Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nguyễn Hoành Từ”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n clean up, replaced: Tiến sỹ → tiến sĩ (3) using AWB
n →‎Hoành bác đại vương, phúc thần làng Phật Não: chính tả, replaced: nguyễn → Nguyễn using AWB
Dòng 45: Dòng 45:
==Hoành bác đại vương, phúc thần làng Phật Não==
==Hoành bác đại vương, phúc thần làng Phật Não==
Năm 1599, dưới thời vua Lê Thế Tông và chúa Trịnh Tùng, cụ qua đời tại kinh đô Thăng Long, được triều đình cho quân rước thi hài về an táng tại quê nhà bên cạnh mộ phụ thân của cụ. Vua Lê còn truy phong cụ làm "Phúc thần, Hoành bác đại vương", sai quan dân sở tại lập đền thờ theo chế độ "quốc tạo, quốc tế".
Năm 1599, dưới thời vua Lê Thế Tông và chúa Trịnh Tùng, cụ qua đời tại kinh đô Thăng Long, được triều đình cho quân rước thi hài về an táng tại quê nhà bên cạnh mộ phụ thân của cụ. Vua Lê còn truy phong cụ làm "Phúc thần, Hoành bác đại vương", sai quan dân sở tại lập đền thờ theo chế độ "quốc tạo, quốc tế".
Đến triều nhà Nguyễn, Cụ nghè nguyễn Hoành Từ lại được sắc phong sắc là "Dực bảo trung hưng, trung đẳng thần".
Đến triều nhà Nguyễn, Cụ nghè Nguyễn Hoành Từ lại được sắc phong sắc là "Dực bảo trung hưng, trung đẳng thần".
Phần mộ của Đô vệ hầu Nguyễn Đình Tùng và Tiết Nghĩa quận công Nguyễn Hoành Từ trong khu đất rộng khoảng 2 mẫu tại làng Phật Não rất linh thiêng. Nhà thờ hai cha con Cụ được con cháu và người dân nơi đây quanh năm phụng thờ, tổ chức Lễ hội ông nghè vào các chẵn, 5 năm 1 lần.
Phần mộ của Đô vệ hầu Nguyễn Đình Tùng và Tiết Nghĩa quận công Nguyễn Hoành Từ trong khu đất rộng khoảng 2 mẫu tại làng Phật Não rất linh thiêng. Nhà thờ hai cha con Cụ được con cháu và người dân nơi đây quanh năm phụng thờ, tổ chức Lễ hội ông nghè vào các chẵn, 5 năm 1 lần.
==Hậu duệ==
==Hậu duệ==

Phiên bản lúc 12:06, ngày 3 tháng 1 năm 2021

Nguyễn Hoành Từ
Quận Công
Thượng Thư Bộ Lại Tiết Nghĩa Quận Công
Tiền nhiệmChức Vụ Được Thành Lập
Kế nhiệmkhông rõ
Thông tin chung
Sinh1536
Đông Kinh
Mất?
Nghệ Tĩnh
Phu nhânCông chúa
Hậu duệ4 người con trai
Tên đầy đủ
Nguyễn Đình Thung
Tước hiệuTiết Nghĩa Quận Công
Thân phụNguyễn Đình Tùng
Thân mẫulê Thị

Nguyễn Hoành Từ (Chữ Hán: 阮宏詞), tước hiệu: Tiết Nghĩa Quận Công, là danh tướng của triều Lê trong lịch sử Việt Nam. Vì có công trong việc trung hưng triều Lê nên Nguyễn Hoành Từ được phong là Tiết Nghĩa Quận Công .

Tiểu sử

Giới thiệu: Tiết Nghĩa Quận Công Nguyễn Hoành Từ, sinh năm 1536 tên thật là Nguyễn Đình Thung, thủa nhỏ ở Lam kinh, Thanh Hóa, sau theo gia đình vào sinh sống tại làng Phật Nạo, nay là các xã, phường: Đại Nài, Thạch Bình thuộc tp Hà Tĩnh và xã Thạch Tân, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh, là cháu 5 đời của Cương Quốc công Nguyễn Xí.

Năm 1556, vua Lê Trung Tông mất sớm không có con nối ngôi. Thái sư Trịnh Kiểm nhân cơ hội muốn giành ngôi vua nhà Lê. Một số quan quân, trong đó có Đô vệ hầu Nguyễn Đình Tùng bàn mưu chống lại việc ấy, việc bị chúa Trịnh phát giác và truy sát. Cụ Nguyễn Đình Tùng phải đưa vợ con chạy trốn vào làng Phật Não, huyện Thạch Hà, trấn Nghệ An ẩn cư. Do nguyên nhân đó, sau này con trai cụ là Nguyễn Đình Thung phải đổi tên thành Nguyễn Hoành Từ để ra Bắc ứng thí. Năm 1570, Trịnh Kiểm mất, hai con là Trịnh Cối và Trịnh Tùng tranh quyền. Hai anh em dàn quân đánh nhau. Cùng lúc đó quân Mạc từ bắc kéo vào. Trịnh Cối bị kẹp giữa hai đường không thể cự nổi bèn đầu hàng nhà Mạc, được vua Mạc thu nhận và phong chức. Vua Lê Anh Tông ủng hộ ngôi con trưởng của Trịnh Cối, cùng mưu với Lê Cập Đệ định giết Trịnh Tùng việc bị lộ. Vua Anh Tông mang 4 người con lánh đi nơi khác. Trịnh Tùng lập người con út của vua là Đàm lên ngôi, tức là Lê Thế Tông. Sau đó, Trịnh Tùng lùng bắt được cha con vua Anh Tông mang về lập mưu giám sát, rồi bức chết. Từ đó vua Lê hoàn toàn nép trong cung, Trịnh Tùng tự mình xử trí mọi việc trong triều. Trịnh Tùng là một vị chúa tài giỏi nên tập đoàn vua Lê, chúa Trịnh ngày càng mạnh, đánh đuổi nhà Mạc chạy lên Cao Bằng.

Hoàng Giáp dòng họ Nguyễn

Là con trai tướng quân Nguyễn Đình Tùng, từ nhỏ Nguyễn Hoành Từ nổi tiếng thần đồng, sớm thi đỗ cử nhân và được vua Lê, chúa Trịnh trọng dụng. Năm 44 tuổi, đang làm quan triều vua Lê Thế Tông, cụ xin nhà vua dự thi khoa Đinh Sửu (1577) niên hiệu Gia Thái thứ 5, đậu Hoàng Giáp (đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân, đứng thứ 5 trong khoa thi này) được khắc tên trong bia tiến sĩ dựng tại Văn miếu Quốc tử giám. Dòng họ Nguyễn Cương Quốc công từ Đức tổ Nguyễn Xí đến cụ Hoành Từ chủ yếu phát về võ nghiệp, việc cụ Nguyễn Hoành Từ đỗ Hoàng Giáp, càng thêm phần vinh hiển cho một dòng họ, vốn đã rất nổi tiếng.

Vị thượng thư thanh liêm

Sau kỳ thi này, Cụ được triều đình vua Lê và chúa Trịnh Tùng phong chức “Tả thị lang bộ lại", rồi thăng lên “Thượng thư Bộ lại, đặc tiến kim tử vinh lộc đại phu”, tương đương Bộ trưởng Bộ nội vụ ngày nay. Là một vị quan tài cao học rộng, tính khí cương trực lại rất thanh liêm. Cụ không chỉ được nhà vua tin dùng mà còn được cả triều đình nể trọng. Nhiều kế sách của cụ được áp dụng giúp vua Lê, chúa Trịnh Tùng đánh thắng nhà Mạc và giúp vua Lê Thế Tông được nhà Thanh công nhận là quân vương nước Đại Việt, nhờ đó, cuối đời, cụ được triều đình nhà Lê sắc phong làm “Tiết Nghĩa quận công”.

Hoành bác đại vương, phúc thần làng Phật Não

Năm 1599, dưới thời vua Lê Thế Tông và chúa Trịnh Tùng, cụ qua đời tại kinh đô Thăng Long, được triều đình cho quân rước thi hài về an táng tại quê nhà bên cạnh mộ phụ thân của cụ. Vua Lê còn truy phong cụ làm "Phúc thần, Hoành bác đại vương", sai quan dân sở tại lập đền thờ theo chế độ "quốc tạo, quốc tế". Đến triều nhà Nguyễn, Cụ nghè Nguyễn Hoành Từ lại được sắc phong sắc là "Dực bảo trung hưng, trung đẳng thần". Phần mộ của Đô vệ hầu Nguyễn Đình Tùng và Tiết Nghĩa quận công Nguyễn Hoành Từ trong khu đất rộng khoảng 2 mẫu tại làng Phật Não rất linh thiêng. Nhà thờ hai cha con Cụ được con cháu và người dân nơi đây quanh năm phụng thờ, tổ chức Lễ hội ông nghè vào các chẵn, 5 năm 1 lần.

Hậu duệ

Cụ Nguyễn Hoành Từ có bốn người con là:

1. Nguyễn Hoành Thống (vào Quảng Nam định cư)

2. Nguyễn Hoành Thắng (di cư sang Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh)

3. Nguyễn Hoành Lợi (di cư sang Xuân Trường Nghi Xuân, Hà Tĩnh)

4. Nguyễn Hoành Tranh (di cư sang Thạch Tân, Thạch Hà - Hà Tĩnh). Hậu duệ cụ Nguyễn Hoành Từ có người cháu là Nguyễn Đình Quế dời đến ở huyện Thủy Nguyên, tỉnh Thanh Hóa, nối đời làm võ tướng (Thanh Hóa tỉnh chí); Nguyễn Đình Tương dời đến ở xã Hương Duệ, Cẩm Xuyên, Hà tĩnh làm đến chức Thái bảo tước Quận công; Nguyễn Đình Kỵ làm đến chức Đô đốc tướng quân; Nguyễn Đình Phác làm đến Đô đốc đồng tri; Nguyễn Đình Tri làm đến chức Đô đốc tước Cam quận công. Con cháu Tiết Nghĩa quận công Nguyễn Hoành Từ đều noi theo gương sáng tổ tiên, làm những vị tướng quân khẳng khái ra sức cứu vua giúp nước, làm những vị quan thanh liêm vì nghĩa quên mình.

Đọc thêm

Tham khảo