Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tây Nhung”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Thonn141 (thảo luận | đóng góp)
n Thonn141 đã đổi Tây Nhung thành Tây Nhương
Thonn141 (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1: Dòng 1:
[[Hình:Huaxiasiyi.svg |thumb|Bản đồ thời [[nhà Chu]] gồm [[Hoa Hạ]] bao quanh là ''[[Tứ Di]]'': [[Đông Di]], [[Bắc Địch]], Tây Nhung và [[Nam Man]]]][[Tập tin:Tianxia vi.svg|nhỏ|Tên gọi Tứ Di]]
[[Hình:Huaxiasiyi.svg |thumb|Bản đồ thời [[nhà Chu]] gồm [[Hoa Hạ]] bao quanh là ''[[Tứ Di]]'': [[Đông Di]], [[Bắc Địch]], Tây Nhương và [[Nam Man]]]][[Tập tin:Tianxia vi.svg|nhỏ|Tên gọi Tứ Di]]
'''Tây Nhung''' ([[chữ Hán]]: 西戎; [[bính âm Hán ngữ|bính âm]]: Xīróng) hay còn gọi là '''Nhung''' (戎) là thuật ngữ miệt thị trong [[lịch sử Trung Quốc]] từ thời [[nhà Chu]] để chỉ các [[bộ lạc]] [[dân tộc ngoài Trung Nguyên cổ đại]] ở phía tây [[Địa lí Trung Quốc|Trung Quốc]]. Đó cũng còn là tên mà người Trung Nguyên gọi một quốc gia phía tây vào thời kỳ [[Xuân Thu]], [[Chiến Quốc]].
'''Tây Nhương''' ([[chữ Hán]]: 西戎; [[bính âm Hán ngữ|bính âm]]: Xīróng; chuyển tự: Tây Nhung) hay còn gọi là '''Nhương''' (戎) là thuật ngữ miệt thị trong [[lịch sử Trung Quốc]] từ thời [[nhà Chu]] để chỉ các [[bộ lạc]] [[dân tộc ngoài Trung Nguyên cổ đại]] ở phía tây [[Địa lí Trung Quốc|Trung Quốc]]. Đó cũng còn là tên mà người Trung Nguyên gọi một quốc gia phía tây vào thời kỳ [[Xuân Thu]], [[Chiến Quốc]].


Lý thuyết [[vũ trụ quan]] "''Trung Hoa''" (Sinocentric) có từ thời [[nhà Chu]] (cỡ 1046–256 [[TCN]]) đưa ra khái niệm "trời tròn đất vuông", coi "[[thiên hạ]]" (天下) là bao trùm gồm [[Hoa Hạ]] (華夏) ở tâm là ''người đã giáo hóa văn minh'', và bao quanh là các dân tộc '''[[Tứ Di]]''' (''man di mọi rợ'') [[dân tộc ngoài Trung Nguyên cổ đại|không phải người Trung Quốc]], gồm [[Đông Di]] (東夷), [[Bắc Địch]] (北狄), Tây Nhung (西戎), và [[Nam Man]] (南蠻). Các chữ tượng hình chỉ các nhóm này đều có phần biểu thị "sâu bọ thú vật" <ref>{{cite journal |ref = harv |last = Cioffi-Revilla |first = Claudio |last2 = Lai |first2 = David |year = 1995 |title = War and Politics in Ancient China, 2700 BC to 722 BC |journal=The Journal of Conflict Resolution |volume = 39 |issue = 3 |url = http://jcr.sagepub.com/content/39/3/467.refs |pages=471–72}}</ref><ref name=sel97-197>{{cite book |title = Encyclopaedia of the history of science, technology and medicine in non-western cultures |year=1997 |publisher = Kluwer |location = Dordrecht |ISBN = 978-0-79234066-9 |editor1-last = Selin |editor1-first = Helaine |chapter = Chinese Minorities |last = Guo |first = Shirong |last2 = Feng |first2 = Lisheng |quote=During the Warring Stares (475 BC–221 BC), feudalism was developed and the Huaxia nationality grew out of the Xia, Shang, and Zhou nationalities in the middle and upper reaches of the Yellow River. The Han evolved from the Huaxia. |page=197}}</ref>. Ngày nay [[chữ Hán]] đã lược bỏ phần biểu tượng này đi, nên trong các chữ Hán dẫn ra ở trên chỉ còn có ở chữ ''Địch'' (狄).
Lý thuyết [[vũ trụ quan]] "''Trung Hoa''" (Sinocentric) có từ thời [[nhà Chu]] (cỡ 1046–256 [[TCN]]) đưa ra khái niệm "trời tròn đất vuông", coi "[[thiên hạ]]" (天下) là bao trùm gồm [[Hoa Hạ]] (華夏) ở tâm là ''người đã giáo hóa văn minh'', và bao quanh là các dân tộc '''[[Tứ Di]]''' (''man di mọi rợ'') [[dân tộc ngoài Trung Nguyên cổ đại|không phải người Trung Quốc]], gồm [[Đông Di]] (東夷), [[Bắc Địch]] (北狄), Tây Nhương (西戎), và [[Nam Man]] (南蠻). Các chữ tượng hình chỉ các nhóm này đều có phần biểu thị "sâu bọ thú vật" <ref>{{cite journal |ref = harv |last = Cioffi-Revilla |first = Claudio |last2 = Lai |first2 = David |year = 1995 |title = War and Politics in Ancient China, 2700 BC to 722 BC |journal=The Journal of Conflict Resolution |volume = 39 |issue = 3 |url = http://jcr.sagepub.com/content/39/3/467.refs |pages=471–72}}</ref><ref name=sel97-197>{{cite book |title = Encyclopaedia of the history of science, technology and medicine in non-western cultures |year=1997 |publisher = Kluwer |location = Dordrecht |ISBN = 978-0-79234066-9 |editor1-last = Selin |editor1-first = Helaine |chapter = Chinese Minorities |last = Guo |first = Shirong |last2 = Feng |first2 = Lisheng |quote=During the Warring Stares (475 BC–221 BC), feudalism was developed and the Huaxia nationality grew out of the Xia, Shang, and Zhou nationalities in the middle and upper reaches of the Yellow River. The Han evolved from the Huaxia. |page=197}}</ref>. Ngày nay [[chữ Hán]] đã lược bỏ phần biểu tượng này đi, nên trong các chữ Hán dẫn ra ở trên chỉ còn có ở chữ ''Địch'' (狄).


Văn hóa Tây Nhung đã phát hiện ở đất [[Cách]] chân [[xẻng]], một cái quai bình và một cặp quai bình khác với đặc trưng chính của văn hóa Tây Nhung. Ngoài ra sự xuất hiện của Tây Nhung còn được bộ chính sử [[Sử Ký (định hướng)|Sử ký]] ghi chép lại trong thiên [[Tần bản kỷ]].
Văn hóa Tây Nhương đã phát hiện ở đất [[Cách]] chân [[xẻng]], một cái quai bình và một cặp quai bình khác với đặc trưng chính của văn hóa Tây Nhương. Ngoài ra sự xuất hiện của Tây Nhương còn được bộ chính sử [[Sử Ký (định hướng)|Sử ký]] ghi chép lại trong thiên [[Tần bản kỷ]].
Đời Chu, vị trí cư trú của Tây Nhung được xác định bao gồm từ [[Thanh Hải]] tới [[Thiểm Tây]], đời vua nhà Chu thứ 12 là [[Chu U vương|Chu U Vương]] vì say mê mỹ nhân [[Bao Tự]] mà phế Thân hậu, chuốc lấy sự giận dữ từ [[chư hầu]]. Cha Thân hậu là vua nước [[Thân (nước)|Thân]] bất bình, bèn liên hệ với nước [[Tằng (nước)|Tằng]] và hai tộc Khuyển, Nhung bên ngoài kéo vào đánh úp [[Cảo Kinh]] vào năm [[771 TCN]]. Chu U vương không chống nổi quân địch, bị quân Khuyển Nhung đuổi theo giết chết ở núi [[Ly Sơn]], sự kiện này đánh dấu kết thúc thời kỳ [[Nhà Chu|Tây Chu]], bước vào thời kỳ [[Xuân Thu]].
Đời Chu, vị trí cư trú của Tây Nhương được xác định bao gồm từ [[Thanh Hải]] tới [[Thiểm Tây]], đời vua nhà Chu thứ 12 là [[Chu U vương|Chu U Vương]] vì say mê mỹ nhân [[Bao Tự]] mà phế Thân hậu, chuốc lấy sự giận dữ từ [[chư hầu]]. Cha Thân hậu là vua nước [[Thân (nước)|Thân]] bất bình, bèn liên hệ với nước [[Tằng (nước)|Tằng]] và hai tộc Khuyển, Nhương bên ngoài kéo vào đánh úp [[Cảo Kinh]] vào năm [[771 TCN]]. Chu U vương không chống nổi quân địch, bị quân Khuyển Nhương đuổi theo giết chết ở núi [[Ly Sơn]], sự kiện này đánh dấu kết thúc thời kỳ [[Nhà Chu|Tây Chu]], bước vào thời kỳ [[Xuân Thu]].


Nhà Chu truy phong cho nước [[Tần (nước)|Tần]] cai quản khu vực tộc Nhung, có thuyết nói nước Tần thuộc nhóm người Nhung. [[Tần Mục công|Tần Mục Công]] thường xuyên thảo phạt người Nhung mà dựng nên nghiệp [[Bá]], sau nhiều lần xung đột với nước Tần, cuối cùng một bộ phận người Nhung bị Tần sáp nhập, phần còn lại có khả năng chạy vào khu vực của người [[Hung Nô]]. Theo giả thuyết về dân tộc và chủng tộc, thì người Nhung thuộc hệ [[Tây Tạng]] hoặc các nhóm dân tộc nói [[Hệ ngôn ngữ Turk|ngôn ngữ Turk]], nhưng không có mấy bằng chứng nào đủ sức thuyết phục.
Nhà Chu truy phong cho nước [[Tần (nước)|Tần]] cai quản khu vực tộc Nhương, có thuyết nói nước Tần thuộc nhóm người Nhương. [[Tần Mục công|Tần Mục Công]] thường xuyên thảo phạt người Nhương mà dựng nên nghiệp [[Bá]], sau nhiều lần xung đột với nước Tần, cuối cùng một bộ phận người Nhương bị Tần sáp nhập, phần còn lại có khả năng chạy vào khu vực của người [[Hung Nô]]. Theo giả thuyết về dân tộc và chủng tộc, thì người Nhương thuộc hệ [[Tây Tạng]] hoặc các nhóm dân tộc nói [[Hệ ngôn ngữ Turk|ngôn ngữ Turk]], nhưng không có mấy bằng chứng nào đủ sức thuyết phục.


== Xem thêm ==
== Xem thêm ==

Phiên bản lúc 12:42, ngày 29 tháng 6 năm 2020

Bản đồ thời nhà Chu gồm Hoa Hạ bao quanh là Tứ Di: Đông Di, Bắc Địch, Tây Nhương và Nam Man
Tên gọi Tứ Di

Tây Nhương (chữ Hán: 西戎; bính âm: Xīróng; chuyển tự: Tây Nhung) hay còn gọi là Nhương (戎) là thuật ngữ miệt thị trong lịch sử Trung Quốc từ thời nhà Chu để chỉ các bộ lạc dân tộc ngoài Trung Nguyên cổ đại ở phía tây Trung Quốc. Đó cũng còn là tên mà người Trung Nguyên gọi một quốc gia phía tây vào thời kỳ Xuân Thu, Chiến Quốc.

Lý thuyết vũ trụ quan "Trung Hoa" (Sinocentric) có từ thời nhà Chu (cỡ 1046–256 TCN) đưa ra khái niệm "trời tròn đất vuông", coi "thiên hạ" (天下) là bao trùm gồm Hoa Hạ (華夏) ở tâm là người đã giáo hóa văn minh, và bao quanh là các dân tộc Tứ Di (man di mọi rợ) không phải người Trung Quốc, gồm Đông Di (東夷), Bắc Địch (北狄), Tây Nhương (西戎), và Nam Man (南蠻). Các chữ tượng hình chỉ các nhóm này đều có phần biểu thị "sâu bọ thú vật" [1][2]. Ngày nay chữ Hán đã lược bỏ phần biểu tượng này đi, nên trong các chữ Hán dẫn ra ở trên chỉ còn có ở chữ Địch (狄).

Văn hóa Tây Nhương đã phát hiện ở đất Cách chân xẻng, một cái quai bình và một cặp quai bình khác với đặc trưng chính của văn hóa Tây Nhương. Ngoài ra sự xuất hiện của Tây Nhương còn được bộ chính sử Sử ký ghi chép lại trong thiên Tần bản kỷ.

Đời Chu, vị trí cư trú của Tây Nhương được xác định bao gồm từ Thanh Hải tới Thiểm Tây, đời vua nhà Chu thứ 12 là Chu U Vương vì say mê mỹ nhân Bao Tự mà phế Thân hậu, chuốc lấy sự giận dữ từ chư hầu. Cha Thân hậu là vua nước Thân bất bình, bèn liên hệ với nước Tằng và hai tộc Khuyển, Nhương bên ngoài kéo vào đánh úp Cảo Kinh vào năm 771 TCN. Chu U vương không chống nổi quân địch, bị quân Khuyển Nhương đuổi theo giết chết ở núi Ly Sơn, sự kiện này đánh dấu kết thúc thời kỳ Tây Chu, bước vào thời kỳ Xuân Thu.

Nhà Chu truy phong cho nước Tần cai quản khu vực tộc Nhương, có thuyết nói nước Tần thuộc nhóm người Nhương. Tần Mục Công thường xuyên thảo phạt người Nhương mà dựng nên nghiệp , sau nhiều lần xung đột với nước Tần, cuối cùng một bộ phận người Nhương bị Tần sáp nhập, phần còn lại có khả năng chạy vào khu vực của người Hung Nô. Theo giả thuyết về dân tộc và chủng tộc, thì người Nhương thuộc hệ Tây Tạng hoặc các nhóm dân tộc nói ngôn ngữ Turk, nhưng không có mấy bằng chứng nào đủ sức thuyết phục.

Xem thêm

Tham khảo

  1. ^ Cioffi-Revilla, Claudio; Lai, David (1995). “War and Politics in Ancient China, 2700 BC to 722 BC”. The Journal of Conflict Resolution. 39 (3): 471–72.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  2. ^ Guo, Shirong; Feng, Lisheng (1997). “Chinese Minorities”. Trong Selin, Helaine (biên tập). Encyclopaedia of the history of science, technology and medicine in non-western cultures. Dordrecht: Kluwer. tr. 197. ISBN 978-0-79234066-9. During the Warring Stares (475 BC–221 BC), feudalism was developed and the Huaxia nationality grew out of the Xia, Shang, and Zhou nationalities in the middle and upper reaches of the Yellow River. The Han evolved from the Huaxia.