Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Hát then”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 47: Dòng 47:
[[Thể loại:Người Tày]]
[[Thể loại:Người Tày]]
[[Thể loại:Điệu hát dân tộc miền núi phía Bắc]]
[[Thể loại:Điệu hát dân tộc miền núi phía Bắc]]
[[Thể loại:Di sản văn hóa phi vật thể tại Việt Nam]]

Phiên bản lúc 17:57, ngày 4 tháng 1 năm 2021

Hát then là một thể loại dân ca tín ngưỡng của cộng đồng người Choang, dân tộc Tày, Nùng. Mang trường ca, mang màu sắc tín ngưỡng thuật lại cuộc hành trình lên thiên giới để cầu xin Ngọc hoàng giải quyết một vấn đề gì đó cho gia chủ.

Từ "then" là đọc chệch từ "thiên" (天, tian) trong tiếng Choang, tức trời. Người Choang Trung Quốc cũng như người Tày và người Nùng coi việc hát then là hát để tế Trời (tức Ngọc hoàng Thượng đế).

Nhạc cụ và lời hát

Âm nhạc là yếu tố xuyên suốt cuộc hát then. Hát then có nhiều bài bản, làn điệu. Người Tày, người Nùng không kể tuổi tác, giới tính, những người mê tín cũng như không mê tín rất thích nghe hát then.

Lời hát theo hình thức diễn xướng tổng hợp ca nhạc Đàn tính, múa, diễn với nhiều tình huống khác nhau. Đảm nhiệm chức năng của một diễn viên tổng hợp. Họ vừa hát, tự đệm, vừa múa và diễn để thể hiện nội dung câu hát, đôi khi còn biểu diễn cả những trò nhai chén, dựng trứng, dựng gươm...

Trong hát then mỗi làn điệu then thì sắp xếp các đoạn khác nhau.có thể hiểu là đi theo những đường khác nhau hay dùng những lời hát khác nhau nhưng đều tuân theo một bài bản và kết thúc đều có kết quả giống nhau, đường đi giống nhau.Trong tất cả thể loại hát then đều qua cùng những chỗ đường đi như nhau.Lúc thì lên rừng núi non thượng ngàn,khi thì lên thiên.Thường là vạn lấy hồn lấy vía siêu lạc ở các chốn về hay săn bắt bắn lấy những con thú trên rừng về để giải hạn,khao tổ tiên,khao mẫu sinh hay mẹ sinh(mẫu ban lộc sinh đẻ).Đến đọan cuối cùng là qua hải hay còn gọi là khảm hải: là cửa ải cuối cùng vượt qua đây là đến được những nơi cần đến như: cửa mẹ sinh,vua cha ngọc hoàng hay vài chỗ quan trọng khác...tùy loại then.xong việc hồi lại binh mã trở về bàn sơn hay bàn thản gốc pháp,khao binh rồi tổ tiên gia chủ là xong việc(khao lao).Tất cả các thể loại then với đội quân binh hùng hậu đều trải qua những chỗ quan trọng sau:1 sắp xếp binh sắp xếp mã chuẩn bị lên đường xế lễ.2 xuất pháp để điều khiển binh lính.3 khao binh.4 kính thầy kính pháp chứng kiến con hiệu đệ tử xê pang.5 xê lễ đến thổ công rồi vào cửa thổ công xét(thổ công nhập vào đồng và phán cho gia chủ biết về đất đai vận hạn)6xê lễ đến bếp (táo quân)rồj vào cửa xét,cửa này có thể 1số loại then không cần vào.7xê lễ đẳm cha(tổ tiên gja chủ)rồi vào cửa xét.8xê lễ tiếp lên nàng sliên(cửa thánh cửa tiên cửa này ăn chay hoặc ăn mặn tùy vào luật lệ nhà gja chủ và đặc biệt cửa này chỉ có ở người nùng,tày không có nếu có thì được gọi là cửa tướng cửa pật(then)theo cách gọi của người tày.9xê lễ qua nàng sliên rồi lên rừng pắt mèng pắt ngoạn(bắt một loại công trùng gần giống với ruồi về để cởi lời thề câu tội và cầu bình an cho trẻ con trong nhà)10 đón vía ở cây lạng rồi đến cây vạt trên trời về.11 lên chợ Đinh Trung trên trời để vui chơi và mua đồ còn thiếu mua tài lộc về cho gia chủ.12 xê lễ đến chỗ mượn gậy yêu tinh để đi lên rừng săn hươu nai.13 xê lễ qua đoạn cầu khắc cầu hai(chỗ mà dành cho những bọn làm then hay làm thầy không kiêng kị được bị chết oan ở đây để dọn đường dọn xá cho các binh mã xê lễ)14 khao binh mã rồi lên rừng săn hươu nai(sau khi săn được hươu nai sai lính lấy xuống cửa sông cửa hải để làm rửa sạch rồi làm thịt và sắp cỗ 30 cỗ tạp và 40cỗ chay.15 khảm hải xê lễ qua biển qua hải để tống sao hạn xuống sông và vạn lấy vía về nếu là then nùng thì còn có thêm đoạn hát sli mượt mà để vạn lấy hồn vía về.16 xê lễ đến nơi cần đến và giao lễ cho các thần,vậy là nhjệm vụ của nhà thầy nhà thánh,binh mã đã trọn vẹn,thong thả hồi lại binh mã trở về.vậy là cuộc hành trình dài lên rừng xuống núi,lên thiên xuống biển đã hoàn thành.tiếng hát then thần kì đến mức người đang ốm đau chỉ nghe thấy thôi coi như thấy nhẹ lại người.(then có nhiều tác dụng:chữa bệnh,giải hạn,cầu tài cầu lộc,thể hiện một nền văn hoá đa dạng của dân tộc.trên đây là tóm tắt về 1 thể loại then phổ biến của dân tộc nùng phàn slình.

Các vùng hát then

Tại Trung Quốc

Tại Trung Quốc, các vùng hát then phổ biến của dân tộc Choang bao gồm: Bách Sắc, Hà Trì, Liễu Châu, Quế Lâm, Hạ Châu, Nam Ninh, Lai Tân, Quý CảngNgô Châu đều thuộc Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây. Chất then dân tộc Choang mượt mà nhưng lại vang vọng, khác với then Việt Nam.

Tại Việt Nam

Năm 2018 có 16 địa phương sở hữu hát then. Trung tâm hát then ở 13 tỉnh miền núi phía Bắc: Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Bắc Giang, Quảng Ninh, Yên Bái, Lào Cai, Sơn La, Điện Biên, Lai Châu. Hiện tại đã xuất hiện hát then ở các tỉnh Đắk Nông, Đắk Lắk và Thành phố Hồ Chí Minh khi người Tày và người Nùng di cư đến.[1]

Mỗi vùng làn điệu then lại có những nét độc đáo riêng:

  • Then Cao Bằng dìu dặt tha thiết
  • Then Lạng Sơn tươi vui, rộn Ràng
  • Then Tuyên Quang dồn dập như thúc quân ra trận
  • Then Hà Giang nhấn nhá từng tiếng một
  • Then Bắc Kạn như chuyện kể thầm thì

Nghi lễ then của người Tày (tại các tỉnh Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Bắc Giang) và người Nùng (tại các tỉnh Lạng Sơn, Bắc Giang) là di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia của Việt Nam. [2] [3] [4] [5]

Thực hành then Tày, Nùng, Thái

Di sản Thực hành Then của người Tày, Nùng, Thái tập trung chủ yếu ở 11 tỉnh miền núi phía Bắc là: Lạng Sơn, Bắc Giang, Bắc Kạn, Cao Bằng, Hà Giang, Quảng Ninh, Thái Nguyên, Tuyên Quang (vùng Đông Bắc), Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai (vùng Tây Bắc) và một số địa phương khác ở Việt Nam.

Then là một thực hành nghi lễ không thể thiếu trong đời sống tâm linh của người Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam, phản ánh các quan niệm về con người, thế giới tự nhiên và vũ trụ. Then luôn luôn được trao truyền bằng truyền khẩu khi thực hành nghi lễ Then, thể hiện sự kế tục giữa các thế hệ. Các thầy Then đóng vai trò chính yếu trong việc chuyển giao các kỹ năng và bí quyết liên quan, một số thầy Then thực hiện khoảng 200 nghi lễ Then một năm.

Lúc 15h23 ngày 12-12 giờ địa phương (tức 3h23 ngày 13-12 giờ Việt Nam), tại Phiên họp Ủy ban Liên Chính phủ Công ước 2003 về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể lần thứ 14 của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) diễn ra tại Bogotá, Colombia, di sản Thực hành Then của người Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam chính thức được UNESCO ghi danh vào Danh sách Di sản Văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.[6]

Chú thích

  1. ^ 16 tỉnh tham gia Liên hoan nghệ thuật hát Then, đàn Tính các dân tộc Tày-Nùng-Thái toàn quốc lần thứ VI
  2. ^ “Quyết định số 5079/QĐ-BVHTTDL ngày 27 tháng 12 năm 2012 về việc công bố Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia”. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2018.
  3. ^ “Bộ VHTTDL đã có Quyết định số 2684/QĐ-BVHTTDL công bố danh sách 19 di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia”. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2018.
  4. ^ “Quyết định số 1877/QĐ-BVHTTDL ngày 08/6/2015 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch về việc công bố Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia”. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2018.
  5. ^ “Quyết định số 3465/QĐ-BVHTTDL ngày 13.10.2015 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch về việc công bố Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia”. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2018.
  6. ^ Hát Then được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại

Tham khảo