Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Emily Blunt”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 2: Dòng 2:
| name = Emily Blunt
| name = Emily Blunt
| image = Emily Blunt SAG Awards 2019.png
| image = Emily Blunt SAG Awards 2019.png
| caption = Emily tại lễ trao [[Giải thưởng của Nghiệp đoàn Diễn viên Màn ảnh 2019|Giải SAG 2019]]
| caption = Emily tại lễ trao [[Giải SAG 2019]]
| birth_name = Emily Olivia Leah Blunt<ref>{{cite web|url= https://www.britannica.com/biography/Emily-Blunt |title=Emily Blunt: British-American actress|work=Brittanica}}</ref>
| birth_name = Emily Olivia Leah Blunt<ref>{{cite web|url= https://www.britannica.com/biography/Emily-Blunt |title=Emily Blunt: British-American actress|work=Brittanica}}</ref>
| birth_date = {{birth date and age|1983|2|23}}
| birth_date = {{birth date and age|1983|2|23}}

Phiên bản lúc 21:19, ngày 17 tháng 8 năm 2020

Emily Blunt
Emily tại lễ trao Giải SAG 2019
SinhEmily Olivia Leah Blunt[1]
23 tháng 2, 1983 (41 tuổi)
Wandsworth, Luân Đôn, Anh
Tư cách công dânAnh Quốc
Hoa Kỳ
Trường lớpHurtwood House
Nghề nghiệpDiễn viên
Năm hoạt động2001–nay
Phối ngẫu
John Krasinski (cưới 2010)
Con cái2
Người thân

Emily Olivia Leah Blunt (sinh ngày 23 tháng 2 năm 1983)[2] là một nữ diễn viên người Anh.[3] Cô từng nhận được nhiều giải thưởng trong đó có một giải Quả cầu vàng và hai đề cử BAFTA.

Theo học tại trường Hurtwood House tại Dorking, Anh, Emily bắt đầu diễn xuất vào năm 2001 qua vở kịch The Royal Family. Tiếp theo sau đó, cô xuất hiện trên bộ phim truyền hình Boudica (2003) và vào vai Nữ hoàng Catherine Howard trong miniseries Henry VIII (2003). Cô bắt đầu sự nghiệp điện ảnh vào năm 2004 với bộ phim My Summer of Love. Năm 2006, Emily có bước đột phá trong sự nghiệp qua bộ phim truyền hình Gideon’s Daughter và bộ phim hài thành công của Mỹ The Devil Wears Prada. Hai bộ phim đã mang về cho cô 1 giải Quả cầu vàng cho Nữ diễn viên phụ xuất sắc trong miniseries và 1 đề cử BAFTA cho Nữ diễn phụ xuất sắc.

Emily tiếp tục đóng vai chính trong nhiều thể loại phim đa dạng như phim hài tâm lý Sunshine Cleaning (2008), phim tiểu sử The Young Victoria (2009), phim hài lãng mạn Salmon Fishing in the Yemen (2011); những bộ phim khoa học viễn tưởng như The Adjustment Bureau (2011), Looper (2012), và Edge of Tomorrow (2014); và bộ phim nhạc kịch Into the Woods (2014). Cô nhận được nhiều lời khen ngợi cho diễn xuất trong vai nhân viên FBI trong bộ phim hình sự Sicario (2015) và vai kẻ nghiện rượu trong bộ phim tâm lý hồi hộp The Girl on the Train (2016) - vai diễn đã mang về cho cô đề cử BAFTA thứ 2 cho Nữ diễn viên chính xuất sắc. Năm 2018, Emily góp mặt trong 2 bộ phim được giới phê bình đánh giá cao là A Quiet Place, đạo diễn bởi chồng cô là John Krasinski, và vào vai nhân vật cùng tên trong bộ phim nhạc kịch thần thoại Mary Poppins Returns. Cô đã thắng giải Screen Actors Guild Awards tại hạng mục Nữ diễn viên phụ xuất sắc cho vai diễn trong A Quiet Place.

Thời thơ ấu

Emily Blunt sinh tại Wandsworth, thủ đô Luân Đôn.[4][5] Cô là người con thứ hai trong gia đình có bốn anh chị em.[6] Mẹ cô là cựu giáo viên và diễn viên Joanna Blunt (tên họ thời con gái: Mackie),[7][8] bố cô, Oliver Simon Peter Blunt, là luật sư cho Nữ hoàng Anh.[9][10][11] Các anh chị em của cô là Felicity, Sebastian, và Susannah.[12][13] Ông nội của cô là Thiếu tướng Peter Blunt và một trong những người chú họ của cô, Crispin Blunt,[14] là một thành viên của Đảng Bảo thủ vùng Reigate.

Vào năm 7 tuổi đến năm 14 tuổi, Emily mắc tật nói lắp.[15][16] Cô đã được một giáo viên giúp đỡ vượt qua tật nói lắp bằng diễn xuất. Cô hiện đang là thành viên ban quản trị của American Institute for Stuttering.[17] Emily theo học tại trường Ibstock Place ở Roehampton, miền đông London cho đến năm 16 tuổi, sau đó cô tiếp tục học tại trường Hurtwood House ở Dorking, Surrey, một trường dự bị đại học tư thục nổi tiếng với chương trình giảng dạy về nghệ thuật. Tại đây, cô đã được một công ty quản lý phát hiện và ký hợp đồng.[18][không khớp với nguồn]

Sự nghiệp

Xem thêm: Danh sách phim của Emily Blunt

2001 - 2004: Khởi đầu sự nghiệp

Vào tháng 11 năm 2001, Emily có vai diễn chính thức đầu tiên bên cạnh Dame Judi Dench trong vở kịch The Royal Family do nhà hát Sir Peter Hall sản xuất, cô vào vai cháu gái của Judi Dench. Vở kịch đã được nhà phê bình phim Tom Keatinge ca ngợi, "Sự chỉ đạo của Peter Hall kết hợp với sự bày trí hoành tráng của Anthony Ward đã biến The Royal Family thành một đêm tuyệt vời để giải trí", và "vở kịch đã mang đến những diễn xuất tuyệt vời, với những màn thể hiện nặng ký của cả dàn diễn viên."[19] Emily đã được vinh danh là "Diễn viên mới xuất sắc" bởi tờ báo Evening Standard cho diễn xuất của mình. Cô tiếp tục diễn xuất trong vai Eugenie trong vở kịch Vincent in Brixton của Nicholas Wright tại Nhà hát Quốc gia, và Juliet trong vở kịch Romeo and Juliet do Indhu Rubasingham sản xuất tại Nhà hát Chichester Festival, cả hai vở kịch đều vào năm 2002.[18] Năm 2003, Emily lần đầu xuất hiện trên truyền hình trong bộ phim Boudica, phim kể về cuộc đời của nữ chiến binh thời trung cổ người Celt, người đã chiến đấu chống lại người Roma. Cùng năm đó, cô được khen ngợi nhờ vai diễn Nữ hoàng Catherine Howard của thế kỷ thứ 16 trong bộ phim truyền hình dài 2 tập Henry VIII.[18]

Năm 2004, Emily nhận được nhiều sự chú ý nhờ vai Tamsin trong bộ phim độc lập của Anh My Summer of Love, phim kể về cuộc tình của 2 cô gái trẻ đến từ 2 tầng lớp xã hội khác nhau trong bối cảnh miền quê nước Anh.[18] Đạo diễn Pawel Pawlikowski đã đánh giá cao Emily và bạn diễn Natalie Press trong một cuộc phỏng vấn "Cả Natalie và Emily đều rất thuần khiết và khác biệt, một điều hiếm thấy hiện nay. Họ tránh xa những thứ hiển nhiên, và có khả năng thể hiện những trạng thái phức tạp và tương phản. Hơn hết thảy, họ tràn đầy năng lượng và là chìa khóa của bộ phim." Nhà phê bình James Berardinelli của ReelViews đã khen ngợi bộ phim, gọi nó là "viên đá quý" bị "sự cường điệu" của những bom tấn Hollywood nuốt chửng, và chỉ ra rằng, "Cả Natalie Press và Emily Blunt […] đều xuất sắc. Họ dễ dàng thành công trong việc lột tả sự thay đổi bản ngã, sử dụng cả ngôn ngữ lời nói và không lời để biểu lộ cảm xúc. Họ hiểu rõ nhân vật của mình và dùng tài năng để làm sống dậy nhân vật."[20] Emily đã nhận giải British Film Award của Evening Standard cho Diễn viên mới triển vọng cùng với Press..[21]

2005 – 2010: The Devil Wears Prada và bước đột phá trong sự nghiệp

Emily tham gia vào bộ phim truyền hình tâm lý của Anh Gideon’s Daughter[18] bên cạnh Bill NighyMiranda Richardson, biên kịch và đạo diễn bởi Stephen Poliakoff, cô vào vai cô con gái duy nhất của Gideon Warner, một phát ngôn viên của Công đảng, thể hiện bởi Bill Nighy. Bộ phim ra mắt tại Liên hoan phim Quốc tế Hamptons vào năm 2005, và được phát sóng trên truyền hình Anh vào tháng 2 năm 2006. Được ca ngợi nhờ "diễn xuất chân thực,"[22] Emily chiến thắng giải Quả cầu vàng tại hạng mục Nữ diễn viên phụ xuất sắc trong Series, Miniseries hoặc Phim truyền hình.[23]

Sau đó, cô tiếp tục diễn xuất bên cạnh Meryl StreepAnne Hathaway trong bộ phim hài The Devil Wears Prada, nói về giới thời trang tại New York City. Emily Blunt vào vai Emily, trợ lý lâu năm của tổng biên tập tạp chí Runway, Miranda Priestly, thể hiện bởi Meryl Streep. Emily và Anne Hathaway được yêu cầu thực hiện một chế độ giảm cân khắc nghiệt cho vai diễn, đến mức Anne Hathaway sau đó tiết lộ rằng họ đã phát khóc.[24] Bộ phim đã gặt hái thành công từ giới chuyên môn lẫn thương mại, thu về 326,551,094 đô.[25] Mặc dù Meryl Streep là người được chú ý nhiều nhất, nhưng Emily cũng giành được nhiều sự khen ngợi, Clifford Pugh của tờ The Houston Chronicle đã khẳng định rằng "[Emily] đã có nhiều câu thoại hay nhất phim và thống lĩnh hầu hết mọi cảnh quay có cô ấy."[26] Emily đã nhận được 1 đề cử BAFTA và 1 đề cử Quả cầu vàng cho giải Nữ diễn viên phụ xuất sắc. Cô cũng được mời tham dự Lễ trao giải Oscar lần thứ 79 và cùng với Anne Hathaway lên trao giải cho hạng mục Phục trang xuất sắc, cả hai đã diễn giống như nhân vật của họ trong phim.[27] Emily tiếp tục tham gia cùng Susan Sarandon trong bộ phim độc lập Irresistible.

Emily tại Lễ trao giải BAFTA 2007

Sự nghiệp của Emily tiếp tục thăng tiến và năm 2007, cô tham gia 4 bộ phim: bộ phim kinh dị Wind Chill, phim tình cảm lãng mạn The Jane Austen Book Club, phim hài Dan in Real Life, và bộ phim hài tiểu sử Charlie Wilson's War.[18] Năm 2008, Emily diễn xuất trong 2 phim, Sunshine Cleaning trong vai Norah Lorkowski, một cô gái trẻ nổi loạn cùng với chị của mình, Rose, diễn xuất bởi Amy Adams, cùng nhau thành lập một công ty dọn dẹp hiện trường vụ án. Bộ phim ra mắt tại Liên hoan phim Sundance 2008 và nhận được nhiều đánh giá tích cực, đặc biệt là diễn xuất của Amy và Emily. Peter Travers của tạp chí Rolling Stone đã bình luận: "Đây là một bộ phim vui nhộn và cảm động,  nhờ có 2 nữ diễn viên tự tin xóa sạch những thứ sáo rỗng độc hại đã đe dọa xâm nhập vào bộ phim. Adams và Blunt đã hoàn thành xuất sắc công việc."[28] A. O. Scott của tờ The New York Times đồng ý và khẳng định, "Amy Adams và Emily Blunt […] đã tiếp cận vai diễn của mình với sự sống động và tận tâm…"[29] Emily tiếp tục tham gia bộ phim The Great Buck Howard vào vai Valerie Brennan, cũng được ra mắt cùng dịp với Sunshine Cleaning.[18]

Năm 2009, Emily hóa thân thành Nữ hoàng Victoria trong bộ phim độc lập The Young Victoria, đạo diễn bởi Jean-Marc Vallée và biên kịch bởi Julian Fellowes, bộ phim chủ yếu xoay quanh những năm đầu đời và quãng thời gian cai trị của Nữ hoàng, cũng như cuộc hôn nhân của bà vởi Hoàng tử Albert xứ Saxe-Coburg và Gotha. Emily thừa nhận có rất ít hiểu biết về Nữ hoàng, nhưng sau khi nhận được lời tư vấn của mẹ, Emily nhận ra Nữ hoàng là một người "ấn tượng" và "có phong thái của một phụ nữ thế kỷ 21."[30] Diễn xuất của Emily đã nhận được sự ngợi ca của giới phê bình và cô đã nhận được 1 đề cử Quả cầu vàng cho giải Nữ diễn viên xuất sắc trong phim chính kịch[31] và đề cử Critics’ Choice Awards cho giải Nữ diễn viên chính xuất sắc[32], bên cạnh nhiều giải thưởng khác. Owen Gleiberman của Entertainment Weekly đã kết luận rằng, "Những hình ảnh của đạo diễn Jean-Marc Vallée có một sự mượt mà và trang trọng, nhưng hình tượng Nữ hoàng không hề bị dát vàng – câu chuyện về một kẻ nắm quyền học cách kiểm soát đám đông, và Blunt đã biến hành trình đó trở nên chân thực và xác đáng." [33] Cùng năm đó, Emily đã nhận giải thưởng Nghệ sĩ Anh quốc của năm tại BAFTA Britannia Award.[34]

Cô tham gia trong bộ phim kinh dị ngắn Curiosity, và là lựa chọn đầu tiên của đạo diễn Jon Favreau cho vai Black Widow trong Iron Man 2, nhưng vì xung đột lịch trình với bộ phim hài Gulliver's Travels, cô buộc phải nhường lại vai diễn cho Scarlett Johansson.[35] Cô cũng lồng tiếng cho Matilda Mouseling, mẹ của nhân vật tiêu đề trong series truyền hình Angelina Ballerina: The Next Steps. Năm 2010, cô diễn xuất bên cạnh Benicio del ToroAnthony Hopkins trong bộ phim kinh dị The Wolfman, một tác phẩm làm lại từ bộ phim kinh điển cùng tên năm 1941. Bộ phim nhận được nhiều phản hồi tiêu cực, và theo tờ Los Angeles Times, là một trong những thất bại phòng vé lớn nhất mọi thời đại.[36][37] Bộ phim hồi hộp cô diễn cặp cùng Matt Damon,The Adjustment Bureau (2011), lại thành công hơn hẳn; trong phim Emily vào vai 1 diễn viên múa "bị một thế lực bí ẩn chia cắt" khỏi nhân vật của Damon, là một chính trị gia. Bộ phim thu về nhiều nhận xét tích cực, giới phê bình ca ngợi sự ăn ý giữa Emily và Matt.[38] Emily tiếp tục nhận được lời mời vào vai Đặc vụ Peggy Carter trong Captain America: The First Avenger nhưng giống như Iron Man 2, cô lại một lần nữa từ chối.[39]

2011 – 2014: Phim khoa học viễn tưởng và phim hài

Năm 2011, Emily tham gia bộ phim hài của Anh Salmon Fishing in the Yemen, đạo diễn bởi Lasse Hallström, cùng tham gia trong phim là Ewan McGregorKristin Scott Thomas. Cô vào vai một cố vấn tài chính cần tuyển dụng một chuyên gia về thủy sản, diễn xuất bởi Ewan McGregor, để giúp đỡ một thương gia hồi giáo mang môn thể thao câu cá đến với vùng sa mạc Yemen.[40] Phim ra mắt tại Liên hoan phim Quốc tế Toronto[41] và nhận được nhiều phản hồi tích cực cho diễn xuất của Emily và Ewan. Kenneth Turan của tờ Los Angeles Times nhấn mạnh "Blunt và McGregor là 2 trong số những diễn viên tài năng và quyến rũ nhất ngày nay, có khả năng diễn xuất với một phong cách tuyệt vời…"[42] Vai diễn đã mang về cho Emily một đề cử Quả cầu vàng cho Nữ diễn viên xuất sắc trong phim hài/ca nhạc. Cùng năm đó, Emily có 1 vai khách mời trong The Muppets của Disney, vai nhân viên lễ tân của Miss Piggy; và tham gia trong bộ phim hài tâm lý độc lập Your Sister's Sister, bên cạnh Rosemarie DeWittMark Duplass.[43] Tháng 11 năm 2011, Emily trở thành đại sứ cho nhãn hiệu nước hoa mới của Yves Saint Laurent, Opium.[44]

Emily tại San Diego Comic-Con ở Trung tâm Hội nghị San Diego năm 2013.

Năm 2012, Emily tham gia bộ phim hài The Five-Year Engagement cùng Jason Segel, đạo diễn bởi Nicholas Stoller, trong phim cô và Jason Segel vào vai một cặp tình nhân gặp trục trặc tình cảm vì lễ đính hôn của họ luôn bị hoãn lại. Bộ phim nhận được nhận xét tích cực, Elizabeth Weitzman của New York Daily News nhấn mạnh rằng "Blunt chưa từng trông thoải mái như lúc này, sự ăn ý cô và Segel mang lại cảm giác ấm áp."[45] Emily tiếp tục tham gia trong Looper, bộ phim viễn tưởng noir hiện đại đạo diễn bởi Rian Johnson cùng với các bạn diễn Bruce WillisJoseph Gordon-Levitt. Emily đóng vai Sara, một bà mẹ đơn thân mạng mẽ sống trong một trang trại trồng ngô, gặp gỡ và nảy sinh tình cảm với nhân vật của Joseph Gordon-Levitt. Bộ phim được chọn công chiếu mở màn tại Liên hoan phim Quốc tế Toronto, và nhận được nhiều lời khen ngợi. Todd McCarthy của The Hollywood Reporter công nhận Emily đã, "thể hiện một cách đầy ấn tượng cả mặt mạnh mẽ lẫn yếu đuối của Sara."[46] Cùng năm đó, Emily cũng tham gia bộ phim hài tâm lý Arthur Newman cùng với Colin Firth, vào vai cô nàng rắc rối Charlotte, đang cố trốn chạy khỏi quá khứ.[47] Bộ phim nhận được nhiều phản ứng trái chiều và tiêu cực.[48][49]

Năm 2014, Emily đóng cặp với Tom Cruise trong Edge of Tomorrow, bộ phim chuyển thể từ tiểu thuyết của Nhật All You Need Is Kill của tác giả Hiroshi Sakurazaka.[50] Emily vào vai Rita Vrataski, một chiến binh của Lực lượng Đặc biệt với nhiệm vụ huấn luyện nhân viên quan hệ công chúng, diễn xuất bởi Tom Cruise chống lại sự xâm chiếm của sinh vật ngoài hành tinh. Emily đã phải tập luyện 3 tháng cho vai diễn, "mọi thứ từ tập thể hình cho đến chạy nước rút, yoga, tập đi dây trên không và thể dục dụng cụ." và học võ Krav Maga.[51] Bộ phim thu về thành công thương mại, doanh thu 370,541,256 đô,[52] lẫn đánh giá tích cực từ giới phê bình. Nhiều nhà phê bình đã nhấn mạnh về sự khác biệt trong cách thể hiện nhân vật của Emily, Justin Chang của Variety viết, "Blunt đã rất thận trọng, tràn đầy năng lượng và cảm xúc cho một vai diễn không cần quá nhiều sự cố gắng."[53] Vai diễn đã mang về cho Emily một giải thưởng Critics' Choice Movie Award ở hạng mục Nữ diễn viên chính xuất sắc trong phim hành động.[54] Phần tiếp theo của bộ phim đang được thực hiện, Emily và Tom Cruise được mong đợi sẽ trở lại.[55]

Emily tiếp tục vào vai vợ của Người làm bánh trong bộ phim chuyển thể từ vở nhạc kịch cùng tên, Into the Woods của hãng phim Walt Disney, đạo diễn bởi Rob Marshall cùng dàn diễn viên nổi tiếng James Corden, Anna Kendrick, Chris Pine, và bạn diễn của Emily trong The Devil Wears Prada, Meryl Streep trong vai Phù thủy.[56][57] Trớ trêu thay, trong lúc ghi hình Emily lại mang thai trong khi nhân vật của cô lại không có khả năng có con.[58][59] Phim đạt được thành công về mặt thương mại và nhận được nhiều phản hồi tích cực, Emily cũng được khen ngợi về diễn xuất và khả năng ca hát. Lou Lumenick của tờ The New York Post cho rằng Emily là một trong những nữ diễn viên xuất sắc nhất năm,[60] trong khi Richard Corliss của Time nhấn mạnh rằng "Khi Blunt xuất hiện trên màn ảnh, khu rừng như sống dậy với phép thuật từ những mảnh ghép của câu chuyện cổ tích…"[61] Emily đã nhận được một đề cử Quả cầu vàng cho Nữ diễn viên xuất sắc trong phim hài/ca nhạc.[62]

2015 – hiện nay: Phim tâm lý và diễn xuất được công nhận

Emily tại buổi công chiếu Edge of Tomorrow ở Pháp năm 2014.

Năm 2015, Emily tham gia bộ phim tâm lý tội phạm Sicario, đạo diễn bởi Denis Villeneuve cùng các bạn diễn Benicio del ToroJosh Brolin. Emily vào vai Kate Macer, một đặc vụ FBI nguyên tắc được giao nhiệm vụ đánh hạ thủ lĩnh của một băng đảng buôn ma túy lớn tại Mexico. Bộ phim được chọn tham gia tranh giải Cành cọ vàng tại Liên hoan phim Cannes 2015 và nhận được nhiều lời khen ngợi. Diễn xuất của Emily cũng được đánh giá cao, được Dan Jolin của tạp chí Empire nhận xét là "đa diện" và nói rằng "Sự quyết tâm của cô ấy đã biến thành nỗi thống khổ,"[63] trong khi Peter Bradshaw của The Guardian cho rằng nhân vật của cô thật đáng kinh ngạc, ông đã khen ngợi Emily vì đã "lỳ lợm đương đầu với mọi sự vô lý, bằng lối diễn tập trung và trực diện."[64] Emily đã nhận được đề cử Critics’ Choice Awards thứ 2 cho Nữ diễn viên xuất sắc trong phim hành động.[65]

Năm 2016, Emily cùng Chris Hemsworth, Charlize TheronJessica Chastain tham gia The Huntsman: Winter's War, bộ phim vừa là tiền truyện vừa là hậu truyện của Snow White and the Huntsman. Đạo diễn bởi Cedric Nicolas-Troyan, bộ phim vừa thất bại ở phòng vé vừa bị các nhà phê bình chê bai.[66][67] Emily sau đó được chọn cho vai chính trong The Girl on the Train, bộ phim chuyển thể từ cuốn tiểu thuyết ăn khách cùng tên của Paula Hawkins, đạo diễn bởi Tate Taylor, cùng với sự tham gia của Luke Evans, Rebecca Ferguson, và Justin Theroux. Emily đóng vai Rachel, một người phụ nữ nghiện rượu đã li dị chồng đang bị tình nghi là thủ phạm của một vụ mất tích. Mặc dù giới phê bình đưa ra nhiều phản ứng trái chiều, cho rằng bộ phim đã thất bại trong việc chuyển thể tiểu thuyết lên màn ảnh, nhưng diễn xuất của Emily đều được thống nhất là xuất sắc. Peter Travers của Rolling Stone nhấn mạnh, "bộ phim có tiết tấu gấp gáp hơn so với truyện, nhưng Blunt đã đắm chìm vào một nhân vật say xỉn không tỉnh táo và có khả năng là kẻ giết người và cô ấy đã biến Cô gái đó thành người dẫn dắt câu chuyện."[68] Vai diễn trong The Girl on the Train đã mang về cho Emily một đề cử Screen Actors Guild (SAG) và một đề cử BAFTA cho Nữ diễn viên chính xuất sắc.[69][70]

Emily năm 2018.

Trong năm 2017, Emily chỉ tham gia lồng tiếng cho 2 bộ phim hoạt hình là My Little Pony: The MovieAnimal Crackers. Đến năm 2018, cô trở lại màn ảnh cùng chồng của mình là John Krasinski trong bộ phim kinh dị A Quiet Place, xoay quanh một gia đình phải học cách sinh tồn để trốn thoát khỏi một sinh vật nguy hiểm săn mồi bằng tiếng động.[71] Ban đầu cả John và Emily đều không hề dự định sẽ cùng nhau tham gia bộ phim; nhưng sau khi đọc kịch bản, Emily đã thuyết phục John cho cô đóng vai chính.[72] A Quiet Place được công chiếu vào đêm mở màn của Liên hoan phim South by Southwest và thu về nhiều lời khen ngợi về mặt chuyên môn.[73][74] Eric Kohn của IndieWire vỗ tay khen ngợi dàn diễn viên vì đã mang lại "sự căng thẳng tuyệt vời cho những cảnh quay với một sự tinh tế hiếm có đối với thể loại phim này," trong khi Laura Prudom của IGN viết rằng, "Đặc biệt là Blunt, cô ấy bị đặt vào những tình huống trớ trêu một cách gần như là nực cười, nếu như không có một màn diễn xuất vô cùng thuyết phục như vậy."[75][76]

Cùng năm đó, Emily hóa thân thành nhân vật cùng tên (vai diễn trước đây được thể hiện bởi Julie Andrews) trong bộ phim nhạc kịch thần thoại Mary Poppins Returns được đạo điễn bởi Rob Marshall, bộ phim là hậu truyện của bản phim năm 1964.[77] Viết cho tờ Variety, Owen Gleiberman đã gọi Emily là "hoàn hảo trên mọi khía cạnh" và nói thêm rằng cô đã "sống trong tinh thần của Mary Poppins một cách đầy mê hoặc, và trong âm nhạc, cô ấy đã tạo nên ánh hào quang của riêng mình."[78] Emily đã nhận được 2 đề cử SAG Awards cho các vai diễn trong A Quiet PlaceMary Poppins Returns, cũng như đề cử Quả cầu vàng thứ 6 trong sự nghiệp cho Mary Poppins Returns.[79][80]

Năm 2020, Emily sẽ tham gia cùng Dwayne Johnson trong Jungle Cruise, bộ phim được dựa trên phong cách chủ đề Adventureland của các công viên thuộc Disney, phim được đạo diễn bởi Jaume Collet-Serra.[81]

Đời tư

Emily và chồng, John Krasinski, tại Lễ trao giải Quả cầu vàng lần thứ 70 năm 2013.

Emily Blunt từng hẹn hò với ca sĩ người Canada Michael Bublé 3 năm. Họ gặp nhau năm 2005 ở hậu trường lễ trao giải Logie Awards của Úc tại Melbourne. Họ cùng sở hữu một căn nhà ở Vancouver, British Columbia, trước khi chia tay vào năm 2008.[82]

Tháng 11 năm 2008, Emily bắt đầu hẹn hò với nam diễn viên người Boston John Krasinski. Họ đính hôn vào tháng 8 năm 2009[83], và kết hôn vào tháng 7 năm 2010 tại Como, Italy.[84] Họ có hai con gái Hazel (sinh năm 2014)[85][86][87] và Violet (sinh năm 2016).[88][89]

Anh rể của Emily, Stanley Tucci, là bạn diễn của cô trong bộ phim The Devil Wears Prada. Năm 2012, Tucci kết hôn với chị gái của Emily là Felicity, một nhà đại diện xuất bản văn học. Emily chính là người làm mai cho hai người.[90][91] Em trai của Emily là Sebastian cũng là một diễn viên.[92] Tháng 8 năm 2015, Emily nhập quốc tịch Mỹ.[93] Hiện cô đang mang cả hai quốc tịch Anh và Mỹ để thuận tiện cho việc đóng thuế và xin visa. Emily nói cô cảm thấy cắn rứt khi đã bỏ đi lòng trung thành duy nhất của mình dành cho Anh Quốc.[94]

Năm 2015, Emily xếp hạng 98 trong danh sách Những người phụ nữ quyến rũ nhất thế giới của FHM.[95]

Phim và giải thưởng

Theo trang web tổng hợp review phim Rotten Tomatoes và trang web thống kê doanh thu phòng vé Box Office Mojo, những bộ phim đạt doanh thu cao nhất và được giới phê bình đánh giá cao nhất của Emily bao gồm bộ phim hài The Devil Wears Prada (2006), 2 bộ phim khoa học viễn tưởng Looper (2012) và Edge of Tomorrow (2014), phim nhạc kịch thần thoại Into the Woods (2014), phim tâm lý tội phạm Sicario (2015), phim tâm lý hồi hộp The Girl on the Train (2016), phim kinh dị A Quiet Place (2018), và phim nhạc kịch thần thoại Mary Poppins Returns (2018).[96][97]

Tham khảo

  1. ^ “Emily Blunt: British-American actress”. Brittanica.
  2. ^ “Monitor”. Entertainment Weekly (1248). ngày 1 tháng 3 năm 2013. tr. 25.
  3. ^ Fisher, Luchina (ngày 9 tháng 9 năm 2015). “What Happened When Emily Blunt Became a US Citizen”. ABC News. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2016.
  4. ^ “Person Details for Emily Olivia L Blunt, "England and Wales Birth Registration Index, 1837-2008" — FamilySearch.org”. familysearch.org. Truy cập ngày 4 tháng 10 năm 2015.
  5. ^ “Emily Blunt: Biography”. TVGuide.com. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2014.
  6. ^ Taylor, Ella (ngày 1 tháng 3 năm 2009). “Down to Earth, Even When Off the Wall”. The New York Times. ISSN 0362-4331. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2015.
  7. ^ Taylor, Ella (ngày 1 tháng 3 năm 2009). “Down to Earth, Even When Off the Wall”. The New York Times. ISSN 0362-4331. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2015.
  8. ^ “Emily Blunt interview: on Tom Cruise, her new baby and acting mean”. Telegraph.co.uk. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2015.
  9. ^ Day, Elizabeth (ngày 21 tháng 6 năm 2009). “Enter a new leading lady”. The Guardian. London. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2009.
  10. ^ Stein, Ruthe (ngày 27 tháng 9 năm 2007). “Blunt moves from the runway to the royal family”. San Francisco Chronicle. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2009.
  11. ^ “Oliver Blunt, Esq, QC Authorised Biography – Debrett's People of Today”. debretts.com.
  12. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên refdec13
  13. ^ Day, Elizabeth. “Elizabeth Day meets young British actress Emily Blunt”. the Guardian. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2015. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  14. ^ “Stanley Tucci Marries Felicity Blunt”. People. ngày 8 tháng 8 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2012. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  15. ^ “Emily Blunt Talks About Stuttering”. stutteringhelp.org. Stuttering Foundation of America. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2015. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  16. ^ Danny Hajek (ngày 21 tháng 12 năm 2014). “Desperate To Speak: How Emily Blunt Found Her Voice”. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2019.
  17. ^ “Emily Blunt on How She Overcame Her Stutter”. vulture.com. ngày 8 tháng 6 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2012. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  18. ^ a b c d e f g “Emily Blunt- Biography”. Yahoo Movies. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2012. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  19. ^ Keatinge, Tom. “The Royal Family”. London Theatre Archive. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2017. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  20. ^ Berardinelli, James. “My Summer Of Love”. ReelViews. Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2009.
  21. ^ Jones, Alison (ngày 22 tháng 6 năm 2012). “Emily Blunt: Doing my own dishes helps me stay grounded”. Birmingham Post. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2012. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  22. ^ Cassady Jr., Charles. “Gideon's Daughter”. Common Sense Media. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2017. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  23. ^ “Emily Blunt 2007 Golden Globes Acceptance speech”. YouTube. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2012. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  24. ^ Tan, Michelle (ngày 27 tháng 8 năm 2007). “Anne Hathaway Gets Fit for Get Smart”. People. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2018. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  25. ^ “The Devil Wears Prada”. Box Office Mojo. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày 9 tháng 7 năm 2016. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  26. ^ Elliott, Michael; undated; A Movie Parable: The Devil Wears Prada; christiancritic.com. Truy cập ngày 24 tháng 12 năm 2006. Lưu trữ 2006-11-26 tại Wayback Machine
  27. ^ “Devil Wears Prada Forced Emily Blunt To Emaciate Herself”. Cinemablend.com. ngày 11 tháng 7 năm 2006. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 1 năm 2009. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2010. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  28. ^ Travers, Peter (ngày 11 tháng 3 năm 2009). “Sunshine Cleaning: Review”. Rolling Stone. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 8 năm 2009. Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2009. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  29. ^ Scott, A. O. (ngày 13 tháng 3 năm 2009). “Movie Review: Sunshine Cleaning (2008)”. The New York Times. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2009. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  30. ^ Salisbury, Mark (ngày 1 tháng 11 năm 2009). “Emily Blunt is 'The Young Victoria'. Los Angeles Times. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2011. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  31. ^ “Nominations and Winners 2009”. Hollywood Foreign Press Association. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 3 năm 2010. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2011. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  32. ^ “The 15th Critics' Choice Movie Awards Nominees”. Broadcast Film Critics Association. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 10 năm 2010. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2011. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  33. ^ Gleiberman, Owen (ngày 30 tháng 12 năm 2009). “The Young Victoria Review”. Entertainment Weekly. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2011. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  34. ^ “Britannia Award Honorees – Awards & Events – Los Angeles – The BAFTA site”. British Academy of Film and Television Arts (BAFTA). Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 11 năm 2011. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2012. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  35. ^ “Former 'Iron Man 2' Black Widow, Emily Blunt, Speaks Out About Losing Role”. splashpage.mtv.com. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2015. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  36. ^ “The Wolfman (2010)”. Rotten Tomatoes. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 1 năm 2009. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2010. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  37. ^ Eller, Claudia,"The costliest box office flops of all time", Los Angeles Times (ngày 15 tháng 1 năm 2014) Lưu trữ 2014-05-05 tại Wayback Machine
  38. ^ “Emily Blunt To Star Opposite Matt Damon In The Adjustment Bureau”. Slashfilm.com. ngày 14 tháng 7 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2010. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  39. ^ “Marvel makes Emily Blunt an offer for 'Captain America,' but British actress probably will say no – Updated”. Los Angeles Times. ngày 2 tháng 4 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 4 năm 2010. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  40. ^ Lasse Hallström goes Fishing In The Yemen Lưu trữ 2013-07-04 tại Wayback Machine TotalFilm.com
  41. ^ Punter, Jennie (ngày 26 tháng 7 năm 2011). “Toronto unveils first pix”. Variety. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2011. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  42. ^ Turan, Kenneth (ngày 9 tháng 3 năm 2012). “Movie review: 'Salmon Fishing in the Yemen'. Los Angeles Times. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2012. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  43. ^ A. O. Scott (ngày 14 tháng 6 năm 2012). “Solitary Retreat to a Remote Island Leads to Many Mix-Ups”. The New York Times. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2012. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  44. ^ Whitworth, Melissa (ngày 4 tháng 11 năm 2011). “Emily Blunt's Opium campaign revealed”. The Daily Telegraph. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2012. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  45. ^ “Movie Review: 'The Five-Year Engagement'. New York Daily News. ngày 27 tháng 4 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2014. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  46. ^ McCarthy, Todd (ngày 6 tháng 9 năm 2012). “Looper: Toronto Review”. The Hollywood Reporter. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 4 tháng 10 năm 2012. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  47. ^ "Emily Blunt and Colin Firth in Arthur Newman, Golf Pro"[liên kết hỏng], ngày 14 tháng 5 năm 2011, Britscene
  48. ^ “Arthur Newman Reviews”. Metacritic.com. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2013. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  49. ^ “Critic Reviews for Arthur Newman”. Rottentomatoes.com. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2013. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  50. ^ Szalai, Georg (ngày 10 tháng 1 năm 2012). “Tom Cruise's 'All You Need Is Kill' to Hit Theaters in March 2014”. The Hollywood Reporter. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2012. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  51. ^ Alexander, Bryan (ngày 10 tháng 12 năm 2013). “Sneak peek: 'Edge of Tomorrow' suits Cruise and Blunt”. USA Today. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2014. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  52. ^ “Edge of Tomorrow”. boxofficemojo.com. Box Office Mojo. ngày 11 tháng 9 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2016. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  53. ^ Chang, Justin (ngày 22 tháng 5 năm 2014). “Film Review: 'Edge of Tomorrow'. Variety. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2014. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  54. ^ Douglas, Edward (ngày 16 tháng 1 năm 2015). “The Winners of the 20th Annual Critics Choice Movie Awards”. comingsoon.net. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2015. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  55. ^ Chitwood, Adam (ngày 15 tháng 1 năm 2018). “Exclusive: Doug Liman Says 'Edge of Tomorrow 2' Could Be His Next Film”. Collider. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2018. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  56. ^ “Emily Blunt Confirms Into the Woods Starring Role; Jake Gyllenhaal, Too?”. BroadwayWorld.com. ngày 5 tháng 6 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2013. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  57. ^ “Emily Blunt to Sing Better in Into the Woods Than She Did in That Karaoke Video”. Vulture.com. ngày 5 tháng 6 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2013. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  58. ^ Abramovitch, Seth (ngày 10 tháng 12 năm 2014). “Perverted Wolves, Cheating Wives and a Fired 10-Year-Old: The Dark Path to Disney's 'Into the Woods'. The Hollywood Reporter. Prometheus Global Media. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2014. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  59. ^ Gioia, Michael (ngày 2 tháng 12 năm 2014). “Emily Blunt On Hiding Her Real-Life Baby Bump, Vocal Nerves and the Much-Talked-About "Moment" in the "Woods". Playbill.com. Playbill, Inc. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2015. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  60. ^ Lumenick, Lou. “Bewitching 'Into the Woods' is this century's best musical”. New York Post. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2017. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  61. ^ Corliss, Richard (ngày 27 tháng 12 năm 2014). “Review: Into the Woods: A Disney Musical for Adults of All Ages”. Time. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2014. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  62. ^ Gray, Tim (ngày 11 tháng 12 năm 2014). “Golden Globes: 'Birdman,' 'Fargo' Top Nominations”. Variety. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2014. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  63. ^ “Empire's Sicario Review”. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 15 tháng 9 năm 2015. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  64. ^ Bradshaw, Peter (8 tháng 10 năm 2015). “Sicario review – Emily Blunt at the sharp end in war on drugs”. the Guardian. Bản gốc lưu trữ 27 tháng Mười năm 2015. Truy cập 30 tháng Mười năm 2015. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  65. ^ Hipes, Patrick (14 tháng 12 năm 2015). “Critics' Choice Awards Nominations: 'Mad Max' Leads Film; ABC, HBO, FX Networks & 'Fargo' Top TV”. Deadline Hollywood. Los Angeles, California: Penske Media Corporation. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2015. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  66. ^ “The Huntsman: Winter's War (2016)”. Box Office Mojo. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2017. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  67. ^ Scott, A. O. (21 tháng 4 năm 2016). “Review: 'The Huntsman,' a Study in Hollywood's Overstuffed Playbook”. The New York Times. New York City: New York Times Company. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2018. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  68. ^ Travers, Peter (4 tháng 10 năm 2016). 'Girl on the Train' Review: Emily Blunt Powers Sex-Lies-and-Murder Mystery”. Rolling Stone. New York City: Wenner Media LLC. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2016. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  69. ^ Ritman, Alex (9 tháng 1 năm 2017). “BAFTA Awards: 'La La Land' Leads Nominations”. The Hollywood Reporter. Los Angeles, California: Eldridge Industries. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 1 năm 2017. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2017. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  70. ^ “SAG Awards 2017: The Complete List of Nominations”. The Hollywood Reporter. Los Angeles, California: Eldridge Industries. 14 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2016.
  71. ^ Kroll, Justin (15 tháng 3 năm 2017). “John Krasinski to Write, Direct and Star With Emily Blunt in 'Quiet' Thriller”. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2018. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  72. ^ Kroll, Justin (15 tháng 3 năm 2017). “John Krasinski to Write, Direct and Star With Emily Blunt in 'Quiet' Thriller”. Variety. Bản gốc lưu trữ 8 Tháng mười hai năm 2017. Truy cập 17 Tháng mười một năm 2017. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  73. ^ Derschowitz, Jessica (31 tháng 1 năm 2018). “John Krasinski and Emily Blunt supernatural thriller A Quiet Place to open SXSW Film Festival”. Entertainment Weekly. Bản gốc lưu trữ 1 Tháng hai năm 2018. Truy cập 31 Tháng Một năm 2018. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  74. ^ Nordine, Michael (10 tháng 3 năm 2018). 'A Quiet Place' Review Roundup: John Krasinski's SXSW Thriller Is Leaving Critics Speechless”. IndieWire. Bản gốc lưu trữ 11 Tháng Ba năm 2018. Truy cập 23 Tháng Ba năm 2018. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  75. ^ Kohn, Eric (9 tháng 3 năm 2017). 'A Quiet Place' Review: John Krasinski's Monster Movie is a Riveting, Near-Silent Thriller – SXSW 2018”. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 3 năm 2018. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2018. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  76. ^ Prudom, Laura (10 tháng 3 năm 2017). “A Quiet Place Review - SXSW”. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 3 năm 2018. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2018. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  77. ^ “Mary Poppins Returns, with Emily Blunt and Lin-Manuel Miranda, gets release date”. Ew.com. 31 tháng 5 năm 2016. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2016. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  78. ^ Gleiberman, Owen (12 tháng 12 năm 2018). “Film Review: 'Mary Poppins Returns'. Variety. Truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2018.
  79. ^ “Golden Globe Nominations: Complete List”. Variety. 6 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2018.
  80. ^ “SAG Award Nominations: Complete List”. Variety. 12 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2018.
  81. ^ Keene, Allison (30 tháng 1 năm 2018). “Emily Blunt Boards Disney's 'Jungle Cruise' with Dwayne Johnson”. Collider. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 30 tháng 1 năm 2018. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  82. ^ Mascia, Kristen. “Emily Blunt and Michael Bublé Split”. People. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2011. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  83. ^ Oh, Eunice (28 tháng 8 năm 2009). “Emily Blunt & John Krasinski Are Engaged”. People. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2012. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  84. ^ “Emily Blunt, John Krasinski Wed in Italy!”. Us Weekly. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2011. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  85. ^ Eggenberger, Nicole (16 tháng 2 năm 2014). “Emily Blunt Gives Birth, Welcomes Daughter Hazel With Husband John Krasinski”. Us Weekly. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 16 tháng 2 năm 2014. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  86. ^ “John Krasinski and Emily Blunt Welcome Daughter Hazel”. People. 16 tháng 2 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 7 năm 2016. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2016. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  87. ^ “John Krasinski on Twitter: "Wanted to let the news out directly. Emily and I are so incredibly happy to welcome our daughter Hazel into the world today! Happy bday!". Twitter. 16 tháng 2 năm 2016. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2016. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  88. ^ “John Krasinski on Twitter: "What better way to celebrate the 4th... than to announce our 4th family member!!! 2 weeks ago we met our beautiful daughter Violet #Happy4th". Twitter. 4 tháng 7 năm 2016. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2016. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  89. ^ “Emily Blunt, John Krasinski Welcome Baby Girl, Violet”. 5 tháng 7 năm 2016. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 7 năm 2016. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2016. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  90. ^ “Stanley Tucci Engaged To Emily Blunt's Sister Felicity!”. US Weekly. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2012. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  91. ^ “Hunger Games Star Stanley Tucci Secretly Marries Emily Blunt's Sister, Felicity”. E Online. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2012.
  92. ^ “Sebastian Blunt, actor”. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2012. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  93. ^ “Emily Blunt Becomes A U.s. Citizen”. Contactmusic.com. 6 tháng 8 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2015. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  94. ^ Page, Janice (26 tháng 9 năm 2015). Emily Blunt, action hero. The Boston Globe. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2015. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  95. ^ “Emily Blunt – FHM”. FHM. 30 tháng 4 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2016. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  96. ^ “Emily Blunt Movie Box Office Results”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2018.
  97. ^ “Emily Blunt”. Rotten Tomatoes. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2018.

Liên kết ngoài