Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Mộc Hoa Lê”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Dòng 9: Dòng 9:
== Chinh phạt nhà Kim ==
== Chinh phạt nhà Kim ==


Năm [[1211]], Thành Cát Tư Hãn cùng bốn con trai ([[Truật Xích]] (Jochi), [[Sát Hợp Đài]] (Chagatai), [[Oa Khoát Đài]] (Ogotai), [[Đà Lôi]] (Tolui) những tướng giỏi nhất như [[Triết Biệt]] (Jube), Mộc Hoa Lê đem đại binh đánh miền bắc [[Trung Quốc]]. Tướng [[Kim]] giữ [[Vạn Lý Trường Thành]] đầu hàng. Quân Mông Cổ vượt Trường Thành, tiến đánh Tây Kinh (Đại Đồng) nhiều nơi khác. Họ tiến về [[Liêu Đông]] và Trung Đô ([[Bắc Kinh]]) - thủ đô của nước Kim. Khi quân Mông Cổ tiến cách Nam Kinh 20 [[dặm Anh|dặm]] thì bị chủ lực quân của Kim chặn đánh quyết liệt. Bị thiệt hại, Thành Cát Tư Hãn cho quân lui về phía bắc sông [[Hoàng Hà]] và sau đó rút quân về, chỉ để một bộ phận quân đội cùng tướng Mộc Hoa Lê ở lại đóng giữ những vùng đã chiếm được.
Năm [[1211]], Thành Cát Tư Hãn cùng bốn con trai [[Truật Xích]] (Jochi), [[Sát Hợp Đài]] (Chagatai), [[Oa Khoát Đài]] (Ogedei), [[Đà Lôi]] (Tolui) bên cạnh những tướng lĩnh dày dặn kinh nghiệm trận mạc như [[Triết Biệt]] (Jube) Mộc Hoa Lê dẫn quân xâm lược lãnh thổ [[nhà Kim]] ở miền bắc [[Trung Quốc]].
Khi quân Kim tập trung hinh lực giữ [[Vạn Lý Trường Thành]], quân Mông Cổ lại dẫn quân vượt Trường Thành bằng cách đi vòng qua vùng Hà Tây, tiến đánh Tây Kinh (tức [[Đại Đồng]]), nhiều nơi khác vùng Thiểm-Cam, vùng [[Liêu Đông]] và cuối cùng là Trung Đô ([[Bắc Kinh]]) - thủ đô của nước Kim. Khi quân Mông Cổ tiến cách Nam Kinh khoảng 20 [[dặm Anh|dặm]], họ bị quân chủ lực của Kim chặn đánh quyết liệt, buộc Thành Cát Tư Hãn lui quân về phía bắc sông [[Hoàng Hà]], chỉ để một bộ phận quân đội cùng tướng Mộc Hoa Lê ở lại đóng giữ những vùng đã chiếm được.


Một trong những mục đích của quân đội Mông Cổ là tiến về phía đông, chinh phục toàn lãnh địa Trung Quốc. Từ năm [[1215]], khi Thành Cát Tư Hãn rút về, một bộ phận quân đội Mông Cổ do tướng Mộc Hoa Lê chỉ huy ở lại chiếm đóng trên đất Kim và tiếp tục đánh Kim. Nhiều vùng đất của Kim, như Liêu Đông, [[Liêu Tây]], [[Hà Bắc (Trung Quốc)|Hà Bắc]], [[Sơn Tây]] và [[Thiểm Tây]] bị chiếm. Đặc biệt là Mộc Hoa Lê đã chỉ huy [[kỵ binh]] [[Mông Cổ]] chiến thắng quân kim trong [[Trận Đồng Quan (1215)|trận Đồng Quan]]. Vua Kim chỉ còn giữ được vùng [[Hà Nam]] trong tình thế khốn đốn. Bấy giờ đất thực dân của người Mông Cổ đã giáp liền với biên giới nước [[Tống]].
Một trong những mục đích của quân đội Mông Cổ là tiến về phía đông, chinh phục toàn lãnh địa Trung Quốc. Từ năm [[1215]], khi Thành Cát Tư Hãn rút về, một bộ phận quân đội Mông Cổ do tướng Mộc Hoa Lê chỉ huy ở lại chiếm đóng trên đất Kim và tiếp tục đánh Kim. Nhiều vùng đất của Kim, như Liêu Đông, [[Liêu Tây]], [[Hà Bắc (Trung Quốc)|Hà Bắc]], [[Sơn Tây]] và [[Thiểm Tây]] bị chiếm. Đặc biệt là Mộc Hoa Lê đã chỉ huy [[kỵ binh]] [[Mông Cổ]] chiến thắng quân kim trong [[Trận Đồng Quan (1215)|trận Đồng Quan]]. Vua Kim chỉ còn giữ được vùng [[Hà Nam]] trong tình thế khốn đốn. Bấy giờ đất thực dân của người Mông Cổ đã giáp liền với biên giới nước [[Tống]].

Phiên bản lúc 10:57, ngày 22 tháng 9 năm 2020

Tập tin:Statue of Mukhulai.jpg
Tượng đài Mộc Hoa Lê

Mộc Hoa Lê (Muqali, tên theo chữ Hán: 木華黎) (1170-1223), là một trong tứ kiệt của Thành Cát Tư Hãn, gồm có bốn chiến binh có sức mạnh và đồng thời là bốn vị chiến tướng anh dũng, thiện chiến trên chiến trường là Xích Lão Ôn, Bác Nhĩ Truật, Bác Nhĩ Hốt và Mộc Hoa Lê. Ông là một trong những vị tướng vĩ đại nhất đã theo Thành Cát Tư Hãn chinh chiến đông tây đặc biệt là ông đã phò tá cho Thành Cát Tư Hãn thống nhất đất nước, và đảm nhiệm vị trí chủ lực trong cuộc chinh phạt nhà Kim. Ông là một người tham gia trong nhiều trận đánh ở Thành Cát Tư Hãn thống nhất vùng Trung ÁĐông Á.

Sự nghiệp

Mộc Hoa Lê thuở nhỏ sống cùng bộ lạc của Thiết Mộc Chân, nổi tiếng nhờ sức mạnh phi thường, sở trường là đô vật, cưỡi ngựa, bắn cung, hay thuật truy vết. Năm 1206, Mộc Hoa Lê đã phò tá Thiết Mộc Chân lên ngôi Đại Hãn (tức Thành Cát Tư Hãn, lập ra đế quốc Mông Cổ.

Trong lễ đăng quang của Thành Cát Tư Hãn, Mộc Hoa Lê được trao quyền chỉ huy của một tumen (đơn vị quân sự 10.000 người) và kiểm soát các bộ lạc phía đông đế quốc. Khi Thành Cát Tư Hãn quyết định phát động chiến tranh với đế quốc Hoa Thích Tử Mô (Khwarezmid), ông đã được trao quyền kiểm soát tất cả các lực lượng thân binh Mông Cổ và được phong vương.

Chinh phạt nhà Kim

Năm 1211, Thành Cát Tư Hãn cùng bốn con trai Truật Xích (Jochi), Sát Hợp Đài (Chagatai), Oa Khoát Đài (Ogedei), Đà Lôi (Tolui) bên cạnh những tướng lĩnh dày dặn kinh nghiệm trận mạc như Triết Biệt (Jube) và Mộc Hoa Lê dẫn quân xâm lược lãnh thổ nhà Kim ở miền bắc Trung Quốc.

Khi quân Kim tập trung hinh lực giữ Vạn Lý Trường Thành, quân Mông Cổ lại dẫn quân vượt Trường Thành bằng cách đi vòng qua vùng Hà Tây, tiến đánh Tây Kinh (tức Đại Đồng), nhiều nơi khác ở vùng Thiểm-Cam, vùng Liêu Đông và cuối cùng là Trung Đô (Bắc Kinh) - thủ đô của nước Kim. Khi quân Mông Cổ tiến cách Nam Kinh khoảng 20 dặm, họ bị quân chủ lực của Kim chặn đánh quyết liệt, buộc Thành Cát Tư Hãn lui quân về phía bắc sông Hoàng Hà, chỉ để một bộ phận quân đội cùng tướng Mộc Hoa Lê ở lại đóng giữ những vùng đã chiếm được.

Một trong những mục đích của quân đội Mông Cổ là tiến về phía đông, chinh phục toàn lãnh địa Trung Quốc. Từ năm 1215, khi Thành Cát Tư Hãn rút về, một bộ phận quân đội Mông Cổ do tướng Mộc Hoa Lê chỉ huy ở lại chiếm đóng trên đất Kim và tiếp tục đánh Kim. Nhiều vùng đất của Kim, như Liêu Đông, Liêu Tây, Hà Bắc, Sơn TâyThiểm Tây bị chiếm. Đặc biệt là Mộc Hoa Lê đã chỉ huy kỵ binh Mông Cổ chiến thắng quân kim trong trận Đồng Quan. Vua Kim chỉ còn giữ được vùng Hà Nam trong tình thế khốn đốn. Bấy giờ đất thực dân của người Mông Cổ đã giáp liền với biên giới nước Tống.

Những cuộc hành quân của Mộc Hoa Lê và con trai Bột Lỗ đã uy hiếp cả Kim lẫn Tống. Nửa năm sau khi tây chinh trở về, năm 1226, Thành Cát Tư Hãn lại lên đường tiến về phía đông. Mục tiêu đầu tiên là đánh Tây Hạ. Các trung tâm lớn như Cam Châu, Túc Châu bị chiếm. Mùa Đông năm đó, quân Mông Cổ vượt Hoàng Hà giao chiến rất ác liệt với quân Tây Hạ. 30 vạn quân Tây Hạ bên bờ sông Hoàng Hà bị tiêu diệt.[1]

Thành Cát Tư Hãn ra lệnh cho Mộc Hoa Lê vây kín Yên Kinh, lại ra lệnh cho Triết Biệt đóng quân dọc đường từ Khai Phong tới Yên Kinh, chặn đánh tất cả các đoàn tiếp tế lương thảo. Về phía Kim, khi triều đình Kim rút lui, để một hoàng thân ở lại cố thủ. Một bên quyết bao vây, một bên quyết thủ. Hết mùa đông, sang mùa xuân thành Yên Kinh vẫn đứng vững. Nhưng lương thực trong thành ngày một cạn. Vì trước đây lương thực do hai nguồn tiếp tế; một là do các châu, huyện Hoa Bắc giao nộp, hai là tiếp tế từ Biện Lương lên. Nay tất cả các thành trì, châu, huyện trên vùng Hoa Bắc bị quân Mông Cổ kiểm soát. Nguồn tiếp tế từ miền nam lên bị chặn đánh.

Quá tuyệt vọng, vị tướng trấn thủ quyết xua quân đánh một trận phá vòng vây. Nhưng các tướng không tuân lệnh. Ông lấy máu viết biểu tố cáo việc này lên vua Kim, phân phát tài vật cho thuộc hạ, rồi uống thuốc độc tự vẫn. Ông chết rồi, đang đêm viên tướng trấn thủ mở cửa thành, cùng người ái thiếp bỏ trốn. Quân trong thành không tướng chỉ huy. Các tướng coi binh đoàn tranh quyền, đánh lẫn nhau, không ai giữ cửa thành. Một vài toán quân bị bại, mở toang cửa thành ra hàng Mông Cổ.

Mộc Hoa Lê xua một vạn rưỡi kị binh, dẫn theo 30 binh đoàn thân binh Trung Quốc tràn vào thành. Kị binh phi trên xác quân lính, dân chúng. Họ đốt phá khắp nơi. Tính ra có tới 5 vạn quân Kim bị giết với khoảng 50 vạn dân chúng, gia đình chết trong loạn quân. Mười vạn phụ nữ lên thành nhảy xuống tự tử, vì sợ bị hãm hiếp. Trong ba tháng, thành Yên Kinh vẫn còn bốc cháy.

Sau đó nhà Kim phải dời đô về Biện Kinh (tức Khai Phong) để tránh người Mông Cổ. Nước Kim từ đó liên tục thất bại, không kháng cự nổi. Các lực lượng vũ trang nông dân mặc áo đỏ nổi dậy chống lại nhà Kim, dưới tên gọi Hồng áo quân. Năm 1217, tướng Mộc Hoa Lê chỉ huy quân Mông Cổ tiếp tục xâm chiếm đất đai của Kim.

Năm 1223, Mộc Hoa Lê đánh vào Thiểm Tây, tấn công Trường An. Tại đây lực lượng của Kim rất mạnh, đông tới 20 vạn người. Mộc Hoa Lê chuyển sang bao vây Phượng Tường với lực lượng 10 vạn người. Cuộc bao vây kéo dài hơn 1 tháng và quân Mông Cổ bị quấy rối bởi các lực lượng địa phương trong khi quân tiếp viện của Tây Hạ không đến (Mộc Hoa Lê sau đó chết bệnh vì uất ức và quân Mông Cổ rút lui).

Khi hai bên giao chiến ở vùng Sơn Đông, dọc đường mười nhà thì chín nhà bỏ trống, người trên đường chạy nạn, quân Kim tan vỡ, quân lính thua trận chạy về cướp đoạt tiền bạc cưỡng dâm phụ nữ. Đà Lôi và Mộc Hoa Lê cầm quân đánh Kim, đại chiến mấy trận ở Sơn Đông đánh quân Kim đại bại tan rã. Quân sĩ còn lại của nước Kim tập trung ở cửa Đồng Quan, đóng chặt cửa quan cố thủ, không dám ra Sơn Đông nghênh chiến.

Năm 1223, Mộc Hoa Lê chết, thế lực của Mông Cổ suy yếu hơn nên quân Kim có thể thu phục lại một số vùng như Hoắc châu, huyện Hồng Động. Tại phủ Hà Trung, Tuyên Tông bãi Hành tỉnh lập phủ Nguyên soái, bởi vì khi đó thành trì bị phá hoại, người Kim không có khả năng lưu giữ.

Giải quyết việc gia đình của chủ nhân

Trong quá trình hầu cận cho Thành Cát Tư Hãn, Mộc Hoa Lê đã có công dàn xếp mâu thuẫn trong các bà vợ của Thành Cát Tư Hãn. Quyển Mông cổ bí sử có chép lại việc này như sau:

"Mộc Hoa Lê về tới trại, lạy chào Bật Tê xong, đứng lặng thinh không nói một lời nào cả. Bà hỏi về sức khoẻ của Khả hãn và tất cả những kẻ thân cận mà bà biết, sau cùng không hỏi gì nữa mới hỏi đến lý do cuộc hành trình của Mộc Hoa Lê". Ông nói: "Ngài không theo phong tục tập quán cũ của dân ta, bất chấp lời can gián của hàng quý tộc. Ngài thích cái lều da báo sặc sỡ, và không đợi đến đêm tối, Ngài "ăn nằm" với nàng Cúc Lan ở những chỗ thật là không tiện... Ngài đã lấy nàng Cúc Lan làm vợ để bình định những bộ lạc ở xa... và vì vậy mà Ngài sai tiểu tướng về trình cho lệnh bà hay biết". Bật Tê nói: "Khả hãn nên ban cho Cúc Lan một cái lều mới."

Sau cuộc dàn xếp này, Thiết Mộc Chân nghe như trút được gánh nặng ngàn cân, tiếp tục về Onon trong niềm hoan hỉ. Rồi truyền lệnh dựng riêng cho Cúc Lan một đoàn trại, có bầy gia súc riêng ở gần trại của Bật Tê.

Chú thích

  1. ^ Hà Văn Tấn, Phạm Thị Tâm: Cuộc kháng chiến chông xâm lược Nguyên - Mông thế kỷ XIII, trang 40-50