, trans. Lily Leino (Hanover: University Press of New England, 1983), 162.
  170. ^ Levinson, Martin H. (2009). When Good Things Happen to Bad People. iUniverse. tr. 58. ISBN 9781440120121. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2014.
  171. ^ Sarah Davies, "Stalin and the Making of the Leader Cult in the 1930s", in The Leader Cult in Communist Dictatorship: Stalin and the Eastern Bloc, ed. Balázs Apor et al. (New York: Palgrave Macmillan, 2004), 30–31.
  172. ^ Оценка советским руководством событий Второй мировой войны в 1939-1941 гг. Bảng này do tác gủa Meltyukhov viết ra, dựa theo các nguồn: История второй мировой войны. Т. 4. С. 18; 50 лет Вооруженных Сил СССР. М., 1968. С. 201; Советская военная энциклопедия. T. I. M., 1976, С. 56; Боевой и численный состав Вооруженных Сил СССР в период Великой Отечественной войны (1941–1945 гг.). Статистический сборник № 1 (22 июня 1941 г.). М., 1994. С. 10–12; РГАСПИ. Ф. 71. Оп. 25. Д. 4134. Л. 1–8; Д. 5139. Л. 1; РГВА. Ф. 29. Оп. 46. Д. 272. Л. 20–21; учтены пограничные и внутренние войска: Пограничные войска СССР в годы Второй мировой войны, 1939–1945. М., 1995. С. 390–400; РГВА. Ф. 38261. Оп. 1. Д. 255. Л. 175–177, 340–349; Ф. 38650. Оп. 1. Д. 617. Л. 258–260; Ф. 38262. Оп. 1, Д. 41. Л. 83–84; РГАЭ. Ф. 1562. Оп. 329. Д. 277. Л. 1–46, 62, 139; Д. 282. Л. 3–44.
  173. ^ a b Zhukov, Nhớ lại và suy nghĩ chương 9
  174. ^ Bộ ngoại giao Liên Xô. Tư liệu văn kiện thời kỳ trước Chiến tranh thế giới thứ hai. Nhà xuất bản Ngoại văn. Moskva. 1948. trang 92.
  175. ^ Hạ nghị viện Anh. Tư liệu những cuộc tranh luận tại nghị viện ngày 22 tháng 2. Luân Đôn. 1938. trang 227, 332.
  176. ^ Lê văn Quang, Lịch sử quan hệ quốc tế từ 1917 đến 1945, Nhà xuất bản Giáo dục, 2003, trang 157
  177. ^ William Shirer. Sự hưng thịnh và suy tàn của đế chế thứ ba.
  178. ^ Roberts 1992, tr. 57–78.
  179. ^ Roberts 2006, tr. 43.
  180. ^ Sanford, George (2005). Katyn and the Soviet Massacre of 1940: Truth, Justice And Memory. Luân Đôn, New York: Routledge. ISBN 0-415-33873-5.
  181. ^ Wettig 2008, tr. 20.
  182. ^ Werth, Nicholas; Kramer, Mark (ngày 15 tháng 10 năm 1999). “Một quốc gia chống lại nhân dân: bạo lực, đàn án và khủng bố tại Liên bang Xô viết”. Trong Stéphane Courtois (biên tập). Livre noir du Communisme: crimes, terreur, répression. Harvard University Press. tr. 208. ISBN 9780674076082. Truy cập 16 tháng 6 năm 2011. Chú thích có tham số trống không rõ: |month= (trợ giúp)
  183. ^ a b c Kużniar-Plota, Małgorzata (ngày 30 tháng 11 năm 2004). “Decision to commence investigation into Katyn Massacre”. Departmental Commission for the Prosecution of Crimes against the Polish Nation. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2011.
  184. ^ a b c Rieber, Alfred J. (2000). Forced migration in Central and Eastern Europe, 1939-1950. Psychology Press. tr. 31–33. ISBN 978-0-7146-5132-3. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2011.
  185. ^ (tiếng Nga)Meltiukhov, Mikhail. “Отчёт Украинского и Белорусского фронтов Красной Армии”. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2011.
  186. ^ Sanford, George (2005). Katyn and the Soviet massacre of 1940: truth, justice and memory. Psychology Press. tr. 44. ISBN 978-0-415-33873-8. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2011.
  187. ^ a b Simon-Dubnow-Institut für Jüdische Geschichte und Kultur (2007). Shared history, divided memory: Jews and others in Soviet-occupied Poland, 1939-1941. Leipziger Universitätsverlag. tr. 180. ISBN 978-3-86583-240-5. Truy cập 19 tháng 5 năm 2011.
  188. ^ (tiếng Ba Lan) “Ustawa z dnia 9 kwietnia 1938 r. o powszechnym obowiązku wojskowym (Act of ngày 9 tháng 4 năm 1938, on Compulsory Military Duty)”. Dziennik Ustaw. 25 (220). 1938.
  189. ^ Piotrowski, Tadeusz (tháng 9 năm 2007). The Polish Deportees of World War II: Recollections of Removal to the Soviet Union and Dispersal Throughout the World. McFarland. tr. 4. ISBN 978-0-7864-3258-5. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2011.
  190. ^ a b c “Duma Nga lên án Stalin vì vụ Katyn”. BBC. 26 tháng 11 năm 2010.
  191. ^ Điện báo được gửi bởi Schulenburg, đại sứ Đức tại Liên Xô, từ Moskva đến Văn phòng đối ngoại Đức: No. 317 ngày 10 tháng 9 năm 1939, No. 371 ngày 16 tháng 9 năm 1939, No. 372 ngày 17 tháng 9 1939. Dự án Avalon, Trường Luật Yale. Truy cập ngày 14 tháng 11 2006.
  192. ^ (tiếng Ba Lan) 1939 wrzesień 17, Moskwa Nota rządu sowieckiego nie przyjęta przez ambasadora Wacława Grzybowskiego (Công hàm của chính phủ Liên Xô gửi cho chính phủ Ba Lan ngày 17 tháng 9 năm 1939, bị từ chối bởi đại sứ Ba Lan Wacław Grzybowski). Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2006; Degras, pp. 37–45. Extracts from Molotov's speech on Wikiquote.
  193. ^ Rieber, p 29.
  194. ^ Wettig 2008, tr. 20–21.
  195. ^ Senn, Alfred Erich, Lithuania 1940: revolution from above, Amsterdam, New York, Rodopi, 2007 ISBN 978-90-420-2225-6
  196. ^ Montefiore 2004, tr. 334.
  197. ^ a b Kennedy-Pipe, Caroline, Stalin's Cold War, New York: Manchester University Press, 1995, ISBN 0-7190-4201-1
  198. ^ Albert L. Weeks, Assured Victory: How "Stalin the Great" Won the War, But Lost the Peace, các trang 8-9.
  199. ^ Roberts 2006, tr. 53.
  200. ^ Brackman 2001, tr. 341.
  201. ^ Roberts 2006, tr. 58.
  202. ^ Brackman 2001, tr. 341, 343.
  203. ^ Roberts 2006, tr. 59.
  204. ^ Roberts 2006, tr. 63.
  205. ^ Shirer, tr. 778
  206. ^ J. Roberts. Khu vực ảnh hưởng và chính sách đối ngoại của Liên Xô năm 1939-1945. Hệ tư tưởng, nhữung tính toán và sự ngẫu hứng. (Дж. Робертс. Сферы влияния и советская внешняя политика в 1939—1945 гг. идеология, расчет и импровизация)
  207. ^ Service 2004, tr. 410–411; Roberts 2006, tr. 82; Khlevniuk 2015, tr. 198.
  208. ^ Service 2004, tr. 411–412; Roberts 2006, tr. 67; Khlevniuk 2015, tr. 199–200, 202.
  209. ^ Service 2004, tr. 414–415; Khlevniuk 2015, tr. 206–207.
  210. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t u v w Service 2004.
  211. ^ Service 2004, tr. 417; Khlevniuk 2015, tr. 201–202.
  212. ^ Conquest 1991, tr. 235; Service 2004, tr. 416.
  213. ^ Conquest 1991, tr. 248; Service 2004, tr. 420; Khlevniuk 2015, tr. 214.
  214. ^ Conquest 1991, tr. 248–249; Service 2004, tr. 420; Khlevniuk 2015, tr. 214–215.
  215. ^ Service 2004, tr. 421, 424; Khlevniuk 2015, tr. 220.
  216. ^ Service 2004, tr. 482; Roberts 2006, tr. 90.
  217. ^ Gellately 2007.
  218. ^ Conquest 1991, tr. 239–240; Roberts 2006, tr. 98; Khlevniuk 2015, tr. 209.
  219. ^ Conquest 1991, tr. 241–242; Service 2004, tr. 521.
  220. ^ Overy 2004.
  221. ^ a b c Khlevniuk 2015.
  222. ^ Service 2004, tr. 442–443; Khlevniuk 2015, tr. 242−243.
  223. ^ Conquest 1991, tr. 260; Service 2004, tr. 444.
  224. ^ Conquest 1991, tr. 254; Service 2004, tr. 424; Khlevniuk 2015, tr. 221–222.
  225. ^ a b c d e Roberts 2006.
  226. ^ Conquest 1991, tr. 255; Roberts 2006, tr. 156; Khlevniuk 2015, tr. 227.
  227. ^ Conquest 1991, tr. 317; Service 2004, tr. 466.
  228. ^ Conquest 1991, tr. 252; Service 2004, tr. 460; Khlevniuk 2015.
  229. ^ Conquest 1991, tr. 262; Service 2004, tr. 460; Roberts 2006, tr. 180; Khlevniuk 2015, tr. 229–230.
  230. ^ Conquest 1991, tr. 244, 251; Service 2004, tr. 461, 469; Roberts 2006, tr. 185; Khlevniuk 2015, tr. 223, 229.
  231. ^ Service 2004, tr. 464–465; Khlevniuk 2015, tr. 244.
  232. ^ Service 2004, tr. 469; Roberts 2006, tr. 199–201.
  233. ^ Conquest 1991, tr. 258; Service 2004, tr. 492; Khlevniuk 2015, tr. 232–233.
  234. ^ Conquest 1991, tr. 264; Service 2004, tr. 465; Khlevniuk 2015, tr. 244.
  235. ^ Service 2004, tr. 471–472; Khlevniuk 2015, tr. 244.
  236. ^ Service 2004, tr. 474; Khlevniuk 2015, tr. 247.
  237. ^ "Lời kể về "Bức tường Sắt" của Churchill", tác giả James W. Muller. 1999. tr. 1–8. ISBN 0826212476. Đã bỏ qua tham số không rõ |Nhà xuất bản= (gợi ý |nhà xuất bản=) (trợ giúp)
  238. ^ "Điều chúng ta biết: Suy nghĩ về lịch sử Chiến tranh Lạnh", tác giả John Lewis Gaddis, Nhà xuất bản Đại học Oxford năm 1998, ISBN 0198780710
  239. ^ ngày 11 tháng 2 năm 1945 Potsdam Report, reprinted in Potsdam Ashley, John, Soames Grenville and Bernard Wasserstein, The Major International Treaties of the Twentieth Century: A History and Guide with Texts, Taylor & Francis, 2001 ISBN 0-415-23798-X
  240. ^ David Curp, Boydell & Brewer (2006). Một cuộc thành trừng?: Hành động chính trị thay máu dân tộc ở Tây Ba Lan. 1945-1960. tr. 66–69. ISBN 1580462383.
  241. ^ "Poland". Encyclopædia Britannica Online. Encyclopædia Britannica. 2007. Truy cập 7 tháng 4 năm 2007.
  242. ^ Tom Buchanan (2005). Hòa bình hỗn loạn tại châu Âu, 1945–2000: 1945–2000. tr. 84. ISBN 0631221638. Đã bỏ qua tham số không rõ |Nhà xuất bản= (gợi ý |nhà xuất bản=) (trợ giúp)
  243. ^ Tóm tắt lịch sử Ba Lan: Chương 13: Những năm hậu chiến, 1945-1990. Polonia Today Online. Truy lục ngày 28 tháng 3 năm 2007. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |date= (trợ giúp)
  244. ^ “Ba Lan – Khung cảnh Lịch sử: Chương 6: Cộng hòa Nhân dân Ba Lan”. Trung tâm Học viện Thông tin Ba Lan, Đại học Buffalo. Truy cập 14 tháng 3 năm 2007.
  245. ^ Peter Hanak F. Sugar và Tibor Frank (1994). "Lịch sử Hungary". tr. 375–77. ISBN 025320867X. Đã bỏ qua tham số không rõ |Nhà xuất bản= (gợi ý |nhà xuất bản=) (trợ giúp)
  246. ^ "Bùng nổ: Cuộc Cách mạng Hungary năm 1956" của John P. C. Matthews, Nhà xuất bản Hippocrene Books năm 2007, ISBN 0781811740, trang 93–4
  247. ^ Helmut David Baer (2006). "Cuộc đấu tranh của người Hungary dòng Luther dưới thời Cộng sản". tr. 16. ISBN 1585444804. Đã bỏ qua tham số không rõ |Nhà xuất bản= (gợi ý |nhà xuất bản=) (trợ giúp)
  248. ^ Johanna Granville (2004). "Hiệu ứng Domino đầu tiên: Quyết định quốc tế trong cuộc khủng hoảng Hungary năm 1956". ISBN 1-58544-298-4. Đã bỏ qua tham số không rõ |Nhà xuất bản= (gợi ý |nhà xuất bản=) (trợ giúp)
  249. ^ a b Granville, Johanna, The First Domino: International Decision Making during the Hungarian Crisis of 1956, Texas A&M University Press, 2004. ISBN 1-58544-298-4
  250. ^ Charles Gati (2006). "Ảo ảnh thất bại: Max-cơ-va, Oa-sing-tơn, Bu-đa-bet và cuộc cách mạng Hungary 1956". tr. 9–12. ISBN 0804756066. Đã bỏ qua tham số không rõ |Nhà xuất bản= (gợi ý |nhà xuất bản=) (trợ giúp)
  251. ^ Wettig 2008
  252. ^ Phụ lục B: Hội đồng Tương trợ Kinh tế. Đông Đức: Thư viện nghiên cứu Quốc gia.
  253. ^ Bideleux & Jeffries 1998
  254. ^ Stokesbury, James L (1990). Trích đoạn lịch sử Chiến tranh Triều Tiên. New York: Harper Perennial. ISBN 0688095135.
  255. ^ Vnexpress - Putin: "Quan hệ Việt - Nga phát triển thành công"
  256. ^ Để hiểu thêm Tố Hữu, www.bbc.com, 14.8.2014
  257. ^ HỒI KÝ KHRUSEV , Nguyễn Học (dịch từ bản tiếng Nga), tusachnghiencuu, tr. 18
  258. ^ “Bức thư bí mật Stalin gửi thầy giáo của con trai”. Báo Điện tử Tiền Phong. Truy cập 4 tháng 10 năm 2015.
  259. ^ “Historical Notes: The Death of Stalin's Son”. Time. ngày 1 tháng 3 năm 1968. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2010.
  260. ^  Schieß doch. In: Der Spiegel. Nr. 9, 1969, S. 74-75 (online).
  261. ^  Thomas Cushing: Stalins Sohn fühlte sich verstoßen. In: Der Spiegel. Nr. 13, 1968, S. 92–95 (online).
  262. ^ a b 20 letters to a friend, Life, tr.103
  263. ^ http://antg.cand.com.vn/vi-vn/tulieu/2014/1/82280.cand
  264. ^ Wassilij J. Stalin, Munzinger, Archiv, Ravensburg
  265. ^ 20 letters to a friend, Life, tr.104
  266. ^ “Stalin's daughter Lana Peters dies in US of cancer”. BBC News. ngày 28 tháng 11 năm 2011.
  267. ^ Giải mật "vụ mất tích bí ẩn" của con trai Nikita Khrushchev, 20/03/2016, Báo Dân trí
  268. ^ Walker, Shaun (14 tháng 5 năm 2008). “The Big Question: Why is Stalin still popular in Russia, despite the brutality of his regime?”. The Independent (UK). Truy cập 23 tháng 8 năm 2008.
  269. ^ Angus Roxburgh (5 tháng 3 năm 2003). “How Russia faced its dark past”. BBC.
  270. ^ “Russian Youth: Stalin good, migrants must go: Poll”.
  271. ^ “Sixty years after death, Stalin turning hero for Russians”. The Hindu. Truy cập 7 tháng 2 năm 2015.
  272. ^ Roy Medvedev, “Stalin Lives,” Project Syndicate, 29/03/2005
  273. ^ Strong, Anna Louise. The Stalin Era. New York: Mainstream, 1956, p. 117
  274. ^ “Lãnh tụ Xôviết J. Stalain: vẫn là một biểu tượng”. CAND.com. 13 tháng 3 năm 2008.
  275. ^ a b “Nước Nga lại tôn vinh lãnh tụ Stalin”. CAND.com. 19 tháng 3 năm 2010.
  276. ^ Martens, Ludo. Another View of Stalin. Antwerp, Belgium: EPO, Lange Pastoorstraat 25-27 2600, p. 43
  277. ^ “7”. Loạt bài "Bài học từ sự sụp đổ của Liên Xô". của báo Nhân dân. Đã bỏ qua tham số không rõ |chương tên= (trợ giúp)
  278. ^ “Những biểu tượng quốc gia”. CAND.com. 7 tháng 8 năm 2012.
  279. ^ “Stalin - 'Di sản' đầy tranh cãi của nước Nga”. infonet.vn. 6 tháng 3 năm 2013. Truy cập 7 tháng 2 năm 2015.
  280. ^ BBC NEWS | Entertainment | TV and Radio | Ten greatest Britons chosen
  281. ^ The Independent (20 tháng 12 năm 2013). “Vladimir Putin: Soviet leader Joseph Stalin was no worse than Oliver”. The Independent. Truy cập 8 tháng 2 năm 2018.
  282. ^ “Vladimir Putin press conference: Joseph Stalin v Oliver Cromwell”. Telegraph.co.uk. 19 tháng 12 năm 2013. Truy cập 8 tháng 2 năm 2018.
  283. ^ “Chân dung nhìn gần của lãnh tụ Xô Viết Stalin: Ngọn gió lịch sử thổi bạt mọi dối trá”. CAND.com. 7 tháng 8 năm 2012.
  284. ^ Leopold Labedz. The Use and Abuse of Sovietology. tr. 67.
  285. ^ [http://www.bbc.co.uk/vietnamese/forum/story/2007/10/071031_putinrussianmemorial.shtml%7Ctitle=Nga tưởng niệm các nạn nhân của chế độ Stalin|publisher=BBC|date=31 tháng 10 năm 2007}}
  286. ^ “Medvedev's Condemnation of Stalin Cult Should be Applauded”.
  287. ^ Medvedev chỉ trích phe bênh vực Stalin “Medvedev chỉ trích phe bênh vực Stalin” Kiểm tra giá trị |url= (trợ giúp). BBC. 31 tháng 10 năm 2009.
  288. ^ “Интервью Дмитрия Медведева газете "Известия". 7 tháng 5 năm 2010.
  289. ^ http://en.kremlin.ru/events/president/news/55948
  290. ^ Tràng An báo ngày 7 Tháng Ba 1939
  291. ^ Tràng An báo ngày 3 Tháng Ba 1939
  292. ^ Sự Thật ngày 6 Tháng Một 1950 (báo của Hội nghiên cứu Chủ nghĩa Mác ở Đông Dương)
  293. ^ Sự Thật 15 Tháng Sáu 1946
  294. ^ Báo Cứu Quốc ngày 15 Tháng Mười 1952 dẫn lại báo Sự thật ở Liên Xô
  295. ^ Cứu quốc 21 Tháng Mười 1952
  296. ^ Cứu Quốc 3 Tháng Mười 1952
  297. ^ a b c d e f Nhân dân ngày 1 Tháng Ba 1954
  298. ^ Quân đội Nhân dân ngày 3 Tháng Ba 1954
  299. ^ Diễn văn Tôn Đức Thắng trên báo Cứu Quốc ngày 22 Tháng Một 1954
  300. ^ Báo Cứu Quốc ngày 18 Tháng Một 1952
  301. ^ Mao Thuẫn, Sự Thật 6 Tháng Một 1950
  302. ^ Cứu Quốc 23 Tháng Mười Hai 1952
  303. ^ Nhân dân 1 Tháng Ba 1954
  304. ^ Báo Cứu Quốc 21 Tháng Sáu 1952
  305. ^ Sự Thật 25 Tháng Một 1950
  306. ^ Cứu Quốc 8 Tháng Tư 1952

Tham khảo

Đọc thêm

Liên kết ngoài

Video