Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Đội tuyển bóng đá quốc gia Việt Nam”
n Đã lùi lại sửa đổi của 222.252.32.55 (Thảo luận) quay về phiên bản cuối của Tuanminh01 Thẻ: Lùi tất cả |
Không có tóm lược sửa đổi |
||
Dòng 53: | Dòng 53: | ||
'''Đội tuyển bóng đá quốc gia Việt Nam''' là [[Danh sách các đội tuyển bóng đá nam quốc gia|đội tuyển bóng đá nam quốc gia]] đại diện cho [[Việt Nam]] tham dự các giải đấu [[Thể thao|môn thể thao]] [[Bóng đá|bóng đá nam]] quốc tế và được [[Liên đoàn bóng đá Việt Nam]] (VFF) quản lý. |
'''Đội tuyển bóng đá quốc gia Việt Nam''' là [[Danh sách các đội tuyển bóng đá nam quốc gia|đội tuyển bóng đá nam quốc gia]] đại diện cho [[Việt Nam]] tham dự các giải đấu [[Thể thao|môn thể thao]] [[Bóng đá|bóng đá nam]] quốc tế và được [[Liên đoàn bóng đá Việt Nam]] (VFF) quản lý. |
||
Thời điểm [[Việt Nam]] bị chia cắt thành |
Thời điểm [[Việt Nam]] bị chia cắt thành 2 nhà nước ở 2 miền, có hai đội bóng tự nhận là đội tuyển bóng đá quốc gia tồn tại ở mỗi miền và cả hai đều được kiểm soát bởi các ''Hiệp hội bóng đá Việt Nam'' tương ứng. Vào cuối những năm 1950, [[Đội tuyển bóng đá quốc gia Việt Nam Cộng hòa]], là một trong bốn đội tiến vào vòng chung kết [[Cúp bóng đá châu Á 1956]] và [[Cúp bóng đá châu Á 1960]], đứng hạng tư cả hai lần. Đội cũng đã vô địch [[Giải bóng đá Merdeka|Giải Merdeka]] lần thứ 10 tại Malaysia năm 1966. Sau khi Việt Nam thống nhất năm 1976, ''Hiệp hội bóng đá Việt Nam'' được đổi tên thành [[Liên đoàn bóng đá Việt Nam]]. |
||
Do những sự kiện lịch sử xảy ra ở nước này trong suốt thế kỷ 20 (đa phần là [[chiến tranh]]), với [[Chiến dịch Đông Dương (1940)|sự chiếm đóng của Nhật Bản ở Đông Dương]], [[Chiến tranh Đông Dương]], [[Chiến tranh Việt Nam]], [[Chiến tranh biên giới Việt–Trung 1979|Chiến tranh biên giới Việt–Trung]], [[Chiến tranh biên giới Tây Nam]], [[Xung đột Thái Lan-Việt Nam (1979-1989)|xung đột với Thái Lan]], bóng đá Việt Nam có thể được coi là vẫn còn rất sơ khai và chưa được biết đến trên toàn cầu. Mặc dù vậy, Việt Nam ngày càng được chú ý vì là một đội bóng có tinh thần mạnh mẽ, với thành tích vị trí thứ 4 vào năm 1956 và 1960 tại Asian Cup với tư cách Việt Nam Cộng hòa; và mặc dù đội chỉ tham gia hai kỳ Asian Cup vào năm [[Cúp bóng đá châu Á 2007|2007]] và [[Cúp bóng đá châu Á 2019|2019]] với tư cách là một quốc gia thống nhất, đội bóng đã trở thành đội đại diện đến từ Đông Nam Á có thành tích tốt nhất trong cả hai lần, đều lọt vào tứ kết. |
Do những sự kiện lịch sử xảy ra ở nước này trong suốt thế kỷ 20 (đa phần là [[chiến tranh]]), với [[Chiến dịch Đông Dương (1940)|sự chiếm đóng của Nhật Bản ở Đông Dương]], [[Chiến tranh Đông Dương]], [[Chiến tranh Việt Nam]], [[Chiến tranh biên giới Việt–Trung 1979|Chiến tranh biên giới Việt–Trung]], [[Chiến tranh biên giới Tây Nam]], [[Xung đột Thái Lan-Việt Nam (1979-1989)|xung đột với Thái Lan]], bóng đá Việt Nam có thể được coi là vẫn còn rất sơ khai và chưa được biết đến trên toàn cầu. Mặc dù vậy, Việt Nam ngày càng được chú ý vì là một đội bóng có tinh thần mạnh mẽ, với thành tích vị trí thứ 4 vào năm 1956 và 1960 tại Asian Cup với tư cách Việt Nam Cộng hòa; và mặc dù đội chỉ tham gia hai kỳ Asian Cup vào năm [[Cúp bóng đá châu Á 2007|2007]] và [[Cúp bóng đá châu Á 2019|2019]] với tư cách là một quốc gia thống nhất, đội bóng đã trở thành đội đại diện đến từ Đông Nam Á có thành tích tốt nhất trong cả hai lần, đều lọt vào tứ kết. |
||
Dòng 64: | Dòng 64: | ||
{{chính|Bóng đá tại Việt Nam}} |
{{chính|Bóng đá tại Việt Nam}} |
||
[[File:Early Vietnamese football with French officials, Championat Cochinchine.jpg|thumb|left|Bóng đá Việt Nam thời kỳ đầu với các cầu thủ Việt và Pháp trong giải Championat Cochinchine, {{circa|1922–23}}.]] |
[[File:Early Vietnamese football with French officials, Championat Cochinchine.jpg|thumb|left|Bóng đá Việt Nam thời kỳ đầu với các cầu thủ Việt và Pháp trong giải Championat Cochinchine, {{circa|1922–23}}.]] |
||
Sự ra đời của [[bóng đá tại Việt Nam]] bắt đầu từ năm 1896 trong thời [[Pháp thuộc|thuộc địa Pháp]]. Ở giai đoạn đầu, môn thể thao này chỉ được chơi giữa các công chức, thương nhân và binh lính [[Pháp]]. Người [[Pháp]] sau đó khuyến khích người Việt địa phương chơi bóng đá và một số môn [[thể thao]] khác được giới thiệu cho họ để chuyển sự quan tâm của họ khỏi chính trị, dẫn đến môn thể thao này được lan truyền sang các khu vực khác, chủ yếu là [[Miền Bắc Việt Nam|miền Bắc]] và [[Miền Trung Việt Nam|miền Trung]]. Ngày 20 tháng 7 năm 1908, tờ ''[[Lục tỉnh Tân văn]]'' đưa tin trận cầu giữa hai đội bóng thuần cầu thủ người Việt đã được diễn ra. Đến năm 1928, một số người đứng ra thành lập [[Tổng cục Thể thao An Nam]] tại [[Sài Gòn]], cùng trong năm ấy cử một đội bóng Việt Nam sang thi đấu ở [[Singapore]].<ref>{{Chú thích web |url =http://vietnamnet.vn/thuhanoi/2008/12/821171/ |tác giả 1 =[[Dương Trung Quốc]] |tiêu đề =Một Trăm năm bóng đá Việt Nam |ngày truy cập =ngày 8 tháng 2 năm 2009 |nhà xuất bản =[[Vietnamnet]]}}</ref> Nhiều câu lạc bộ bóng đá địa phương sau đó được thành lập ở cả [[Miền Bắc Việt Nam|miền Bắc]] và [[Miền Nam Việt Nam|miền Nam]], mặc dù vậy phải đến sau Thế chiến II, các câu lạc bộ bóng đá trong khu vực mới bắt đầu trở nên có tổ chức hơn. Cùng thời gian đó Việt Nam chơi [[trận đấu quốc tế]] đầu tiên trước đội tuyển Hàn Quốc ở [[Sài Gòn]], kết quả thua 2-4. |
Sự ra đời của [[bóng đá tại Việt Nam]] bắt đầu từ năm 1896 trong thời [[Pháp thuộc|thuộc địa Pháp]]. Ở giai đoạn đầu, môn thể thao này chỉ được chơi giữa các công chức, thương nhân và binh lính [[Pháp]]. Người [[Pháp]] sau đó khuyến khích người Việt địa phương chơi bóng đá và một số môn [[thể thao]] khác được giới thiệu cho họ để chuyển sự quan tâm của họ khỏi chính trị, dẫn đến môn thể thao này được lan truyền sang các khu vực khác, chủ yếu là [[Miền Bắc Việt Nam|miền Bắc]] và [[Miền Trung Việt Nam|miền Trung]]. Ngày 20 tháng 7 năm 1908, tờ ''[[Lục tỉnh Tân văn]]'' đưa tin trận cầu giữa hai đội bóng thuần cầu thủ người Việt đã được diễn ra. Đến năm 1928, một số người đứng ra thành lập [[Tổng cục Thể thao An Nam]] tại [[Sài Gòn]], cùng trong năm ấy cử một đội bóng Việt Nam sang thi đấu ở [[Singapore]].<ref>{{Chú thích web |url =http://vietnamnet.vn/thuhanoi/2008/12/821171/ |tác giả 1 =[[Dương Trung Quốc]] |tiêu đề =Một Trăm năm bóng đá Việt Nam |ngày truy cập =ngày 8 tháng 2 năm 2009 |nhà xuất bản =[[Vietnamnet]]}}</ref> Nhiều câu lạc bộ bóng đá địa phương sau đó được thành lập ở cả [[Miền Bắc Việt Nam|miền Bắc]] và [[Miền Nam Việt Nam|miền Nam]], mặc dù vậy phải đến sau Thế chiến II, các câu lạc bộ bóng đá trong khu vực mới bắt đầu trở nên có tổ chức hơn. Cùng thời gian đó thì Việt Nam chơi [[trận đấu quốc tế]] đầu tiên trên danh nghĩa [[Quốc gia Việt Nam]] trước đội tuyển Hàn Quốc ở [[Sài Gòn]], kết quả thua 2-4. |
||
=== Thời kỳ nội chiến và chia cắt Việt Nam (1954-1976) === |
=== Thời kỳ nội chiến và chia cắt Việt Nam (1954-1976) === |
Phiên bản lúc 12:00, ngày 10 tháng 6 năm 2020
Huy hiệu áo/huy hiệu Hiệp hội | |||
Biệt danh | Những ngôi sao vàng Những con rồng vàng[1] | ||
---|---|---|---|
Hiệp hội | VFF (Việt Nam) | ||
Liên đoàn châu lục | AFC (châu Á) | ||
Liên đoàn khu vực | AFF (Đông Nam Á) | ||
Huấn luyện viên trưởng | Park Hang-seo | ||
Đội trưởng | Quế Ngọc Hải | ||
Thi đấu nhiều nhất | Lê Công Vinh (85) | ||
Ghi bàn nhiều nhất | Lê Công Vinh (51) | ||
Sân nhà | Sân vận động Quốc gia Mỹ Đình | ||
Mã FIFA | VIE | ||
| |||
Hạng FIFA | |||
Hiện tại | 94 (21 tháng 12 năm 2023)[2] | ||
Cao nhất | 84 (tháng 9 năm 1998) | ||
Thấp nhất | 172 (tháng 12 năm 2006) | ||
Hạng Elo | |||
Hiện tại | 105 10 (30 tháng 11 năm 2022)[3] | ||
Cao nhất | 58 (tháng 10 năm 2002) | ||
Thấp nhất | 175 (tháng 1 năm 1995) | ||
Trận quốc tế đầu tiên | |||
Hồng Kông 3–2 Việt Nam Cộng hòa (Mong Kok, Hồng Kông; 20 tháng 4 năm 1947)[4] Trung Quốc 5–3 Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Bắc Kinh, Trung Quốc; 4 tháng 10 năm 1956)[5] | |||
Trận thắng đậm nhất | |||
Việt Nam 11–0 Guam (Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam; 23 tháng 1 năm 2000) | |||
Trận thua đậm nhất | |||
Zimbabwe 6–0 Việt Nam (Kuala Lumpur, Malaysia; 26 tháng 2 năm 1997) Oman 6–0 Việt Nam (Incheon, Hàn Quốc, 29 tháng 12 năm 2003) | |||
Đội tuyển bóng đá quốc gia Việt Nam là đội tuyển bóng đá nam quốc gia đại diện cho Việt Nam tham dự các giải đấu môn thể thao bóng đá nam quốc tế và được Liên đoàn bóng đá Việt Nam (VFF) quản lý.
Thời điểm Việt Nam bị chia cắt thành 2 nhà nước ở 2 miền, có hai đội bóng tự nhận là đội tuyển bóng đá quốc gia tồn tại ở mỗi miền và cả hai đều được kiểm soát bởi các Hiệp hội bóng đá Việt Nam tương ứng. Vào cuối những năm 1950, Đội tuyển bóng đá quốc gia Việt Nam Cộng hòa, là một trong bốn đội tiến vào vòng chung kết Cúp bóng đá châu Á 1956 và Cúp bóng đá châu Á 1960, đứng hạng tư cả hai lần. Đội cũng đã vô địch Giải Merdeka lần thứ 10 tại Malaysia năm 1966. Sau khi Việt Nam thống nhất năm 1976, Hiệp hội bóng đá Việt Nam được đổi tên thành Liên đoàn bóng đá Việt Nam.
Do những sự kiện lịch sử xảy ra ở nước này trong suốt thế kỷ 20 (đa phần là chiến tranh), với sự chiếm đóng của Nhật Bản ở Đông Dương, Chiến tranh Đông Dương, Chiến tranh Việt Nam, Chiến tranh biên giới Việt–Trung, Chiến tranh biên giới Tây Nam, xung đột với Thái Lan, bóng đá Việt Nam có thể được coi là vẫn còn rất sơ khai và chưa được biết đến trên toàn cầu. Mặc dù vậy, Việt Nam ngày càng được chú ý vì là một đội bóng có tinh thần mạnh mẽ, với thành tích vị trí thứ 4 vào năm 1956 và 1960 tại Asian Cup với tư cách Việt Nam Cộng hòa; và mặc dù đội chỉ tham gia hai kỳ Asian Cup vào năm 2007 và 2019 với tư cách là một quốc gia thống nhất, đội bóng đã trở thành đội đại diện đến từ Đông Nam Á có thành tích tốt nhất trong cả hai lần, đều lọt vào tứ kết.
Từ những năm 1990 khi Việt Nam gia nhập bóng đá toàn cầu, môn thể thao này sớm trở thành một phần của xã hội Việt Nam và là vũ khí để chống lại danh tiếng tiêu cực của đất nước do chiến tranh Việt Nam và sau đó là xung đột với các nước láng giềng. Điều này làm cho đội tuyển quốc gia trở thành một phần của chủ nghĩa dân tộc Việt Nam. Những người hâm mộ bóng đá Việt Nam được mệnh danh là một trong những người hâm mộ cuồng nhiệt nhất trên thế giới, nổi tiếng với những lễ kỷ niệm lớn về thành tích của đội,[6] bất kể đó là đội tuyển quốc gia hay đội tuyển trẻ.[7]
Lịch sử
Thời kỳ đầu (1896-1954)
Sự ra đời của bóng đá tại Việt Nam bắt đầu từ năm 1896 trong thời thuộc địa Pháp. Ở giai đoạn đầu, môn thể thao này chỉ được chơi giữa các công chức, thương nhân và binh lính Pháp. Người Pháp sau đó khuyến khích người Việt địa phương chơi bóng đá và một số môn thể thao khác được giới thiệu cho họ để chuyển sự quan tâm của họ khỏi chính trị, dẫn đến môn thể thao này được lan truyền sang các khu vực khác, chủ yếu là miền Bắc và miền Trung. Ngày 20 tháng 7 năm 1908, tờ Lục tỉnh Tân văn đưa tin trận cầu giữa hai đội bóng thuần cầu thủ người Việt đã được diễn ra. Đến năm 1928, một số người đứng ra thành lập Tổng cục Thể thao An Nam tại Sài Gòn, cùng trong năm ấy cử một đội bóng Việt Nam sang thi đấu ở Singapore.[8] Nhiều câu lạc bộ bóng đá địa phương sau đó được thành lập ở cả miền Bắc và miền Nam, mặc dù vậy phải đến sau Thế chiến II, các câu lạc bộ bóng đá trong khu vực mới bắt đầu trở nên có tổ chức hơn. Cùng thời gian đó thì Việt Nam chơi trận đấu quốc tế đầu tiên trên danh nghĩa Quốc gia Việt Nam trước đội tuyển Hàn Quốc ở Sài Gòn, kết quả thua 2-4.
Thời kỳ nội chiến và chia cắt Việt Nam (1954-1976)
Sau năm 1954, Việt Nam chia cắt hai miền: miền Bắc và miền Nam dẫn đến việc có hai đội bóng của hai nước riêng biệt song song cùng tồn tại.
Đội tuyển Việt Nam Cộng hòa (đại diện cho miền Nam) đã tham gia hai vòng chung kết AFC Asian Cup đầu tiên (AFC Asian Cup 1956 và AFC Asian Cup 1960) và kết thúc ở vị trí thứ tư cả hai lần. Đội tuyển đã vô địch Đại hội Thể thao Đông Nam Á (SEA Games) (khi đó gọi là Đại hội Thể thao Bán đảo Đông Nam Á-SEAP Games) đầu tiên vào năm 1959 tại Thái Lan. Đội cũng đã tham gia vòng loại FIFA World Cup 1974, đánh bại Thái Lan 1-0 để đủ điều kiện tham gia các trận đấu phân loại trước khi thua trận mở màn vòng bảng của họ 0-4 trước Nhật Bản và thua tiếp 0-1 đối với Hồng Kông. Đội tuyển Việt Nam Cộng hòa đã chơi trận cuối cùng của họ với Malaysia năm 1975 khi họ thua 0-3. Nước Cộng hòa Miền Nam Việt Nam kế thừa họ từ ngày 30/4/1975.
Đội tuyển Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (đại diện cho miền Bắc) ít hoạt động hơn, không phải là thành viên của AFC và FIFA, chủ yếu chơi các giải của các nước xã hội chủ nghĩa từ 1956 đến 1966. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có chuyến thi đấu quốc tế đầu tiên của đội sang Trung Quốc năm 1956. Trong chuyến du đấu, đội có trận ra quân thua Trung Quốc 3-5, đá theo sơ đồ 3–2–5 với những gương mặt như Bùi Đức, Đình Te, Bùi Nghẽn, Luyến, Thưởng,...[9] và huấn luyện viên trưởng là Trương Tấn Bửu. Họ đã tham gia giải GANEFO đầu tiên tại Indonesia năm 1962 và Campuchia năm 1966. Cũng trong khoảng thời gian đó, Việt Nam Cộng hòa dự Cúp bóng đá châu Á các năm 1956, 1960, vượt qua vòng bảng Á vận hội 1962 và xếp thứ tư cả ba giải. Đội đoạt huy chương vàng SEA Games khi vô địch kỳ đại hội năm 1959. Đội từng tham gia vòng loại World Cup 1974, vòng loại các kỳ Thế vận hội Mùa hè 1964 và Thế vận hội Mùa hè 1968.
Cả hai đội tuyển quốc gia đã không còn tồn tại khi hai nước Bắc và Nam hợp nhất với nhau thành nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam sau khi Việt Nam đã kết thúc chiến tranh, nhưng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vẫn không phải là thành viên của AFC và FIFA trước năm 1976. Do Việt Nam Cộng hòa là thành viên của FIFA, đội tuyển Việt Nam thống nhất sau này được FIFA xếp vào danh sách kế thừa của đội tuyển Việt Nam Cộng hòa.
Thời kỳ tái phát triển bóng đá Việt Nam thống nhất (1991-nay)
Giải bóng đá chuyên nghiệp Việt Nam hay cũng còn được gọi là Giải vô địch bóng đá toàn Việt Nam được ra mắt vào năm 1980 để tái phát triển bóng đá Việt Nam sau một thời gian dài xảy ra nội chiến. Năm 1989, sau những cải cách đổi mới, một liên đoàn bóng đá mới được thành lập. Thể thao Việt Nam bắt đầu trở lại các sự kiện quốc tế. Sau ba tháng chuẩn bị, tháng 8 năm 1989, Đại hội lần thứ nhất của liên đoàn bóng đá mới đã diễn ra tại Hà Nội, tuyên bố thành lập Liên đoàn bóng đá Việt Nam. Trịnh Ngọc Chữ, Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, được bầu làm chủ tịch VFF. Việt Nam tham gia trở lại giải nước ngoài đầu tiên của đội là SEA Games 1991 được tổ chức tại Manila với trận hòa.[10] Lần tập trung dự SEA Games năm đó, do điều kiện ở Nhổn thiếu thốn nên sau một tuần, 11 cầu thủ phía Nam (thành viên Công nhân Quảng Nam-Đà Nẵng, Hải Quan, Cảng Sài Gòn) cùng "đào ngũ".[11]
Năm 1996, Việt Nam tham gia Tiger Cup đầu tiên, nơi họ kết thúc ở vị trí thứ ba và đăng cai Tiger Cup lần thứ hai vào năm 1998, nơi họ thua 0-1 trước Singapore trong trận chung kết.
Việt Nam đăng cai AFC Asian Cup 2007 cùng với Indonesia, Malaysia và Thái Lan. Ở vòng bảng, Việt Nam đã đánh bại UAE 2-0, hòa 1-1 với một đội bóng vùng Vịnh khác là Qatar, thua 1-4 trước Nhật Bản và là đội Đông Nam Á duy nhất lọt vào tứ kết, nơi họ thua Iraq 0-2.
Kể từ năm 2007, sau hai nỗ lực không thành công trong năm 2011 và 2015, Việt Nam đã đủ điều kiện tham dự AFC Asian Cup một lần nữa khi họ có được bốn trận hòa với Afghanistan và Jordan và hai chiến thắng trước Campuchia trong vòng loại AFC Asian Cup 2019. Cuối năm 2011, Việt Nam tăng 35 bậc, xếp thứ 99, trở lại top 100 FIFA sau 7 năm và dẫn đầu Đông Nam Á lần đầu tiên trong bảng xếp hạng.[12]
Tại các giải khu vực Đông Nam Á
Việt Nam tại SEA Games 16 do Vũ Văn Tư và Nguyễn Kim Hằng dẫn dắt giành một điểm, xếp cuối bảng và bị loại ngay từ vòng bảng sau khi hòa Philippines, thua Indonesia và Malaysia. Ảnh hưởng bởi vụ "đào ngũ" tại Nhổn, Vũ Văn Tư từ nhiệm sau 7 ngày dẫn dắt. Để lấp chỗ trống, liên đoàn huy động một số cầu thủ và HLV Thể Công, Nguyễn Sĩ Hiển lên làm nhiệm vụ. Đội bị loại ở vòng bảng SEA Games 17, trình làng những Nguyễn Hồng Sơn, Lê Huỳnh Đức.
Sau hai kỳ SEA Games đầu tiên, liên đoàn bắt đầu thuê thầy ngoại tiên phong với Karl Heinz Weigang và Edson Tavares, cử hai đội dự đều vào bán kết Cúp Độc Lập và tập huấn tại châu Âu năm 1995. Đội lọt vào bán kết SEA Games cùng năm, thắng Myanmar hiệp phụ và thua Thái Lan chung kết. Trận hòa Lào vòng bảng Tiger Cup 1996 bị nghi "làm độ" khi Nguyễn Hữu Thắng nhận thẻ đỏ trực tiếp, bị HLV Weigang đòi đuổi còn 4 cầu thủ họ Nguyễn khác cũng dính vào nghi án. Giải này đội thua Thái Lan bán kết và thắng Indonesia trận tranh 3/4.
SEA Games 19, đội thua Thái Lan bán kết, đạt huy chương đồng khi hạ Singapore. Lọt qua bảng 5 đội ở SEA Games 20 và thắng Indonesia bán kết, Alfred Riedl cùng Việt Nam nhìn người Thái đoạt huy chương vàng với thất bại 0-2 ở chung kết. Trước đó, Riedl dẫn đội đăng cai lần đầu một giải quốc tế là Tiger Cup 1998 và nhìn Singapore lên ngôi nhờ cái lưng làm bàn của Sasi Kumar. Vòng bảng Tiger Cup 2000, Việt Nam "đòi nợ" thắng Singapore, thua Indonesia bán kết và thua Malaysia trận tranh 3/4.
Với những tên tuổi mới Minh Phương, Tài Em, Văn Quyến, đội đoạt huy chương đồng Tiger Cup 2002, bị loại ở vòng bảng Tiger Cup 2004, thua Thái Lan bán kết AFF Cup 2007.
Trước AFF Cup 2008, khi Henrique Calisto lần thứ 2 lên dẫn dắt, đội toàn hòa và thua giao hữu. Vào giải, Việt Nam thua Thái Lan, thắng Malaysia và Lào ở vòng bảng và vào bán kết đấu Singapore. Lượt đi cả hai đội có trận hòa không bàn thắng thì lượt về, Nguyễn Quang Hải ghi bàn duy nhất giúp Việt Nam vào chung kết, tái đấu Thái Lan thắng 2-1 lượt đi sân khách. Lượt về ngày 28 tháng 12, bị dẫn 1–0 phút bù giờ cuối cùng, cú đá phạt hàng rào của Minh Phương tìm đến Công Vinh, tiền đạo sau đó đã đánh đầu tung lưới Thái Lan giúp cho Việt Nam lần đầu lên ngôi vô địch Đông Nam Á.
Tuy nhiên hai năm sau, đương kim vô địch thua Malaysia ở bán kết AFF Cup 2010, chia tay Calisto cùng cặp tiền vệ Minh Phương, Tài Em.
Năm 2012, đội dùng thầy nội Phan Thanh Hùng cho AFF Cup 2012 và bị loại từ vòng bảng, hơn Myanmar về hiệu số bàn thắng/bại nên được miễn đấu vòng loại giải lần sau.
Thời kỳ chuyển tiếp AFF Cup 2014, Miura Toshiya tiếp quản đội với các nhân tố mới như Nguyên Mạnh, Minh Tuấn, Hoàng Thịnh,...vào bán kết gặp Malaysia, thắng 2–1 lượt đi nhưng thua đối thủ 2-4 lượt về bởi những pha bóng ngớ ngẩn của hàng phòng ngự, trong đó có một bàn phản lưới nhà của Đinh Tiến Thành.
Trước và trong AFF Cup 2016, Việt Nam thắng giao hữu với Syria, Indonesia và toàn thắng vòng bảng. Ở trận bán kết Việt Nam lại một lần nữa gặp lại Indonesia, đội thua 1-2 bán kết lượt đi, và trận lượt về trên sân Mỹ Đình do pha đỡ bóng nghiệp dư của Trần Đình Đồng "kiến tạo" cho cầu thủ đội bạn sút vào lưới trống và tấm thẻ đỏ trực tiếp tai hại vì đánh nguội cầu thủ Indonesia của thủ môn Trần Nguyên Mạnh khi đã hết quyền thay người, đội thắng 2-1 sau 90 phút do công lần lượt của Văn Thanh và Minh Tuấn, nhưng không thể chống đỡ thêm ở hiệp phụ và thua thêm một bàn trên chấm phạt đền khi hậu vệ Quế Ngọc Hải phải làm thủ môn bất đắc dĩ. Chung cuộc đội thua 3-4 và bị loại.
Nòng cốt dự AFF Cup 2018 là những cầu thủ đã đoạt huy chương bạc U-23 châu Á 2018 và đứng hạng tư ASIAD 2018 như Văn Hậu, Quang Hải, Văn Đức, Đức Chinh,...cùng các cựu binh như Huy Hùng, Văn Quyết, Anh Đức và Trọng Hoàng,...[13]. Việt Nam đứng đầu bảng và vào bán kết, hạ gục Philippines cùng với tỷ số 2-1 hai lượt trận, vào chung kết hòa 2-2 Malaysia ở lượt đi trên sân khách. Lượt về trên sân nhà Mỹ Đình, Anh Đức ghi bàn duy nhất từ một cú vô lê đẹp mắt khi trận đấu mới bắt đầu được 5 phút, đội thắng chung cuộc 3-2 để lần thứ hai đăng quang AFF Cup.
Tại các giải châu lục và thế giới
Vòng loại World Cup 1994, do Trần Bình Sự làm huấn luyện viên ở bảng đấu có Triều Tiên, Qatar, Indonesia và Singapore, Việt Nam thắng duy nhất Indonesia loạt trận đầu sau đó thua cả bốn trận lượt về. Lư Đình Tuấn là cầu thủ đầu tiên ghi bàn tại vòng loại World Cup. Việt Nam mất vé Asian Cup 1996 vì thua Hàn Quốc, toàn thua vòng loại World Cup 1998 gặp Tajikistan, Turkmenistan và Trung Quốc, mất vé Asian Cup 2000 vì thua Trung Quốc. − Vòng loại World Cup 2002, đội hòa một, thắng ba trận trước Mông Cổ và Bangladesh và thua Ả Rập Xê Út cả hai lượt đấu, nhìn đội Tây Á đi tiếp.
Năm 2003, Việt Nam cử đội tuyển U–23 dự vòng loại Cúp bóng đá châu Á, thua Oman với tỷ số kỉ lục 0-6, thua Hàn Quốc và thắng Nepal loạt trận đầu. Loạt trận sau thì thắng tối thiểu Hàn Quốc, Nepal rồi thua tiếp 0-2 Oman.
Năm 2004, Edson Tavares trở lại dẫn dắt đội bị loại ở vòng loại World Cup 2006 trước đó có chiến thắng duy nhất trước Maldives nhờ tạm quyền Nguyễn Thành Vinh.
Lần đầu Việt Nam đồng đăng cai và dự giải châu lục là Asian Cup 2007. Tại vòng bảng, đội hạ UAE nhờ hai bàn thắng của Quang Thanh và Công Vinh sau đó hòa Qatar rồi thua ngược Nhật Bản 1-4, lọt vào tứ kết thua Iraq, đội đã vô địch Asian Cup năm đó. Thầy trò Alfred Riedl tái ngộ thua UAE cả hai lượt đi-về vòng loại World Cup 2010 với tổng tỷ số kỷ lục 6-0.
Vòng loại Asian Cup 2011, đội thắng 1, hòa 2 trận khác trước Liban và Syria, còn lại toàn thua trong đó thua Trung Quốc 1-6.
Vòng loại World Cup 2014, dưới quyền của HLV Falko Götz, đội đã hạ Ma Cao cả hai lượt trận, thua Qatar sân khách và thắng đối thủ lượt về. Hoàng Văn Phúc đưa đội dự vòng loại Asian Cup 2015 thua 5 trận, thắng trận thủ tục với Hồng Kông.
Trong chiến dịch vòng loại thứ 2 World Cup 2018, Việt Nam thua Thái Lan 0-1 và thắng Đài Loan 2-1 trên sân khách, sau đó hòa Iraq 1-1 và thua 0-3 trong trận tái đấu Thái Lan tại sân Mỹ Đình. Năm 2016, Nguyễn Hữu Thắng lên thay Toshiya Miura, đội đã thắng Đài Loan 4-1 trên sân nhà Mỹ Đình. Iraq trong trận quyết định đã hạ Việt Nam 1-0 trên sân trung lập để đi tiếp. Kết thúc ở vị trí thứ 3, Việt Nam lọt vào vòng 3 vòng loại Asian Cup 2019 đối đầu Afghanistan, Campuchia, và Jordan. Đội thắng Campuchia cả hai lượt trận, hòa 4 trận còn lại trong thời gian mà Hữu Thắng, Mai Đức Chung và Park Hang-seo lần lượt thay nhau dẫn dắt.
Ở bảng D Asian Cup 2019, Việt Nam khởi đầu bằng trận thua ngược Iraq 2-3 rồi thua tiếp Iran 0-2 và hạ Yemen 2-0 lượt đấu cuối, đi tiếp ở vị trí cuối top 4 đội đứng thứ 3 có thành tích tốt nhất vì hơn Liban ở chỉ số fair-play. Vòng 16 đội, Việt Nam hòa 1-1 trong 120 phút thi đấu và thắng Jordan 4-2 trong loạt sút luân lưu, vào đến tứ kết thua 0-1 trước Nhật Bản. Mặc dù phải về nước sớm, nhưng đội vẫn nhận được rất nhiều sự quan tâm, yêu mến và khen ngợi, điển hình là dành cho thủ môn Đặng Văn Lâm bởi anh đã có những pha cứu thua không tưởng và rất tuyệt vời cho đội tuyển Việt Nam. Anh chỉ phải vào lưới nhặt bóng đúng 1 lần trong trận đấu và đó chỉ là một cú sút phạt đền thành công của Doan Ritsu sau khi Bùi Tiến Dũng phạm lỗi với anh trong khu vực cấm địa. Văn Lâm đã đổ người đúng hướng và thậm chí còn suýt nữa chạm được tay vào bóng, nhưng định mệnh đã gọi tên Nhật Bản vào bán kết. Thậm chí, một số cổ động viên Việt Nam còn nói Văn Lâm "xứng đáng là thủ môn xuất sắc nhất giải đấu" và sự thật anh cũng đã có tên trong danh sách 5 thủ môn xuất sắc nhất Asian Cup 2019. Đội tuyển Việt Nam cũng có thể tự hào về hành trình của họ trên đất UAE khi họ là đội bóng Đông Nam Á duy nhất vào được đến tứ kết tại Asian Cup đến 2 lần tính đến thời điểm này của thế kỉ 21 và nằm trong danh sách 8 đội mạnh nhất châu Á năm 2019.
Hình ảnh
Đội chủ yếu thi đấu với quốc kỳ Việt Nam (hình cờ đỏ sao vàng) in trên ngực áo đấu (khác với phần lớn đội tuyển quốc gia thường hay in logo của Liên đoàn hoặc Hiệp hội bóng đá của quốc gia đó). Năm 2016, logo tuyển quốc gia dựa trên loài rồng được thiết kế và được VFF chấp thuận chính thức tháng 12 năm 2017,[14] nhưng vì bị chê "quá xấu", "giống rồng của Bảy viên ngọc rồng" và bị phản đối bởi đa số người dân Việt Nam nên cho đến nay biểu tượng này vẫn không được in lên áo.[15][16][17]
Tài trợ cho đội có Yanmar, Honda[18], Suzuki, Sony và một số nhà tài trợ phụ khác. Từ năm 1996 đến 2004, hãng sản xuất trang phục thi đấu cho đội là Adidas, từ 2005 đến hết 2008 là Li Ning, từ tháng 1 năm 2009, Nike đảm nhiệm vai trò này theo hợp đồng 5 năm.[19] Trang phục giai đoạn cuối năm 2014 đến 2023 do Grand Sport tài trợ.[20]Áo đấu chính của đội thường luôn luôn có màu đỏ tượng trưng cho quốc kỳ Việt Nam, còn áo đấu phụ của đội thường có màu trắng.
Sân nhà của đội trước năm 2003 là sân Hàng Đẫy sau đó chuyển sang sân Mỹ Đình được xây dựng để phục vụ cho SEA Games 2003.
Đội ngũ kỹ thuật
Vị trí | Họ tên |
---|---|
Trưởng đoàn | Nguyễn Sỹ Hiển |
Huấn luyện viên trưởng | Park Hang-seo |
Trợ lý huấn luyện viên | Lee Young-jin |
Trợ lý huấn luyện viên | Lư Đình Tuấn |
Trợ lý huấn luyện viên | Lưu Danh Minh |
Huấn luyện viên thủ môn | Trần Minh Quang |
Huấn luyện viên thể lực | Park Sung-gyun |
Bác sĩ | Choi Ju-young |
Bác sĩ | Trần Anh Tuấn |
Bác sĩ | Tuấn Nguyên Giáp |
Phiên dịch viên | Lê Huy Khoa |
Cán bộ đoàn | Đoàn Anh Tuấn |
Danh sách cầu thủ
26 cầu thủ tham dự vòng loại giải vô địch bóng đá thế giới 2022 gặp UAE và Thái Lan vào các ngày 14 và 19 tháng 11 năm 2019.
Cập nhật kết quả đến ngày 15 tháng 10 năm 2019, sau trận gặp Thái Lan.
Số | VT | Cầu thủ | Ngày sinh (tuổi) | Trận | Bàn | Câu lạc bộ |
---|---|---|---|---|---|---|
23 | TM | Đặng Văn Lâm | 13 tháng 8, 1993 | 23 | 0 | Muangthong United |
1 | TM | Nguyễn Tuấn Mạnh | 31 tháng 7, 1990 | 4 | 0 | SHB Đà Nẵng |
18 | TM | Phạm Văn Cường | 19 tháng 7, 1990 | 0 | 0 | Quảng Nam |
3 | HV | Quế Ngọc Hải (Đội trưởng) | 15 tháng 5, 1993 | 46 | 3 | Viettel |
4 | HV | Bùi Tiến Dũng | 2 tháng 10, 1995 | 24 | 0 | Viettel |
2 | HV | Đỗ Duy Mạnh | 29 tháng 9, 1996 | 27 | 1 | Hà Nội |
5 | HV | Đoàn Văn Hậu | 19 tháng 4, 1999 | 23 | 99 | SC Heerenveen |
17 | HV | Vũ Văn Thanh | 14 tháng 4, 1996 | 18 | 2 | Hoàng Anh Gia Lai |
21 | HV | Nguyễn Thành Chung | 8 tháng 9, 1997 | 1 | 0 | Hà Nội |
HV | Nguyễn Hữu Tuấn | 6 tháng 5, 1992 | 0 | 0 | TP Hồ Chí Minh | |
8 | TV | Nguyễn Trọng Hoàng | 14 tháng 4, 1989 | 69 | 12 | Viettel |
TV | Nguyễn Huy Hùng | 2 tháng 3, 1992 | 24 | 2 | Quảng Nam | |
19 | TV | Nguyễn Quang Hải | 12 tháng 4, 1997 | 24 | 6 | Hà Nội |
16 | TV | Đỗ Hùng Dũng (Đội phó) | 8 tháng 9, 1993 | 19 | 0 | Hà Nội |
15 | TV | Phạm Đức Huy | 20 tháng 1, 1995 | 11 | 2 | Hà Nội |
14 | TV | Nguyễn Tuấn Anh | 16 tháng 5, 1995 | 12 | 1 | Hoàng Anh Gia Lai |
7 | TV | Nguyễn Phong Hồng Duy | 13 tháng 6, 1996 | 11 | 0 | Hoàng Anh Gia Lai |
6 | TV | Nguyễn Hoàng Đức | 11 tháng 1, 1998 | 1 | 0 | Viettel |
11 | TĐ | Nguyễn Anh ĐứcRET | 24 tháng 10, 1985 | 36 | 12 | Becamex Bình Dương |
10 | TĐ | Nguyễn Công Phượng | 21 tháng 1, 1995 | 35 | 8 | TP Hồ Chí Minh |
9 | TĐ | Nguyễn Văn Toàn (Đội phó 2) | 12 tháng 4, 1996 | 27 | 4 | Hoàng Anh Gia Lai |
22 | TĐ | Nguyễn Tiến Linh | 20 tháng 10, 1997 | 12 | 4 | Becamex Bình Dương |
13 | TĐ | Hà Minh Tuấn | 1 tháng 1, 1991 | 0 | 0 | Quảng Nam |
Từng triệu tập
Vt | Cầu thủ | Ngày sinh (tuổi) | Số trận | Bt | Câu lạc bộ | Lần cuối triệu tập |
---|---|---|---|---|---|---|
HV | Phạm Xuân Mạnh | 9 tháng 2, 1996 | 1 | 0 | Sông Lam Nghệ An | v. UAE, 14 tháng 11 năm 2019 PRE |
HV | Lê Văn Đại | 13 tháng 5, 1996 | 0 | 0 | Thanh Hóa | v. UAE, 14 tháng 11 năm 2019 PRE |
HV | Trần Văn Kiên | 13 tháng 5, 1996 | 1 | 0 | Hà Nội | v. UAE, 14 tháng 11 năm 2019 PRE |
TĐ | Nguyễn Việt Phong | 22 tháng 7, 1993 | 2 | 0 | Viettel | v. UAE, 14 tháng 11 năm 2019 PRE |
TĐ | Nguyễn Trọng Hùng | 3 tháng 10, 1997 | 0 | 0 | Thanh Hóa | v. UAE, 14 tháng 11 năm 2019 PRE |
Ghi chú:
|
|
|
|
Lịch thi đấu
2019
8 tháng 1 năm 2019 Vòng bảng | Iraq | 3–2 | Việt Nam | Abu Dhabi, UAE |
---|---|---|---|---|
17:30 UTC+4 | M. Ali 35' Tariq 60' Adnan 90' |
Chi tiết | Faez 24' (l.n.) Nguyễn Công Phượng 42' |
Sân vận động: Sân vận động Thành phố Thể thao Zayed Lượng khán giả: 0 Trọng tài: Abdulrahman Al-Jassim (Qatar) |
12 tháng 1 năm 2019 Vòng bảng | Việt Nam | 0–2 | Iran | Abu Dhabi, UAE |
---|---|---|---|---|
15:00 UTC+4 | Chi tiết | Azmoun 38', 69' | Sân vận động: Sân vận động Al Nahyan Lượng khán giả: 10,841 Trọng tài: Muhammad Taqi (Singapore) |
16 tháng 1 năm 2019 Vòng bảng | Việt Nam | 2–0 | Yemen | Al Ain, UAE |
---|---|---|---|---|
20:00 UTC+4 | Nguyễn Quang Hải 38' Quế Ngọc Hải 64' (ph.đ.) |
Chi tiết | Sân vận động: Sân vận động Hazza bin Zayed Lượng khán giả: 8,237 Trọng tài: Ahmed Al-Kaf (Oman) |
20 tháng 1 năm 2019 Vòng 16 đội | Jordan | 1–1 (s.h.p.) (2–4 p) |
Việt Nam | Dubai, UAE |
---|---|---|---|---|
17:30 UTC+4 | Abdel-Rahman 39' | Chi tiết | Nguyễn Công Phượng 51' | Sân vận động: Sân vận động Al Maktoum Lượng khán giả: 14,205 Trọng tài: Alireza Faghani (Iran) |
Loạt sút luân lưu | ||||
Abdel-Rahman Faisal Samir Ersan |
Quế Ngọc Hải Đỗ Hùng Dũng Lương Xuân Trường Trần Minh Vương Bùi Tiến Dũng |
24 tháng 1 năm 2019 Tứ kết | Việt Nam | 0–1 | Nhật Bản | Dubai, UAE |
---|---|---|---|---|
17:00 UTC+4 | Chi tiết | Doan 57' (ph.đ.) | Sân vận động: Sân vận động Al Maktoum Lượng khán giả: 8,954 Trọng tài: Mohammed Abdulla Hassan Mohamed (UAE) |
- Cúp Nhà vua Thái Lan
5 tháng 6 năm 2019 Bán kết | Thái Lan | 0–1 | Việt Nam | Buriram, Thái Lan |
---|---|---|---|---|
19:45 UTC+7 | Chi tiết | Nguyễn Anh Đức 90+4' | Sân vận động: Sân vận động Chang Arena Trọng tài: Jumpei Iida (Nhật Bản) |
8 tháng 6 năm 2019 Chung kết | Curaçao | 1–1 (5–4 p) |
Việt Nam | Buriram, Thái Lan |
---|---|---|---|---|
19:45 UTC+7 | Carolina 58' | Chi tiết | Phạm Đức Huy 83' | Sân vận động: Sân vận động Chang Arena Trọng tài: Wiwat Jumpaoon (Thái Lan) |
Loạt sút luân lưu | ||||
Benschop Hooi Antonia Bacuna Maria |
Nguyễn Anh Đức Nguyễn Công Phượng Nguyễn Trọng Hoàng Quế Ngọc Hải Đoàn Văn Hậu |
Vòng loại World Cup 2022 & Vòng loại Asian Cup 2023
5 tháng 9 năm 2019 Bảng G | Thái Lan | 0–0 | Việt Nam | Pathum Thani, Thái Lan |
---|---|---|---|---|
19:00 UTC+7 | Chi tiết (FIFA) Chi tiết (AFC) |
Sân vận động: Sân vận động Thammasat Lượng khán giả: 19,011 Trọng tài: Saoud Al-Athbah (Qatar) |
10 tháng 10 năm 2019 Bảng G | Việt Nam | 1–0 | Malaysia | Hà Nội, Vietnam |
---|---|---|---|---|
18:00 UTC+7 | Nguyễn Quang Hải 40' | Chi tiết (FIFA) Chi tiết (AFC) |
Sân vận động: Sân vận động Quốc gia Mỹ Đình Lượng khán giả: 38,256 Trọng tài: Mooud Bonyadifard (Iran) |
15 tháng 10 năm 2019 Bảng G | Indonesia | 1–3 | Việt Nam | Gianyar, Bali, Indonesia |
---|---|---|---|---|
19:30 UTC+7 | Bachdim 84' | Chi tiết (FIFA) Chi tiết (AFC) |
Đỗ Duy Mạnh 26' Quế Ngọc Hải 55' (ph.đ.) Nguyễn Tiến Linh 61' |
Sân vận động: Sân vận động Kapten I Wayan Dipta Lượng khán giả: 8,237 Trọng tài: Turki Al-Khudayr (Ả Rập Xê Út) |
14 tháng 11 năm 2019 Bảng G | Việt Nam | 1–0 | UAE | Hà Nội, Việt Nam |
---|---|---|---|---|
20:00 UTC+7 | Nguyễn Tiến Linh 43' | Sân vận động: Sân vận động Quốc gia Mỹ Đình Trọng tài: Jumpei Iida (Nhật Bản) |
19 tháng 11 năm 2019 Bảng G | Việt Nam | 0–0 | Thái Lan | Hà Nội, Việt Nam |
---|---|---|---|---|
20:00 UTC+7 | Sân vận động: Sân vận động Quốc gia Mỹ Đình Trọng tài: Ahmed Al-Kaf (Oman) |
2020
8 tháng 10 năm 2020 Giao hữu | Việt Nam | v | Kyrgyzstan | Bình Dương, Việt Nam |
---|---|---|---|---|
--:-- UTC+7 | Sân vận động: Sân vận động Gò Đậu |
13 tháng 10 năm 2020 Bảng G | Malaysia | v | Việt Nam | Kuala Lumpur, Malaysia |
---|---|---|---|---|
--:-- UTC+8 | Sân vận động: Sân vận động Quốc gia Bukit Jalil |
12 tháng 11 năm 2020 Bảng G | Việt Nam | v | Indonesia | Hà Nội, Việt Nam |
---|---|---|---|---|
--:-- UTC+7 | Sân vận động: Sân vận động Quốc gia Mỹ Đình |
Thống kê
Thành tích tại các giải đấu quốc tế
Giải vô địch bóng đá thế giới | Vòng loại | |||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Năm | Kết quả | St | T | H | B | Bt | Bb | St | T | H | B | Bt | Bb | |
1994 | Không vượt qua vòng loại | 8 | 1 | 0 | 7 | 4 | 18 | |||||||
1998 | 6 | 0 | 0 | 6 | 2 | 21 | ||||||||
2002 | 6 | 3 | 1 | 2 | 9 | 9 | ||||||||
2006 | 6 | 1 | 1 | 4 | 5 | 9 | ||||||||
2010 | 2 | 0 | 0 | 2 | 0 | 6 | ||||||||
2014 | 4 | 3 | 0 | 1 | 15 | 5 | ||||||||
2018 | 6 | 2 | 1 | 3 | 7 | 8 | ||||||||
2022 | Chưa xác định | Chưa xác định | ||||||||||||
Tổng cộng | - | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 38 | 10 | 3 | 25 | 42 | 76 |
Cúp bóng đá châu Á | Vòng loại | |||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Năm | Kết quả | St | T | H | B | Bt | Bb | St | T | H | B | Bt | Bb | |
1992 | Không tham dự | Không tham dự | ||||||||||||
1996 | Không vượt qua vòng loại | 3 | 2 | 0 | 1 | 13 | 5 | |||||||
2000 | 3 | 2 | 0 | 1 | 14 | 2 | ||||||||
2004 | 6 | 3 | 0 | 3 | 8 | 13 | ||||||||
2007 | Tứ kết | 4 | 1 | 1 | 2 | 4 | 7 | Chủ nhà | ||||||
2011 | Không vượt qua vòng loại | 6 | 1 | 2 | 3 | 6 | 11 | |||||||
2015 | 6 | 1 | 0 | 5 | 5 | 15 | ||||||||
2019 | Tứ kết | 5 | 1 | 1 | 3 | 5 | 7 | 12 | 4 | 5 | 3 | 16 | 11 | |
Tổng cộng | Tứ kết | 9 | 2 | 2 | 5 | 9 | 14 | 36 | 13 | 7 | 16 | 62 | 57 |
Á vận hội | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|
Năm | Kết quả | St | T | H | B | Bt | Bb |
1994 | Không tham dự | ||||||
1998 | Vòng bảng | 2 | 0 | 0 | 2 | 0 | 6 |
Tổng cộng | Vòng bảng | 2 | 0 | 0 | 2 | 0 | 6 |
- Từ năm 2002 trở đi, môn bóng đá nam tại ASIAD được tổ chức cho các đội U-23 (+) tham dự. Để xem thêm thành tích của đội tuyển bóng đá Việt Nam tại ASIAD, xem thêm mục Đội tuyển bóng đá U-23 quốc gia Việt Nam.
Giải vô địch bóng đá Đông Nam Á | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|
Năm | Kết quả | St | T | H | B | Bt | Bb |
1996 | Hạng ba | 6 | 3 | 2 | 1 | 14 | 10 |
1998 | Á quân | 5 | 3 | 1 | 1 | 8 | 2 |
2000 | Hạng tư | 6 | 3 | 1 | 2 | 14 | 6 |
2002 | Hạng ba | 6 | 4 | 1 | 1 | 21 | 12 |
2004 | Vòng bảng | 4 | 2 | 1 | 1 | 13 | 5 |
2007 | Bán kết | 5 | 1 | 3 | 1 | 10 | 3 |
2008 | Vô địch | 7 | 4 | 2 | 1 | 11 | 6 |
2010 | Bán kết | 5 | 2 | 1 | 2 | 8 | 5 |
2012 | Vòng bảng | 3 | 0 | 1 | 2 | 2 | 5 |
2014 | Bán kết | 5 | 3 | 1 | 1 | 12 | 8 |
2016 | Bán kết | 5 | 3 | 1 | 1 | 8 | 6 |
2018 | Vô địch | 8 | 6 | 2 | 0 | 15 | 4 |
Tổng cộng | Vô địch | 65 | 34 | 17 | 14 | 136 | 72 |
SEA Games | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|
Năm | Kết quả | St | T | H | B | Bt | Bb |
1991 | Vòng bảng | 3 | 0 | 1 | 2 | 3 | 5 |
1993 | Vòng bảng | 3 | 1 | 0 | 2 | 1 | 3 |
1995 | Á quân | 6 | 4 | 0 | 2 | 10 | 8 |
1997 | Hạng ba | 6 | 3 | 1 | 2 | 9 | 6 |
1999 | Á quân | 6 | 4 | 1 | 1 | 14 | 2 |
2001 | Vòng bảng | 3 | 1 | 0 | 2 | 5 | 4 |
2003 | Á quân | 5 | 3 | 1 | 1 | 8 | 6 |
2005 | Á quân | 6 | 4 | 0 | 2 | 13 | 8 |
2007 | Hạng tư | 5 | 2 | 1 | 2 | 7 | 10 |
2009 | Á quân | 6 | 4 | 1 | 1 | 18 | 5 |
2011 | Hạng tư | 7 | 4 | 1 | 2 | 17 | 8 |
2013 | Vòng bảng | 4 | 2 | 0 | 2 | 13 | 3 |
2015 | Hạng ba | 7 | 5 | 0 | 2 | 23 | 6 |
2017 | Vòng bảng | 5 | 3 | 1 | 1 | 12 | 4 |
2019 | Vô địch | 7 | 6 | 1 | 0 | 24 | 4 |
Tổng cộng | Vô địch | 79 | 46 | 9 | 24 | 177 | 82 |
- Từ năm 2001, môn bóng đá nam tại các kỳ SEA Games được tổ chức cho các đội U-23(+) tham gia.
Đối đầu
- Cập nhật lần cuối ngày 19 tháng 11 năm 2019.[21]
Đội tuyển quốc gia | St | T | H | B | Bt | Bb |
---|---|---|---|---|---|---|
Algérie | 1 | 0 | 0 | 1 | 0 | 5 |
Afghanistan | 2 | 0 | 2 | 0 | 1 | 1 |
Albania | 1 | 0 | 0 | 1 | 0 | 5 |
Bahrain | 1 | 1 | 0 | 0 | 5 | 3 |
Bangladesh | 2 | 1 | 1 | 0 | 4 | 0 |
Bosna và Hercegovina | 1 | 0 | 0 | 1 | 0 | 4 |
Campuchia | 11 | 9 | 2 | 0 | 48 | 10 |
Trung Quốc | 12 | 0 | 1 | 11 | 12 | 37 |
Cuba | 1 | 1 | 0 | 0 | 2 | 1 |
Curaçao | 1 | 0 | 0 | 1 | 1 | 1 |
Đài Bắc Trung Hoa | 4 | 3 | 1 | 0 | 11 | 4 |
Estonia | 1 | 1 | 0 | 0 | 1 | 0 |
Guam | 2 | 2 | 0 | 0 | 20 | 0 |
Hồng Kông | 7 | 4 | 1 | 2 | 11 | 8 |
Ấn Độ | 2 | 1 | 0 | 1 | 3 | 4 |
Indonesia | 27 | 6 | 9 | 12 | 32 | 41 |
Iran | 1 | 0 | 0 | 1 | 0 | 2 |
Iraq | 4 | 0 | 1 | 3 | 3 | 7 |
Jamaica | 1 | 1 | 0 | 0 | 3 | 0 |
Nhật Bản | 4 | 0 | 0 | 4 | 1 | 10 |
Jordan | 3 | 1 | 2 | 0 | 2 | 2 |
Kazakhstan | 1 | 1 | 0 | 0 | 2 | 1 |
CHDCND Triều Tiên | 19 | 1 | 5 | 13 | 12 | 42 |
Hàn Quốc | 6 | 1 | 0 | 5 | 2 | 17 |
Kuwait | 2 | 1 | 0 | 1 | 2 | 3 |
Lào | 12 | 11 | 1 | 0 | 56 | 4 |
Liban | 4 | 1 | 2 | 1 | 4 | 4 |
Ma Cao | 2 | 2 | 0 | 0 | 13 | 1 |
Malaysia | 20 | 12 | 3 | 5 | 26 | 19 |
Maldives | 2 | 1 | 0 | 1 | 4 | 3 |
Mozambique | 1 | 1 | 0 | 0 | 1 | 0 |
Mông Cổ | 3 | 3 | 0 | 0 | 8 | 1 |
Myanmar | 11 | 7 | 3 | 1 | 34 | 10 |
Nepal | 2 | 2 | 0 | 0 | 7 | 0 |
Oman | 2 | 0 | 0 | 2 | 0 | 8 |
Palestine | 1 | 0 | 0 | 1 | 1 | 3 |
Philippines | 12 | 9 | 1 | 2 | 26 | 11 |
Qatar | 6 | 2 | 1 | 3 | 5 | 14 |
Ả Rập Xê Út | 2 | 0 | 0 | 2 | 0 | 9 |
Singapore | 18 | 7 | 7 | 4 | 19 | 15 |
Sri Lanka | 4 | 1 | 3 | 0 | 7 | 6 |
Syria | 3 | 1 | 1 | 1 | 2 | 1 |
Tajikistan | 2 | 0 | 0 | 2 | 0 | 8 |
Thái Lan | 24 | 3 | 6 | 15 | 18 | 41 |
Turkmenistan | 6 | 1 | 0 | 5 | 4 | 12 |
UAE | 6 | 2 | 0 | 4 | 4 | 13 |
Uzbekistan | 2 | 0 | 0 | 2 | 1 | 6 |
Yemen | 2 | 2 | 0 | 0 | 11 | 0 |
Zimbabwe | 1 | 0 | 0 | 1 | 0 | 6 |
Tổng cộng | 237 | 99 | 50 | 88 | 381 | 335 |
Các cầu thủ
|
|
Các đội trưởng
Đội trưởng | Thời gian | Ghi chú |
---|---|---|
Quế Ngọc Hải | 2018 - nay | Đội trưởng trong 2 trận chung kết AFF Cup 2018 |
Nguyễn Văn Quyết | 2017 - 2018 | Đội trưởng trong chức vô địch AFF Cup 2018 |
Lê Công Vinh | 2014 - 2016 | |
Lê Tấn Tài | 2013 - 2014 | |
Nguyễn Minh Đức | 2012 - 2013 | |
Phan Văn Tài Em | 2008, 2011 | Đội trưởng trong chức vô địch AFF Cup 2008 |
Nguyễn Minh Phương | 2004 - 2007, 2009 - 2010 | |
Lê Huỳnh Đức | 2000 - 2004 | |
Trần Công Minh | 1996 - 2000 | |
Nguyễn Mạnh Cường | 1995 - 1996 |
Các huấn luyện viên
Từng hoặc đang tại vị | Thời gian | Trận | Thắng | Hòa | Bại |
---|---|---|---|---|---|
Park Hang-seo | 11 tháng 10 năm 2017[22]–nay | 22 | 11 | 8 | 3 |
Mai Đức Chung (quyền) | 27 tháng 8 năm 2017[23]–10 tháng 10 năm 2017[22] | 2 | 2 | 0 | 0 |
Nguyễn Hữu Thắng | Tháng 3, 2016[24]–Tháng 8, 2017[23] | 15 | 8 | 5 | 2 |
Miura Toshiya | Tháng 5, 2014[25]–Tháng 3, 2016[24] | 13 | 7 | 3 | 3 |
Hoàng Văn Phúc | Tháng 1, 2013–Tháng 4, 2014[26] | 3 | 1 | 0 | 2 |
Nguyễn Văn Sỹ (quyền) | Tháng 10, 2013–Tháng 11, 2013 | 4 | 1 | 0 | 3 |
Phan Thanh Hùng | Tháng 8, 2012[25]–Tháng 12, 2012 | 14 | 5 | 5 | 4 |
Falko Götz | Tháng 6, 2011–Tháng 12, 2011[25] | 5 | 3 | 0 | 2 |
Mai Đức Chung (quyền) | 2011[23] | ||||
Henrique Calisto | Tháng 3, 2008[25]–Tháng 3, 2011 | 42 | 11 | 11 | 20 |
Alfred Riedl | 2005–Tháng 12, 2007[25] | 23 | 8 | 8 | 7 |
Trần Văn Khánh (quyền) | 2004[27] | 1 | 1 | 0 | 0 |
Edson Tavares | Tháng 3, 2004–Tháng 12, 2004 | 11 | 4 | 1 | 6 |
Nguyễn Thành Vinh (quyền) | Tháng 1, 2004– Tháng 3, 2004 | 1 | 1 | 0 | 0 |
Alfred Riedl | Tháng 2, 2003–Tháng 10, 2003 | 7 | 3 | 0 | 4 |
Henrique Calisto | Tháng 8, 2002–Tháng 12, 2002 | 10 | 5 | 3 | 2 |
Dido | 2001 | 6 | 3 | 1 | 2 |
Alfred Riedl | Tháng 8, 1998 – 2000 | 31 | 16 | 6 | 9 |
Colin Murphy | Tháng 10, 1997 | 6 | 3 | 1 | 2 |
Lê Đình Chính (quyền) | 1997[28] | 1 | 0 | 0 | 1 |
Trần Duy Long | 1997[28] | 5 | 0 | 0 | 5 |
Karl-Heinz Weigang | 1995–Tháng 6, 1997 | ||||
Edson Tavares | 1995 | ||||
Trần Duy Long (quyền) | 1994 | 1 | 1 | 0 | 0 |
Trần Bình Sự | 1993 | 11 | 2 | 0 | 9 |
Nguyễn Sỹ Hiển | 1991[27] | 3 | 0 | 1 | 2 |
Vũ Văn Tư | 1991 |
Thành tích
Cấp châu lục
- Cúp bóng đá châu Á
- Đại hội Thể thao châu Á (kể từ năm 2002 là Đội tuyển U-23 Quốc gia tham dự)
- Hạng tư (1): 2018
- Vòng bảng (1): 1998
Cấp khu vực
- Giải vô địch bóng đá Đông Nam Á
- Đại hội Thể thao Đông Nam Á (kể từ năm 2001 là Đội tuyển U-23 Quốc gia tham dự)
Đối thủ kình địch
Thái Lan
Thái Lan thường được xem là đối thủ kình địch lớn nhất của Việt Nam[30]. Các trận đấu giữa hai đội luôn được ví như trận "siêu kinh điển" của bóng đá Đông Nam Á và rất được truyền thông hai nước cũng như cả khu vực quan tâm. Tính đến sau cuộc đối đầu giữa hai đội ngày 19 tháng 11 năm 2019 ở lượt trận thứ năm vòng loại thứ 2 của World Cup 2022, Việt Nam đã đối đầu với Thái Lan trong 24 trận ở cấp độ đội tuyển quốc gia, và chỉ có 3 chiến thắng, còn lại là 6 trận hòa và 15 trận thua.[31]
Indonesia
Indonesia được xem là một đối thủ nhiều duyên nợ của bóng đá Việt Nam. Trong suốt giai đoạn 20 năm từ 1999-2019, Việt Nam chỉ hòa và thua khi đối đầu với Indonesia tại các giải đấu chính thức.[32] Chuỗi trận không thắng này bắt đầu kể từ sau trận thắng 1-0 trước Indonesia ngày 12 tháng 8 năm 1999 tại bán kết môn bóng đá của SEA Games 1999, và kéo dài 12 trận, với 7 trận hòa và 5 trận thua, và chấm dứt khi Việt Nam thắng 3-1 trên sân của Indonesia ngày 15 tháng 10 năm 2019 tại vòng loại thứ 2 của World Cup 2022. Trong giai đoạn này, Việt Nam chỉ có một lần thắng Indonesia 3-2 trong trận đấu giao hữu trên sân Mỹ Đình ngày 8 tháng 11 năm 2016.
Malaysia
Việt Nam áp đảo về thành tích đối đầu trước Malaysia với 12 trận thắng, 3 trận hòa và chỉ 5 lần thất bại trong 20 lần chạm trán với đối thủ này[33]. "Rồng Vàng" cũng đang duy trì mạch trận bất bại trước Malaysia kể từ năm 2014.
Tham khảo
- ^ “AFF Cup 2018: Giải mã biệt danh các đội bóng Đông Nam Á”. goal.com. ngày 12 tháng 10 năm 2018.
- ^ “Bảng xếp hạng FIFA/Coca-Cola thế giới”. FIFA. 21 tháng 12 năm 2023. Truy cập 21 tháng 12 năm 2023.
- ^ Elo rankings change compared to one year ago. “World Football Elo Ratings”. eloratings.net. 30 tháng 11 năm 2022. Truy cập 30 tháng 11 năm 2022.
- ^ “Vietnam matches, ratings and points exchanged”. World Football Elo Ratings: Vietnam. Truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2016.
- ^ “North Vietnam matches, ratings and points exchanged”. World Football Elo Ratings: Vietnam. Truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2016.
- ^ Ralph Jennings (19 tháng 12 năm 2018). “Wild Post-Game Street Partying in Vietnam Reveals Surge in Patriotism”. Voice of America. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2019.
- ^ Tuan Hoang (26 tháng 1 năm 2018). “Vietnamese nationalism & the U23 Asian championship tournament”. Tuanny River. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2019.
- ^ Dương Trung Quốc. “Một Trăm năm bóng đá Việt Nam”. Vietnamnet. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2009.
- ^ “Quái chiêu Hà Nội: Tòng "cháy" & tuyệt chiêu”. Thể thao & Văn hóa Online. Truy cập ngày 28 tháng 1 năm 2009.
- ^ “BĐVN sau đỉnh AFF Cup: Lối mòn hay lộ trình?”. Vietnamnet. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2009.
- ^ “Xung quanh sự cố "mất hộ chiếu" của Hồng Sơn: Lời thì thầm của con gấu”. Thể thao & Văn hóa Online. Truy cập ngày 8 tháng 1 năm 2010.
- ^ Đại nhảy vọt, Việt Nam vào top 100 BXH FIFA
- ^ https://vnexpress.net/the-thao/hlv-park-hang-seo-goi-8-cau-thu-ha-noi-len-tuyen-viet-nam-3821266.html
- ^ Fox Sports (2 tháng 12 năm 2017). “VFF thông qua Huy hiệu mới cho các Đội tuyển quốc gia Việt Nam”. foxsports.com.vn. Truy cập 9 tháng 4 năm 2019.
- ^ “Huy hiệu không thay quốc kỳ trên áo đấu tuyển Việt Nam”. Thể thao Văn hoá. 2 tháng 12 năm 2017.
- ^ “VFF không tự ý chốt huy hiệu hình rồng cho các đội tuyển bóng đá Việt Nam”. Tuổi Trẻ. 30 tháng 7 năm 2016.
- ^ “Huy hiệu hình rồng cho các đội tuyển bóng đá Việt Nam bị 'ném đá'”. Tuổi Trẻ. 29 tháng 7 năm 2016.
- ^ “Honda Vietnam becomes main sponsor for National Team”. VFF. 4 tháng 2 năm 2013. Truy cập 4 tháng 2 năm 2013.
- ^ “Từ tháng 1/2009, ĐTVN sẽ mặc áo đấu Nike”. Thể thao & Văn hóa Online. Truy cập ngày 7 tháng 1 năm 2009.
- ^ “Đội tuyển Việt Nam có trang phục thi đấu mới”. Thanh Niên Online. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2014.
- ^ “Thành tích đối đấu giữa các đội tuyển trên trang chủ của FIFA”. Truy cập 28 tháng 03 năm 2018.
- ^ a b “Park Hang-seo ra mắt trên cương vị HLV trưởng tuyển Việt Nam”. https://thethao.vnexpress.net. VNE. Truy cập 11 tháng 10 năm 2017. Liên kết ngoài trong
|website=
(trợ giúp) - ^ a b c “HLV Mai Đức Chung lần thứ 3 "đóng thế"”. SGGP. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2017.
- ^ a b “HLV Hữu Thắng: "Mourinho cũng bị sa thải, huống hồ tôi"”. Báo Tuổi trẻ. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2016.
- ^ a b c d e Phúc Long (ngày 6 tháng 9 năm 2018). “10 HLV trước ông Park: Một người được gia hạn, 9 người bị sa thải”. zing.vn.
- ^ Quỳnh Cao. “HLV Hoàng Văn Phúc chính thức rời ghế thuyền trưởng ĐTVN”. zing.vn. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2014.
- ^ a b “Các đời HLV nội của tuyển Việt Nam”. ngoisao.net. ngày 10 tháng 5 năm 2012.
- ^ a b “Vietnam sacked”. AFP. 31 tháng 10 năm 1997.
- ^ a b c d e với tư cách là Đội tuyển bóng đá quốc gia Việt Nam Cộng hòa
- ^ Thống kê lịch sử đối đầu của Đội tuyển Việt Nam và Đội tuyển Thái Lan
- ^ Lịch sử đối đầu Việt Nam vs Thái Lan: Niềm tin từ King's Cup 2019
- ^ Đội tuyển Việt Nam chấm dứt 20 năm không thắng Indonesia
- ^ https://video.vnexpress.net/tin-tuc/sports-life/lich-su-doi-dau-giua-tuyen-viet-nam-va-malaysia-3994771.html
Xem thêm
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Đội tuyển bóng đá quốc gia Việt Nam. |
Liên kết ngoài
- Đội tuyển bóng đá quốc gia Việt Nam trên trang chủ của FIFA
- VFF - Đội tuyển Quốc gia Nam