Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lực lượng Vũ trang Hoàng gia Campuchia”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động Sửa đổi di động nâng cao
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Dòng 49: Dòng 49:


=== Quân đội Quốc gia Khmer===
=== Quân đội Quốc gia Khmer===
Tình hình quân sự đã thay đổi đáng kể sau cuộc đảo chính tháng 3 năm 1970. Dưới chế độ [[Cộng hòa Khmer]], FARK được đổi tên thành Quân đội Quốc gia Khmer (Tiếng Pháp: ''Forces armées nationales khmères'', hoặc FANK). FANK được mở rộng tới 200.000 nhân viên quân sự, được tổ chức thành các lữ đoàn và sư đoàn, để đối phó với tình trạng khẩn cấp trong cuộc [[Nội chiến Campuchia]]; tất cả các lực lượng vũ trang được chỉ huy bởi tổng thống. Khi đối mặt với [[Việt Cộng]] hay [[Khmer Đỏ]], FANK hoạt động hết công suất và thường chiến thắng. Hoàng tử [[Norodom Sihanouk]] phát sóng tuyên truyền trên đài phát thanh, kêu gọi người nghe đi vào rừng rậm và tham gia cùng cộng sản để chiến đấu với lực lượng FANK. Một số chỉ huy FANK tham nhũng là những người ủng hộ hoàng gia đã bán vũ khí và trí thông minh của họ cho phe đối lập Khmer Đỏ. Nhiều chỉ huy FANK, như [[Norodom Chantaraingsey]], đã ở tiền tuyến khởi động các hoạt động chống lại lực lượng [[cộng sản]]. [[Quốc hội Hoa Kỳ]] đã mất niềm tin vào FANK vào cuối năm 1973, tạm dừng viện trợ quân sự do tham nhũng.

=== Quân Cách mạng Kampuchea===
=== Quân Cách mạng Kampuchea===



Phiên bản lúc 12:10, ngày 29 tháng 7 năm 2020

Lực lượng vũ trang Hoàng gia Campuchia
កងទ័ពយុទ្ធពលខេឞរភូមិន្ទ
Kangtorp Yuthipol Khemarak Phumin
Forces Armées Royales Cambodgiennes
Thành lập1953
Các nhánh
phục vụ
Lục quân Hoàng gia Campuchia
Hải quân Hoàng gia Campuchia
Không quân Hoàng gia Campuchia
Hiến binh Hoàng gia Campuchia
Sở chỉ huyPhnom Penh
Lãnh đạo
Tổng tư lệnhQuốc vương Norodom Sihamoni
Bộ trưởng Quốc phòngThống tướng Tea Banh
Tổng tham mưu trưởngĐại tướng Chea Saran
Nhân lực
Tuổi nhập ngũ18-60
Sẵn sàng cho
nghĩa vụ quân sự
4,000,000 nam giới, 18–50 (ước tính năm 2010.),
3,900,000 nữ giới, 18–50 (ước tính năm 2010.) tuổi 
Đủ tiêu chuẩn cho
nghĩa vụ quân sự
3,000,000 nam giới, 18–50 (ước tính năm 2010.),
2,900,000 nữ giới, 18–50 (ước tính năm 2010.) tuổi 
Đạt tuổi nghĩa vụ
quân sự hàng năm
150,000 nam giới (ước tính năm 2010.),
150,000 nữ giới (ước tính năm 2010.)
Số quân tại ngũ125,000
Số quân dự bị200,000
Phí tổn
Ngân sách$500 triệu (FY01 ước tính.)
Phần trăm GDP3% (2010 ước tính năm.)
Công nghiệp
Nhà cung cấp nước ngoài Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa[1]
 Nga
 Bulgaria[2]
 Pakistan
 Iran
Bài viết liên quan
Lịch sửLịch sử quân đội Campuchia

Quân đội Hoàng gia Campuchia (tiếng Khmer: យោធពលខេមរភូមិន្ទ, Kangtrop Yothipol Khemarak Phumin, tiếng Anh: Royal Cambodian Armed Forces - RCAF) là lực lượng quân sự quốc gia của Campuchia, gồm có Lục quân, Hải quân, Không quân và Lực lượng Hiến binh. Tổng tư lệnh đương nhiệm là đức vua Norodom Sihamoni.

Lịch sử

Lực lượng Vũ trang Hoàng gia Khmer

Lực lượng Vũ trang Hoàng gia Khmer (Tiếng Pháp: armées royales khmères, hay FARK) được thành lập vào ngày 9 tháng 11 năm 1953 theo một hội nghị Pháp-Khmer. Điều này góp phần chấm dứt vai trò thuộc địa và bảo hộ của Pháp, và Campuchia có được tổ chức quân sự của riêng mình. Vai trò của FARK là đảm bảo chủ quyền của quốc gia và nhà vua; để đảm bảo an ninh, trật tự xã hội và tôn trọng luật pháp, và bảo vệ Vương quốc Campuchia. Với 50.000 quân nhân, FARK được tổ chức ở cấp tiểu đoàn dưới quyền Tư lệnh tối cao của Lực lượng Vũ trang (nguyên thủ quốc gia). Ở giai đoạn đầu của đất nước, các lực lượng vũ trang của nó thường được trang bị ít hơn một chút so với súng trường bằng gỗ để chiến đấu với các lực lượng Việt Minh. Điều này đã buộc Quốc vương Norodom Sihanouk ký các hiệp định hiệp ước biên giới với Việt Nam không thuận lợi cho Campuchia, dẫn đến việc Campuchia mất nhiều lãnh thổ.

Quân đội Quốc gia Khmer

Tình hình quân sự đã thay đổi đáng kể sau cuộc đảo chính tháng 3 năm 1970. Dưới chế độ Cộng hòa Khmer, FARK được đổi tên thành Quân đội Quốc gia Khmer (Tiếng Pháp: Forces armées nationales khmères, hoặc FANK). FANK được mở rộng tới 200.000 nhân viên quân sự, được tổ chức thành các lữ đoàn và sư đoàn, để đối phó với tình trạng khẩn cấp trong cuộc Nội chiến Campuchia; tất cả các lực lượng vũ trang được chỉ huy bởi tổng thống. Khi đối mặt với Việt Cộng hay Khmer Đỏ, FANK hoạt động hết công suất và thường chiến thắng. Hoàng tử Norodom Sihanouk phát sóng tuyên truyền trên đài phát thanh, kêu gọi người nghe đi vào rừng rậm và tham gia cùng cộng sản để chiến đấu với lực lượng FANK. Một số chỉ huy FANK tham nhũng là những người ủng hộ hoàng gia đã bán vũ khí và trí thông minh của họ cho phe đối lập Khmer Đỏ. Nhiều chỉ huy FANK, như Norodom Chantaraingsey, đã ở tiền tuyến khởi động các hoạt động chống lại lực lượng cộng sản. Quốc hội Hoa Kỳ đã mất niềm tin vào FANK vào cuối năm 1973, tạm dừng viện trợ quân sự do tham nhũng.

Quân Cách mạng Kampuchea

Phân chia

Quân đội Hoàng gia Campuchia được phân chia theo khu vực địa lý thành năm vùng quân sự và một vùng đặc biệt. Mỗi vùng bao gồm một số tiểu vùng tương ứng với ranh giới các thành phố và tỉnh thông thường[3]:

Quân số và việc giải ngũ

Lực lượng rà phá bom mìn Campuchia ở Sudan.
Lính thủy đánh bộ Campuchia bên ngoài tàu USS Tortuga trong lúc huấn luyện quân sự.

Vào năm 2002, Hoàng thân Sisowath Sirirath, sau đó là đồng bộ trưởng Bộ Quốc phòng, đã phát biểu rằng tổng số quân của Campuchia khoảng 112.000 người[4]. Với việc kết thúc chiến tranh và những tên Khmer đỏ cuối cùng đầu hàng, quân đội Campuchia đã có những thay đổi lớn khi nó chuyển từ thời chiến sang thời bình.

Từ năm 1999 đến nay, chính phủ đã cho giải ngũ một số lượng lớn quân nhân với sự hỗ trợ của Ngân hàng Thế giới. Việc giải ngũ bắt đầu vào tháng 2 năm 2000 và cuối năm đó đã có 1.500 binh lính đầu tiên được giải ngũ trong một dự án quy mô nhỏ. Vào năm 2001, giai đoạn đầu của chiến dịch giải ngũ đã được tiến hành và có 15.000 binh sĩ trở về với cuộc sống đời thường với những nghi lễ lớn được tổ chức trên khắp đất nước. Giai đoạn thứ hai dự kiến diễn ra vào năm 2003 khi có thêm 30.000 quân nhân được phục viên. Tuy nhiên, quá trình này đã phải ngừng lại bởi những lý do về tham nhũng và những sai lầm có thể có[3].

Thành phần Số quân
Lục quân 175,000
Hải quân 12,400
Không quân 2,500
Lực lượng đặc biệt 6,500
Hiến binh Hoàng gia 7,000
Total 203,400

Lịch sử

Lực lượng Hiến binh Hoàng gia Campuchia

Lực lượng Hiến binh Hoàng gia Campuchia là một đơn vị bán quân sự với 7.000 lính có mặt ở tất cả các tỉnh. Quyền chỉ huy các đơn vị của lực lượng này thuộc về Tư lệnh Lực lượng vũ trang Hoàng gia Campuchia và được chỉ huy bởi một vị trung tướng, hiện nay là trung tướng Sao Sokha. Lực lượng Hiến binh Hoàng gia Campuchia được triển khai ở tất cả các tỉnh và thành phố để gìn giữ luật pháp. Sau khi bộ luật hình sự được thông qua, quân cảnh Campuchia đã đóng một vai trò quan trọng trong xã hội Campuchia. Nó đã giữ gìn luật pháp tại các thành phố thay cho Cảnh sát Quốc gia, lực lượng đã bị giải tán theo một sắc lệnh vào năm 2002. Hiến binh ở các tỉnh được chỉ huy bởi một đại tá, sau ngày 1 tháng 1 năm 2009 bởi một thiếu tướng, trừ thủ đô Phnôm Pênh đã được chỉ huy bởi thiếu tướng ngay từ khi nó được thành lập.[5]

Hệ thống cấp bậc quân hàm

Hệ thống danh xưng quân hàm Quân đội Hoàng gia Campuchia sử dụng thống nhất trong cả hải lục không quân.

  • ពលទោ: Binh nhì
  • ពលឯក: Binh nhất
  • នាយទោ: Hạ sĩ
  • នាយឯក: Hạ sĩ nhất
  • ពលបាលត្រី: Chuẩn trung sĩ
  • ពលបាលទោ: Trung sĩ
  • ពលបាលឯក: Trung sĩ nhất
  • ព្រឹន្ទបាលទោ: Thượng sĩ
  • ព្រឹន្ទបាលឯក: Thượng sĩ nhất
  • នាយចំណង់: Chuẩn úy
  • អនុត្រី: Thiếu úy
  • អនុទោ: Trung úy
  • អនុឯក: Đại úy
  • វរត្រី: Thiếu tá
  • វរទោ: Trung tá
  • វរឯក: Đại tá
  • ឧត្តមត្រី: Chuẩn tướng
  • ឧត្តមទោ: Thiếu tướng
  • ឧត្តមឯក: Trung tướng
  • ឧត្តមសេនីយ៍: Đại tướng
  • ឧត្តមនាយក: Thống tướng

Có thể thấy, hệ thống cấp hiệu của Quân đội Hoàng gia Campuchia chịu ảnh hưởng gần như hoàn toàn của hệ thống cấp hiệu quân hàm Pháp với một chút khác biệt nhỏ.

Xem thêm

Tham khảo

  1. ^ “China Defense Blog: Mini PLA in the making?”. Truy cập 24 tháng 3 năm 2015.
  2. ^ Yemen was Bulgaria's Biggest Arms Export Partner in 2010 - UN, Novinite, ngày 9 tháng 8 năm 2011
  3. ^ a b Ian Ramage, Strong Fighting: Sexual Behavior and HIV/AIDS in the Cambodian Uniformed Services, 2002
  4. ^ Cambodia Daily ngày 3 tháng 9 năm 2001
  5. ^ RGC Official site

Đọc thêm

  • Dylan Hendrickson, 'Cambodia's security-sector reforms: limits of a downsizing strategy,' Conflict, Security, and Development, Volume 1, Issue 1.
  • Gerald Segal and Mats Berdal, 'The Cambodia Dilemma,' Jane's Intelligence Review, March 1993, p. 131-2. Includes listing of formations and equipment of the various factions.
  • Robert Karniol, 'Confined to local waters,' Naval Forces Update, Jane's Defence Weekly, ngày 20 tháng 6 năm 1992, p. 1097. Status of Cambodian navy.

Liên kết ngoài

https://www.militaria-agent.com/catalog/CAMBODIA_DIRECTORY_OF_THE_HIGH_COMMAND_BADGE_SUBORDINATED_TO_THE_MINISTRY.html