Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Đồng tính giả”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 5: Dòng 5:
Một ví dụ cho hành vi tình dục có tính tình huống là một người tự nhận dạng mình là người dị tính, nhưng sẽ tương tác tình dục với người cùng giới tính khi thiếu những cơ hội khác, ví dụ trong quân đội, nhà tù, sinh viên hoặc trong các cộng đồng cùng giới với nhau.<ref name=bailey16>{{cite journal|last1=Bailey|first1=J. Michael|last2=Vasey|first2=Paul|last3=Diamond|first3=Lisa|last4=Breedlove|first4=S. Marc|last5=Vilain|first5=Eric|last6=Epprecht|first6=Marc|title=Sexual Orientation, Controversy, and Science|journal=Psychological Science in the Public Interest|date=2016|volume=17|issue=2|pages=45–101|doi=10.1177/1529100616637616|pmid=27113562|url=https://www.researchgate.net/publication/301639075|doi-access=free}}</ref>{{rp|48}} Tương tụ, một người tự nhận dạng mình là đồng tính nam hoặc nữ (vào thời điểm đó hoặc sau này) có thể tương tác tình dục với thành viên giới tính khác nếu mối quan hệ cùng giới không thể thực hiện được.<ref name="Rosario"/>
Một ví dụ cho hành vi tình dục có tính tình huống là một người tự nhận dạng mình là người dị tính, nhưng sẽ tương tác tình dục với người cùng giới tính khi thiếu những cơ hội khác, ví dụ trong quân đội, nhà tù, sinh viên hoặc trong các cộng đồng cùng giới với nhau.<ref name=bailey16>{{cite journal|last1=Bailey|first1=J. Michael|last2=Vasey|first2=Paul|last3=Diamond|first3=Lisa|last4=Breedlove|first4=S. Marc|last5=Vilain|first5=Eric|last6=Epprecht|first6=Marc|title=Sexual Orientation, Controversy, and Science|journal=Psychological Science in the Public Interest|date=2016|volume=17|issue=2|pages=45–101|doi=10.1177/1529100616637616|pmid=27113562|url=https://www.researchgate.net/publication/301639075|doi-access=free}}</ref>{{rp|48}} Tương tụ, một người tự nhận dạng mình là đồng tính nam hoặc nữ (vào thời điểm đó hoặc sau này) có thể tương tác tình dục với thành viên giới tính khác nếu mối quan hệ cùng giới không thể thực hiện được.<ref name="Rosario"/>


=="Đồng tính giả"==
==Linh hoạt tính dục==
Đồng tính giả là một khái niệm chỉ những người có hành vi đồng tính nhưng không phải do bẩm sinh mà là do ảnh hưởng từ môi trường xã hội, bạn bè và vân vân.<ref name="giatang">http://vnexpress.net/tin-tuc/phap-luat/gia-tang-toi-pham-dong-tinh-trong-gioi-tre-2099293.html</ref><ref name=lesbiangia>{{Chú thích web| url = http://vtc.vn/gioitre/tinhyeu/gia-lesbian-va-nhung-hau-qua-khon-luong/195501/index.htm | title = Giả Lesbian và những hậu quả khôn lường | accessdate = ngày 23 tháng 4 năm 2009}}</ref>

Theo bác sĩ [[Trần Bồng Sơn]], nhà giới tính học<ref name="aids"/> tại Việt Nam, có hai loại người đồng tính: ''thật'' và ''giả''. Những người ''đồng tính thật'' là những người đồng tính bẩm sinh, và số người này rất hiếm. Theo ông, hầu hết những người đồng tính là ''"giả"'', bị bạn bè rủ rê hoặc muốn để thử nghiệm các lối sống mới<ref name="aids">Don Colby, Cao Hữu Nghĩa và Serge Doussantousse, Men who have sex with men and HIV in Vietnam (Những người nam có quan hệ tình dục với nam và HIV tại Việt Nam) (MEN WHO HAVE SEX WITH MEN AND HIV IN VIETNAM: A REVIEW, tiếng Anh). AIDS Education and Prevention, 16(1), 45-54, 2004.</ref>

== Xu hướng tính dục ==
{{Xem thêm|Ex-gay|Liệu pháp chuyển đổi}}
Xu hướng tính dục là sự hấp dẫn về mặt tình cảm hoặc thể chất với một đối tượng thuộc giới nào đó. Có ba xu hướng tính dục thường gặp là xu hướng tính dục đồng giới (hấp dẫn với người cùng giới, tạm gọi là đồng tính), xu hướng tính dục khác giới (hấp dẫn với người khác giới, gọi là dị tính), và xu hướng lưỡng tính dục (hấp dẫn với cả hai giới, gọi là song tính). Cũng còn một xu hướng nữa nhưng ít gặp, đó là không hấp dẫn bởi giới nào cả (gọi là vô tính).

Có những người đã từng nhận mình là [[đồng tính luyến ái|người đồng tính]], nhưng sau đó họ xác định mình không còn là đồng tính nữa (mà là [[dị tính luyến ái]]). Sự chuyển biến của những người này có thể là tự nhiên, cũng có thể là qua [[liệu pháp chuyển đổi|chữa trị đồng tính]]<ref>{{chú thích tạp chí
Có những người đã từng nhận mình là [[đồng tính luyến ái|người đồng tính]], nhưng sau đó họ xác định mình không còn là đồng tính nữa (mà là [[dị tính luyến ái]]). Sự chuyển biến của những người này có thể là tự nhiên, cũng có thể là qua [[liệu pháp chuyển đổi|chữa trị đồng tính]]<ref>{{chú thích tạp chí
|last=Yarhouse
|last=Yarhouse
Dòng 38: Dòng 30:
|pages=691}}
|pages=691}}
</ref><ref>[[Jack Drescher|Drescher, Jack]] (2001). "Ethical Concerns Raised When Patients Seek to Change Same-Sex Attractions". Journal of Gay & Lesbian Psychotherapy 5 (3/4): 183. Haworth Press.</ref>
</ref><ref>[[Jack Drescher|Drescher, Jack]] (2001). "Ethical Concerns Raised When Patients Seek to Change Same-Sex Attractions". Journal of Gay & Lesbian Psychotherapy 5 (3/4): 183. Haworth Press.</ref>

==Nghiên cứu==
Tám nghiên cứu chủ yếu về các cặp song sinh giống hệt nhau ở Úc, Mỹ và Scandanavia trong hai thập niên đã có cùng một kết luận: người ta không sinh ra đã là đồng tính. Di truyền chỉ là một yếu tố nhỏ trong việc hình thành đồng tính.


Tiến sĩ [[Neil Whitehead]] tin rằng người đồng tính được gây nên bởi những yếu tố đến từ gia đình và xã hội (Ví dụ, một trong hai đứa trẻ song sinh có bạn bè là người đồng tính hoặc bị xâm phạm tình dục nhưng đứa kia thì không). [[Thiên hướng tình dục]] không phải là bất biến mà có sự linh động, một người dị tính luyến ái có thể chuyển thành đồng tính hoặc ngược lại, và nhiều người trong cuộc đời đã từng ngộ nhận họ là đồng tính. Ông cho biết:
Tiến sĩ [[Neil Whitehead]] tin rằng người đồng tính được gây nên bởi những yếu tố đến từ gia đình và xã hội (Ví dụ, một trong hai đứa trẻ song sinh có bạn bè là người đồng tính hoặc bị xâm phạm tình dục nhưng đứa kia thì không). [[Thiên hướng tình dục]] không phải là bất biến mà có sự linh động, một người dị tính luyến ái có thể chuyển thành đồng tính hoặc ngược lại, và nhiều người trong cuộc đời đã từng ngộ nhận họ là đồng tính. Ông cho biết:
Dòng 53: Dòng 42:
Những trường hợp bắt chước nhau đồng tính, giả đồng tính đều có nguyên nhân như bị hụt hẫng tâm lý hoặc bế tắc trong cuộc sống gia đình, công việc… Nhiều người trẻ, cuộc sống quá nhạt nhòa, muốn khẳng định mình (không có trình độ, thiếu hiểu biết, kỹ năng sống) đã bắt chước đồng tính để được người khác chú ý đến mình. Hiện tượng này mới nổi lên ở Việt Nam do một bộ phận nam sinh và du học sinh đua đòi rồi lan truyền cho nhau. Họ coi như một thú chơi, ai muốn được coi là "dân chơi" thì đều phải có cái thú này. Tổ chức Y tế thế giới đã kết luận đồng tính không phải là bệnh nhưng lại có sự ''"lây lan"'' đáng sợ thông qua sự a dua, cổ súy từ bạn bè hoặc [[truyền thông]]. Về mặt bệnh lý học tâm thần, họ được xếp vào nhóm bệnh lệch chuẩn hành vi tình dục.
Những trường hợp bắt chước nhau đồng tính, giả đồng tính đều có nguyên nhân như bị hụt hẫng tâm lý hoặc bế tắc trong cuộc sống gia đình, công việc… Nhiều người trẻ, cuộc sống quá nhạt nhòa, muốn khẳng định mình (không có trình độ, thiếu hiểu biết, kỹ năng sống) đã bắt chước đồng tính để được người khác chú ý đến mình. Hiện tượng này mới nổi lên ở Việt Nam do một bộ phận nam sinh và du học sinh đua đòi rồi lan truyền cho nhau. Họ coi như một thú chơi, ai muốn được coi là "dân chơi" thì đều phải có cái thú này. Tổ chức Y tế thế giới đã kết luận đồng tính không phải là bệnh nhưng lại có sự ''"lây lan"'' đáng sợ thông qua sự a dua, cổ súy từ bạn bè hoặc [[truyền thông]]. Về mặt bệnh lý học tâm thần, họ được xếp vào nhóm bệnh lệch chuẩn hành vi tình dục.


==Khả năng thay đổi==
Những nghiên cứu trên cho thấy: Tính linh động của thiên hướng tình dục phụ thuộc vào từng cá nhân. Đối với nhiều người, thiên hướng tình dục không phải là bẩm sinh mà nó có thể biến đổi theo thời gian, có thể từ dị tính sang đồng tính hoặc ngược lại. Sự biến đổi diễn ra như thế nào phụ thuộc vào yếu tố cá nhân và [[Yếu tố môi trường trong thiên hướng tình dục|yếu tố môi trường]] (sự tác động của văn hóa xã hội, tôn giáo, gia đình, bạn bè...). Tiến sĩ [[Neil Whitehead]] và vợ ông là Briar, thông qua việc tổng kết nhều thống kê khác nhau, ghi nhận tuyên bố của van den Aardweg rằng: trong 2/3 những trường hợp mà ông điều trị, thiên hướng đồng tính đã biến mất hoặc chỉ thỉnh thoảng mới xuất hiện.<ref>My Genes Made Me Do It! - Homosexuality and the scientific evidence. Neil and Briar Whitehead. Huntington House Publishing (March 1999). ISBN 978-1563841651. Trang 258</ref>
Những nghiên cứu trên cho thấy: Tính linh động của thiên hướng tình dục phụ thuộc vào từng cá nhân. Đối với nhiều người, thiên hướng tình dục không phải là bẩm sinh mà nó có thể biến đổi theo thời gian, có thể từ dị tính sang đồng tính hoặc ngược lại. Sự biến đổi diễn ra như thế nào phụ thuộc vào yếu tố cá nhân và [[Yếu tố môi trường trong thiên hướng tình dục|yếu tố môi trường]] (sự tác động của văn hóa xã hội, tôn giáo, gia đình, bạn bè...). Tiến sĩ [[Neil Whitehead]] và vợ ông là Briar, thông qua việc tổng kết nhều thống kê khác nhau, ghi nhận tuyên bố của van den Aardweg rằng: trong 2/3 những trường hợp mà ông điều trị, thiên hướng đồng tính đã biến mất hoặc chỉ thỉnh thoảng mới xuất hiện.<ref>My Genes Made Me Do It! - Homosexuality and the scientific evidence. Neil and Briar Whitehead. Huntington House Publishing (March 1999). ISBN 978-1563841651. Trang 258</ref>


Dòng 59: Dòng 47:


Báo cáo năm 2009 của [[Hiệp hội Tâm lý học Hoa Kỳ]] cũng có đánh giá đột phá về trị liệu đối với khách hàng đồng tính muốn đấu tranh để vẫn trung thành với niềm tin đạo đức và không chấp nhận mình là đồng tính. Chủ tịch của [[Liên minh Công giáo quốc tế]], [[Alan Chambers]], một người cựu đồng tính, mô tả bản thân mình là một người ''"đã vượt qua thu hút đồng tính không mong muốn"'', và ông bày tỏ sự hài lòng với phần này của báo cáo.<ref name=nytimes />
Báo cáo năm 2009 của [[Hiệp hội Tâm lý học Hoa Kỳ]] cũng có đánh giá đột phá về trị liệu đối với khách hàng đồng tính muốn đấu tranh để vẫn trung thành với niềm tin đạo đức và không chấp nhận mình là đồng tính. Chủ tịch của [[Liên minh Công giáo quốc tế]], [[Alan Chambers]], một người cựu đồng tính, mô tả bản thân mình là một người ''"đã vượt qua thu hút đồng tính không mong muốn"'', và ông bày tỏ sự hài lòng với phần này của báo cáo.<ref name=nytimes />

=="Đồng tính giả"==
Đồng tính giả là một khái niệm chỉ những người có hành vi đồng tính nhưng không phải do bẩm sinh mà là do ảnh hưởng từ môi trường xã hội, bạn bè và vân vân.<ref name="giatang">http://vnexpress.net/tin-tuc/phap-luat/gia-tang-toi-pham-dong-tinh-trong-gioi-tre-2099293.html</ref><ref name=lesbiangia>{{Chú thích web| url = http://vtc.vn/gioitre/tinhyeu/gia-lesbian-va-nhung-hau-qua-khon-luong/195501/index.htm | title = Giả Lesbian và những hậu quả khôn lường | accessdate = ngày 23 tháng 4 năm 2009}}</ref>

Theo bác sĩ [[Trần Bồng Sơn]], nhà giới tính học<ref name="aids"/> tại Việt Nam, có hai loại người đồng tính: ''thật'' và ''giả''. Những người ''đồng tính thật'' là những người đồng tính bẩm sinh, và số người này rất hiếm. Theo ông, hầu hết những người đồng tính là ''"giả"'', bị bạn bè rủ rê hoặc muốn để thử nghiệm các lối sống mới<ref name="aids">Don Colby, Cao Hữu Nghĩa và Serge Doussantousse, Men who have sex with men and HIV in Vietnam (Những người nam có quan hệ tình dục với nam và HIV tại Việt Nam) (MEN WHO HAVE SEX WITH MEN AND HIV IN VIETNAM: A REVIEW, tiếng Anh). AIDS Education and Prevention, 16(1), 45-54, 2004.</ref>


==Tại Việt Nam==
==Tại Việt Nam==

Phiên bản lúc 05:06, ngày 17 tháng 1 năm 2021

Hành vi tình dục có tính tình huống (tiếng Anh: situational sexual behavior) khác với hành vi mà người đó thông thường thể hiện, do yếu tố môi trường xã hội bằng cách nào đó cho phép, cỗ vũ hoặc ngăn cấm hành vi được đề cập. Nó có thể bao gồm những tình huống mà hành vi tình dục ưa thích của một người không thể diễn ra, mà thay vì ngưng hoạt động tình dục hoàn toàn, họ có thể thực hiện những hành vi tình dục thay thế.

Tổng quan

Một ví dụ cho hành vi tình dục có tính tình huống là một người tự nhận dạng mình là người dị tính, nhưng sẽ tương tác tình dục với người cùng giới tính khi thiếu những cơ hội khác, ví dụ trong quân đội, nhà tù, sinh viên hoặc trong các cộng đồng cùng giới với nhau.[1]:48 Tương tụ, một người tự nhận dạng mình là đồng tính nam hoặc nữ (vào thời điểm đó hoặc sau này) có thể tương tác tình dục với thành viên giới tính khác nếu mối quan hệ cùng giới không thể thực hiện được.[2]

Linh hoạt tính dục

Có những người đã từng nhận mình là người đồng tính, nhưng sau đó họ xác định mình không còn là đồng tính nữa (mà là dị tính luyến ái). Sự chuyển biến của những người này có thể là tự nhiên, cũng có thể là qua chữa trị đồng tính[3][4][5]

Tiến sĩ Neil Whitehead tin rằng người đồng tính được gây nên bởi những yếu tố đến từ gia đình và xã hội (Ví dụ, một trong hai đứa trẻ song sinh có bạn bè là người đồng tính hoặc bị xâm phạm tình dục nhưng đứa kia thì không). Thiên hướng tình dục không phải là bất biến mà có sự linh động, một người dị tính luyến ái có thể chuyển thành đồng tính hoặc ngược lại, và nhiều người trong cuộc đời đã từng ngộ nhận họ là đồng tính. Ông cho biết:

Khoảng một nửa số người đồng tính/lưỡng tính đã chuyển sang thích giao hợp với người khác giới trong đời của họ. Khoảng 3% của những người hiện tại đang thích giao hợp với người khác giới đã có một lần tin tưởng chắc chắn họ là người đồng giới hay lưỡng tính. Hầu hết những thay đồi trong thiên hướng tình dục là hướng về tình dục khác giới. Số người đã chuyển qua hướng tình dục khác giới còn cao hơn con số người lưỡng tính và đồng tính hiện tại gộp lại. Nói cách khác, người cựu đồng tính (đòng tính giả) thì đông hơn người đồng tính thực sự.

Tác giả của một công trình nghiên cứu lớn về đồng tính năm 2014, Alan Sanders, tuyên bố rằng "những đặc điểm phức tạp của khuynh hướng tình dục (bao gồm đồng tính) phụ thuộc vào nhiều yếu tố, từ cả di truyền lẫn ảnh hưởng từ môi trường sống."[6] Nhà nghiên cứu McConaghy (năm 2006) cho thấy không có mối quan hệ giữa mức độ xúc cảm đồng tính với hành vi đồng tính luyến ái, dẫn ông đến kết luận rằng ảnh hưởng của thứ tự sinh về mức độ xúc cảm đồng tính không phải do yếu tố sinh học, mà đó là một quá trình ảnh hưởng từ xã hội.[7]

Tính linh hoạt càng rõ hơn giữa thanh thiếu niên như nghiên cứu của Bearman và Brueckner đã chứng minh. Họ tìm thấy rằng từ tuổi 16-17, nếu đã có thu hút tình dục với người đồng tính, hầu hết tất cả đã chuyển hướng vào năm sau đó. Thanh thiếu niên là trường hợp đặc biệt, họ thường dễ bị ảnh hưởng từ bạn bè hoặc xã hội, nhiều người có quan hệ đồng tính chỉ vì thấy tò mò hoặc hưởng ứng theo trào lưu, theo bạn bè[8].

Năm 2006, Tiến sĩ Jeffrey Satinover cho biết: đã tồn tại các bằng chứng vững chắc dịch tễ học, được xác nhận và khẳng định rộng rãi, rằng đồng tính luyến ái thể hiện thường xuyên nhất ở tuổi vị thành niên. Đối với một số vị thành niên, khuynh hướng đồng tính sẽ duy trì mãi về sau (do bẩm sinh), nhưng đối với phần lớn vị thành niên thì nó sẽ giảm đi một cách tự nhiên theo sự trưởng thành, và cuối cùng sẽ biến mất, trừ khi nó được "hỗ trợ và khuyến khích (từ bạn bè hoặc xã hội)". Ông cũng ghi nhận rằng các yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến sự phát triển đồng tính của những người trẻ tuổi là bối cảnh xã hội và gia đình. Do đó, nếu xã hội ngày càng dung nạp hoặc cổ vũ cho đồng tính luyến ái thì sẽ "dẫn đến số lượng ngày càng gia tăng của những người tự nhận mình là đồng tính".[9] Lập luận này của Satinover được ông trích dẫn nhiều số liệu thống kê để chứng minh.[10]

Những trường hợp bắt chước nhau đồng tính, giả đồng tính đều có nguyên nhân như bị hụt hẫng tâm lý hoặc bế tắc trong cuộc sống gia đình, công việc… Nhiều người trẻ, cuộc sống quá nhạt nhòa, muốn khẳng định mình (không có trình độ, thiếu hiểu biết, kỹ năng sống) đã bắt chước đồng tính để được người khác chú ý đến mình. Hiện tượng này mới nổi lên ở Việt Nam do một bộ phận nam sinh và du học sinh đua đòi rồi lan truyền cho nhau. Họ coi như một thú chơi, ai muốn được coi là "dân chơi" thì đều phải có cái thú này. Tổ chức Y tế thế giới đã kết luận đồng tính không phải là bệnh nhưng lại có sự "lây lan" đáng sợ thông qua sự a dua, cổ súy từ bạn bè hoặc truyền thông. Về mặt bệnh lý học tâm thần, họ được xếp vào nhóm bệnh lệch chuẩn hành vi tình dục.

Những nghiên cứu trên cho thấy: Tính linh động của thiên hướng tình dục phụ thuộc vào từng cá nhân. Đối với nhiều người, thiên hướng tình dục không phải là bẩm sinh mà nó có thể biến đổi theo thời gian, có thể từ dị tính sang đồng tính hoặc ngược lại. Sự biến đổi diễn ra như thế nào phụ thuộc vào yếu tố cá nhân và yếu tố môi trường (sự tác động của văn hóa xã hội, tôn giáo, gia đình, bạn bè...). Tiến sĩ Neil Whitehead và vợ ông là Briar, thông qua việc tổng kết nhều thống kê khác nhau, ghi nhận tuyên bố của van den Aardweg rằng: trong 2/3 những trường hợp mà ông điều trị, thiên hướng đồng tính đã biến mất hoặc chỉ thỉnh thoảng mới xuất hiện.[11]

Các nhà ủng hộ liệu pháp trị liệu đồng tính cho rằng họ đã đạt thành công trong nhiều trường hợp. Theo báo cáo của Jeffrey Satinover, ông đạt được tỉ lệ 50-70% thành công trong việc thay đổi khuynh hướng tình dục từ đồng tính trở thành bình thường.[12] Các nghiên cứu tương tự đã khiến một số chuyên gia thừa nhận rằng khuynh hướng tình dục không phải là bất biến và việc thay đổi nó là có thể. Nhiều người đồng tính (dù không phải là tất cả) có thể thay đổi khuynh hướng tình dục của mình thông qua một loạt các nỗ lực tâm lý và tư vấn.[13]

Báo cáo năm 2009 của Hiệp hội Tâm lý học Hoa Kỳ cũng có đánh giá đột phá về trị liệu đối với khách hàng đồng tính muốn đấu tranh để vẫn trung thành với niềm tin đạo đức và không chấp nhận mình là đồng tính. Chủ tịch của Liên minh Công giáo quốc tế, Alan Chambers, một người cựu đồng tính, mô tả bản thân mình là một người "đã vượt qua thu hút đồng tính không mong muốn", và ông bày tỏ sự hài lòng với phần này của báo cáo.[14]

"Đồng tính giả"

Đồng tính giả là một khái niệm chỉ những người có hành vi đồng tính nhưng không phải do bẩm sinh mà là do ảnh hưởng từ môi trường xã hội, bạn bè và vân vân.[15][16]

Theo bác sĩ Trần Bồng Sơn, nhà giới tính học[17] tại Việt Nam, có hai loại người đồng tính: thậtgiả. Những người đồng tính thật là những người đồng tính bẩm sinh, và số người này rất hiếm. Theo ông, hầu hết những người đồng tính là "giả", bị bạn bè rủ rê hoặc muốn để thử nghiệm các lối sống mới[17]

Tại Việt Nam

Theo thạc sĩ tâm lý Võ Văn Nam, vài năm gần đây, hiện tượng quan hệ đồng tính ở Việt Nam ngày càng phổ biến. Tuy nhiên, số người đồng tính về mặt sinh học (bẩm sinh) chiếm tỷ lệ rất ít, mà đa phần là ảnh hưởng tâm lý (phát sinh từ sự đua đòi, a dua theo chúng bạn hoặc bị bạn bè rủ rê thử nghiệm “lối sống mới”...). “Bộ phận người đồng tính tâm lý này có đời sống khá phức tạp, có lối sống buông thả, đặt nặng cảm xúc cá nhân, thích cường điệu cảm xúc dẫn đến dễ bị trượt dài vào tội lỗi”, ông Nam nhận xét. Nguyên nhân khác là do sự thiếu quan tâm của gia đình, nhà trường, xã hội đã tạo nên những con người trẻ tuổi không có lý tưởng sống, chỉ biết đua đòi theo những trào lưu mà không phân biệt đúng sai, không có khả năng miễn nhiễm trước cái xấu.[15]

Theo tiến sĩ, bác sĩ Trần Tuấn - giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Đào tạo và phát triển cộng đồng: "Hiện tượng đồng giới giả do a dua, đua đòi, mang tính tập nhiễm hay bị ảnh hưởng… là có thực. Khi trẻ không có hình ảnh người cha, người mẹ, người thầy, người anh tốt... dễ lấy thần tượng ca sĩ, diễn viên làm mẫu học theo. Nếu không được can thiệp kịp thời thì "giả" sẽ thành "thật", rất có thể các em sẽ rơi vào tình trạng đồng tính hoặc lưỡng giới sau này"[18]

Xem thêm

Chú thích

  1. ^ Bailey, J. Michael; Vasey, Paul; Diamond, Lisa; Breedlove, S. Marc; Vilain, Eric; Epprecht, Marc (2016). “Sexual Orientation, Controversy, and Science”. Psychological Science in the Public Interest. 17 (2): 45–101. doi:10.1177/1529100616637616. PMID 27113562.
  2. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên Rosario
  3. ^ Yarhouse, Mark (1998). “When Clients Seek Treatment for Same-Sex Attractions: Ethical Issues in the "Right to Choose" Debate”. Psychotherapy: Theory, Research, Practice, Training. 35 (2): 248–259. doi:10.1037/h0087753. Đã bỏ qua tham số không rõ |month= (trợ giúp); |ngày truy cập= cần |url= (trợ giúp)
  4. ^ Haldeman, Douglas (2004). “When Sexual and Religious Orientation Collide:Considerations in Working with Conflicted Same-Sex Attracted Male Clients”. The Counseling Psychologist. The Counseling Psychologist. 32 (5): 691. doi:10.1177/0011000004267560.
  5. ^ Drescher, Jack (2001). "Ethical Concerns Raised When Patients Seek to Change Same-Sex Attractions". Journal of Gay & Lesbian Psychotherapy 5 (3/4): 183. Haworth Press.
  6. ^ Coghlan, Andy (ngày 17 tháng 11 năm 2014). “Largest study of gay brothers homes in on 'gay genes'. Psychological Medicine,. doi:10.1017/S0033291714002451. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2014.Quản lý CS1: dấu chấm câu dư (liên kết)
  7. ^ McConaghy N, Hadzi-Pavlovic D, Stevens C, Manicavasagar V, Buhrich N, Vollmer-Conna U (2006). “Fraternal birth order and ratio of heterosexual/homosexual feelings in women and men”. J Homosex. 51 (4): 161–74. doi:10.1300/J082v51n04_09. PMID 17135133.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  8. ^ “SCIENTIFICALLY PROVEN! Homosexuality is NOT genetic. (20 years of research - more than 10,000 scientific papers) Alternative”. Before It's News Alternative News UFO Beyond Science True News Prophecy News People Powered News. Truy cập 3 tháng 8 năm 2015.
  9. ^ The "Trojan Couch": How the Mental Health Associations Misrepresent Science. Jeffrey B. Satinover, National Association for Research and Therapy of Homosexuality publíshing 2004. P 22-25. Trích: one hasn’t actually tracked a specific group of individuals over time, checking periodically on their sexual orientations, but, instead, assessed people of different ages, taking a snapshot in time, then indeed, one can legitimately argue that any changes that correlate with age might have nothing to do with individual development, but instead are caused by the changing culture. Thus, the process of mutability over time that the authors implicitly point to is taking place not so much in the individual as collectively; in this view, "sexual orientation" is not so much a true characteristic of an individual (like height, weight, sex, or e ven stable, measurable personality traits – recall Laumann et al.’s warning that homosexuality is neither easily measurable nor stable), but rather a collective trend or fashion that waxes or wanes with the times...
    Common sense tells us that there is nothing to prevent both processes from occurring at the same time and affecting each other, especially since "the culture" is simply another way of talking about what many interpenetrating cohorts composed of people do. But until such time as a great many carefully designed explicit longitudinal studies are performed, we will be unable to tease out the exact contribution of personal maturation from external cultural fashion in the dramatic decrease over time that is universally confirmed in the prevalence of homosexuality... Furthermore, the extent to which it does or does not do so, shows clear evidence of being directly influenced by "demographics," and "the environment," even the era one lives in—and no evidence of being directly influenced by genes. To the extent one may be specific about the nature of th is "environment," all evidence points towards early and continuing sexual activity and later cultural... But the reality is that since 1994—for ten years—there has existed solid epidemiologic evidence, now extensively confirmed and reconfirmed, that the most common natural course for a young person who develops a "homosexual identity" is for it to sponta neously disappear unless that process is discouraged or interfered with by extraneous factors.
  10. ^ The "Trojan Couch": How the Mental Health Associations Misrepresent Science. Jeffrey B. Satinover, National Association for Research and Therapy of Homosexuality publíshing 2004. Part IV: The Changeability of Homosexuality in Romer and Lawrence. P. 16-20
  11. ^ My Genes Made Me Do It! - Homosexuality and the scientific evidence. Neil and Briar Whitehead. Huntington House Publishing (March 1999). ISBN 978-1563841651. Trang 258
  12. ^ Jeffrey Satinover, M.D. Homosexuality and the Politics of Truth, Baker Books, Grand Rapids, Michigan, 1996. ISBN 978-1-4412-1293-1. P. 186
  13. ^ Warren Throckmorton, "Initial Empirical and Clinical Findings Concerning the Change Process for Ex-gays;" Psychotherapy: Theory/Research/Practice/Training, Vol. 39, No. 1, p. 66-75
  14. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên nytimes
  15. ^ a b http://vnexpress.net/tin-tuc/phap-luat/gia-tang-toi-pham-dong-tinh-trong-gioi-tre-2099293.html
  16. ^ “Giả Lesbian và những hậu quả khôn lường”. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2009.
  17. ^ a b Don Colby, Cao Hữu Nghĩa và Serge Doussantousse, Men who have sex with men and HIV in Vietnam (Những người nam có quan hệ tình dục với nam và HIV tại Việt Nam) (MEN WHO HAVE SEX WITH MEN AND HIV IN VIETNAM: A REVIEW, tiếng Anh). AIDS Education and Prevention, 16(1), 45-54, 2004.
  18. ^ “Giả đồng tính để chứng tỏ... sành điệu”. Báo điện tử Người đưa tin. Truy cập 3 tháng 8 năm 2015.