Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Thành viên:NewUniverse/Nháp/1”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 17: Dòng 17:
Sữa chua (sữa đông) là một dạng khác mà sữa được tiêu thụ trong thời kỳ này. Kinh Vệ-đà mô tả việc đông đặc sữa bằng cách trộn một phần sữa chua vào sữa tươi.<ref name=":3" /> Họ cũng đề cập đến hiện tượng vón cục sữa bằng việc bổ sung các chất thực vật như vỏ của cây [[Butea monosperma|Palash]] và hoa quả của [[táo tàu]], có thể đã chứa men dịch vị giống như [[enzym]].<ref name=":3" /> Đây là một số tài liệu tham khảo sớm nhất về sản xuất [[pho mát]] bằng enzym.<ref name=":3">{{cite book|url=https://books.google.com/books?id=_HiGGcFomlUC&pg=PA37|title=Cheese and Culture: A History of Cheese and its Place in Western Civilization|last1=Kindstedt|first1=Paul|date=2012|publisher=[[Chelsea Green Publishing]]|isbn=978-1-60358-412-8|page=37}}</ref><ref>{{cite book|url=https://www.google.com/books/edition/The_Oxford_Companion_to_Cheese/fRnGDQAAQBAJ?hl=en&gbpv=1|title=The Oxford Companion to Cheese|last1=Anajaria|first1=Jonathan Shapiro|last2=Jasani|first2=Mansi|date=2016|publisher=[[Oxford University Press]]|isbn=978-0-19-933089-8|editor1-last=Donnelly|editor1-first=Catherine|page=373}}</ref>
Sữa chua (sữa đông) là một dạng khác mà sữa được tiêu thụ trong thời kỳ này. Kinh Vệ-đà mô tả việc đông đặc sữa bằng cách trộn một phần sữa chua vào sữa tươi.<ref name=":3" /> Họ cũng đề cập đến hiện tượng vón cục sữa bằng việc bổ sung các chất thực vật như vỏ của cây [[Butea monosperma|Palash]] và hoa quả của [[táo tàu]], có thể đã chứa men dịch vị giống như [[enzym]].<ref name=":3" /> Đây là một số tài liệu tham khảo sớm nhất về sản xuất [[pho mát]] bằng enzym.<ref name=":3">{{cite book|url=https://books.google.com/books?id=_HiGGcFomlUC&pg=PA37|title=Cheese and Culture: A History of Cheese and its Place in Western Civilization|last1=Kindstedt|first1=Paul|date=2012|publisher=[[Chelsea Green Publishing]]|isbn=978-1-60358-412-8|page=37}}</ref><ref>{{cite book|url=https://www.google.com/books/edition/The_Oxford_Companion_to_Cheese/fRnGDQAAQBAJ?hl=en&gbpv=1|title=The Oxford Companion to Cheese|last1=Anajaria|first1=Jonathan Shapiro|last2=Jasani|first2=Mansi|date=2016|publisher=[[Oxford University Press]]|isbn=978-0-19-933089-8|editor1-last=Donnelly|editor1-first=Catherine|page=373}}</ref>


Nhà cảm sinh học [[Wendy Doniger]] so sánh các dân tộc Vệ Đà với các [[cao bồi]] Mỹ, nói rằng họ thường tấn công gia súc của đối thủ. Bà nhận xét thêm rằng các nhóm Vệ Đà xem gia súc như một dạng của cải.{{Sfn|Doniger|2009|p=112}}
Nhà cảm sinh học [[Wendy Doniger]] so sánh các dân tộc Vệ Đà với các [[cao bồi]] Mỹ, nói rằng họ thường tấn công gia súc của đối thủ.{{Sfn|Doniger|2009|p=111}} Bà nhận xét thêm rằng các nhóm Vệ Đà xem gia súc như một dạng của cải.{{Sfn|Doniger|2009|p=112}}


Theo [[kinh Phật]], trong thời kỳ {{circa|800|300}} TCN, gạo luộc với sữa hoặc sữa đông tiếp tục là một mặt hàng lương thực phổ biến. Bò từng được vắt sữa ngày 2 lần. Những con đang mang thai hoặc đang trải qua chu kỳ [[động dục]] hoặc đang sinh con của một con bò khác không được vắt sữa. Việc chuẩn bị payasa cũng được nhắc đến.{{sfn|Prakash|1961|pp=35–38}} ''Madhuparka'' - hỗn hợp mật ong với sữa đông hoặc bơ sữa trâu được dùng để chào đón những vị khách. Việc chuẩn bị một món ngọt với bơ đã được làm rõ như một trong những thành phần cũng được đề cập đến.{{sfn|Prakash|1961|pp=40-41}} [[Kinh điển Phật giáo sơ kỳ]] của thời kỳ này cũng coi sữa và các sản phẩm của nó là những mặt hàng thực phẩm quan trọng, với sữa gạo được đặc biệt ưa chuộng. Họ đề cập đến các chế phẩm làm từ sữa đông, bơ và sữa bơ. Sữa của lạc đà và dê cũng được sử dụng, ngoài sữa của trâu và bò.{{sfn|Prakash|1961|pp=62-63}}
Theo [[kinh Phật]], trong thời kỳ {{circa|800|300}} TCN, gạo luộc với sữa hoặc sữa đông tiếp tục là một mặt hàng lương thực phổ biến. Bò từng được vắt sữa ngày 2 lần. Những con đang mang thai hoặc đang trải qua chu kỳ [[động dục]] hoặc đang sinh con của một con bò khác không được vắt sữa. Việc chuẩn bị payasa cũng được nhắc đến.{{sfn|Prakash|1961|pp=35–38}} ''Madhuparka'' - hỗn hợp mật ong với sữa đông hoặc bơ sữa trâu được dùng để chào đón những vị khách. Việc chuẩn bị một món ngọt với bơ đã được làm rõ như một trong những thành phần cũng được đề cập đến.{{sfn|Prakash|1961|pp=40-41}} [[Kinh điển Phật giáo sơ kỳ]] của thời kỳ này cũng coi sữa và các sản phẩm của nó là những mặt hàng thực phẩm quan trọng, với sữa gạo được đặc biệt ưa chuộng. Họ đề cập đến các chế phẩm làm từ sữa đông, bơ và sữa bơ. Sữa của lạc đà và dê cũng được sử dụng, ngoài sữa của trâu và bò.{{sfn|Prakash|1961|pp=62-63}}

Phiên bản lúc 10:01, ngày 24 tháng 7 năm 2021

Tác phẩm điêu khắc bò và bê, Uttar Pradesh, thế kỷ thứ 7 CN. Bộ sưu tập của Bảo tàng Nghệ thuật Quận Los Angeles.

Sữa đóng một vai trò quan trọng trong nhiều khía cạnh của xã hội Ấn Độ, bao gồm ẩm thực, tôn giáo, văn hóakinh tế.

Ấn Độ có đàn bò sữa lớn nhất thế giới với hơn 300 triệu con bò, sản xuất hơn 187 triệu tấn sữa. Ấn Độ đứng đầu trong số tất cả các quốc gia về cả sản xuất và tiêu thụ sữa. Hầu hết sữa được tiêu thụ trong nước, tuy nhiên một phần nhỏ cũng được xuất khẩu. Ẩm thực Ấn Độ, đặc biệt là ẩm thực Bắc Ấn, có một số sản phẩm từ sữa như paneer, trong khi ẩm thực Nam Ấn sử dụng nhiều sữa chua và sữa hơn. Sữa và các sản phẩm từ sữa đóng một vai trò trong truyền thuyết và thực hành tôn giáo của người Hindu.

Sản xuất sữa ở tiểu lục địa Ấn Độ có nguồn gốc lịch sử từ 8.000 năm trước khi thuần hóa bò u. Các sản phẩm từ sữa, đặc biệt là sữa, đã được tiêu thụ trên tiểu lục địa ít nhất từ ​​thời kỳ Vệ Đà. Vào giữa đến cuối thế kỷ 20, Chiến dịch lũ lụt đã biến ngành công nghiệp sữa của Ấn Độ trở thành ngành công nghiệp sữa lớn nhất thế giới. Trước đây, sản xuất sữa ở Ấn Độ chủ yếu diễn ra ở các trang trại hộ gia đình.

Tác động kinh tế của ngành công nghiệp sữa ở Ấn Độ là rất lớn. Phần lớn sữa được sản xuất từ trâu; sữa bò đứng thứ hai và sữa dê đứng thứ ba. Một lượng lớn các sản phẩm từ sữa được sản xuất ở Ấn Độ. Nhập khẩu sữa vào Ấn Độ không đáng kể và phải chịu thuế quan. Ngành công nghiệp trong nước được điều chỉnh bởi các cơ quan chính phủ như Bộ Chăn nuôi, Sữa và Thủy sản; Uỷ ban Phát triển sữa Quốc gia; và Cơ quan Tiêu chuẩn và An toàn Thực phẩm Ấn Độ.

Lịch sử

Thời kỳ đầu

Lịch sử ngành chăn nuôi bò sữa ở tiểu lục địa Ấn Độ bắt nguồn từ khoảng 8.000 năm sau khi thuần hóa cá thể bò u đầu tiên,[1] được cho là có nguồn gốc từ Ấn Độ.[2] Vào đầu thời kỳ Văn minh lưu vực sông Ấn (k. 3300 – k. 1300 TCN), bò u đã được thuần hóa hoàn toàn và sử dụng để lấy sữa. Chúng được thể hiện rất nhiều trong các di tích và đồ gốm sứ thời đó. Trâu nước cũng là loài bản địa của Nam Á. Trong khi các quần thể hoang dã đã có mặt rất lâu trước khi được thuần hóa, chúng đã được thuần hóa và sử dụng để cày và lấy sữa trong suốt nền văn minh lưu vực sông Ấn. Dê và cừu cũng được thuần hóa ở lưu vực sông Ấn, mặc dù không chắc chúng có được vắt sữa hay không.[3]

Vào thời kỳ Vệ Đà (k. 1500 – k. 500 TCN), sữa là một trong những yếu tố chính của chế độ ăn uống điển hình. Sữa và các sản phẩm từ sữa bao gồm đã được làm sạch đã được tiêu thụ. Kinh Vệ-đà đề cập đến sữa trong một số đoạn và có hơn 700 đề cập đến bò, được mô tả với sự tôn trọng cao[4][5] và được gọi là aghnya (không được giết).[6][7] Cả kinh Vệ-đà và kinh điển Pali, vốn rất giàu mô tả về văn hóa đương đại, đều có nhiều đề cập đến việc cung cấp các sản phẩm sữa và cách chế biến chúng.[8] Sữa, nói chung là sữa bò đun sôi, được sử dụng để pha chế hỗn hợp với ngũ cốc, và cháo với lúa mạch khô.[4][9]

Sữa chua (sữa đông) là một dạng khác mà sữa được tiêu thụ trong thời kỳ này. Kinh Vệ-đà mô tả việc đông đặc sữa bằng cách trộn một phần sữa chua vào sữa tươi.[10] Họ cũng đề cập đến hiện tượng vón cục sữa bằng việc bổ sung các chất thực vật như vỏ của cây Palash và hoa quả của táo tàu, có thể đã chứa men dịch vị giống như enzym.[10] Đây là một số tài liệu tham khảo sớm nhất về sản xuất pho mát bằng enzym.[10][11]

Nhà cảm sinh học Wendy Doniger so sánh các dân tộc Vệ Đà với các cao bồi Mỹ, nói rằng họ thường tấn công gia súc của đối thủ.[12] Bà nhận xét thêm rằng các nhóm Vệ Đà xem gia súc như một dạng của cải.[6]

Theo kinh Phật, trong thời kỳ k. 800 – k. 300 TCN, gạo luộc với sữa hoặc sữa đông tiếp tục là một mặt hàng lương thực phổ biến. Bò từng được vắt sữa ngày 2 lần. Những con đang mang thai hoặc đang trải qua chu kỳ động dục hoặc đang sinh con của một con bò khác không được vắt sữa. Việc chuẩn bị payasa cũng được nhắc đến.[13] Madhuparka - hỗn hợp mật ong với sữa đông hoặc bơ sữa trâu được dùng để chào đón những vị khách. Việc chuẩn bị một món ngọt với bơ đã được làm rõ như một trong những thành phần cũng được đề cập đến.[14] Kinh điển Phật giáo sơ kỳ của thời kỳ này cũng coi sữa và các sản phẩm của nó là những mặt hàng thực phẩm quan trọng, với sữa gạo được đặc biệt ưa chuộng. Họ đề cập đến các chế phẩm làm từ sữa đông, bơ và sữa bơ. Sữa của lạc đà và dê cũng được sử dụng, ngoài sữa của trâu và bò.[15]

Sữa, sữa đông và bơ sữa trâu là những yếu tố quan trọng trong thực phẩm ở tiểu lục địa Ấn Độ qua các triều đại của các nhà cai trị từ các nền tôn giáo khác nhau. Một số du khách nước ngoài ghi nhận sự hiện diện của các sản phẩm từ sữa trong chế độ ăn uống của người Ấn Độ.[16]

Tham khảo

  1. ^ Wiley 2014, tr. 54.
  2. ^ Nivsarkar, Vij & Tantia 2013.
  3. ^ Wiley 2014, tr. 55.
  4. ^ a b Wiley 2014, tr. 57.
  5. ^ Alter, Joseph S. (3 tháng 8 năm 1992). The Wrestler's Body: Identity and Ideology in North India. University of California Press. tr. 148. ISBN 978-0-520-91217-5.
  6. ^ a b Doniger 2009, tr. 112.
  7. ^ Singh, Upinder (2008). A History of Ancient and Early Mediaeval India: From the Stone Age to the 12th Century. Pearson Education India. ISBN 978-81-317-1120-0.
  8. ^ Hirata 2020, tr. 77.
  9. ^ Prakash 1961, tr. 12–13.
  10. ^ a b c Kindstedt, Paul (2012). Cheese and Culture: A History of Cheese and its Place in Western Civilization. Chelsea Green Publishing. tr. 37. ISBN 978-1-60358-412-8.
  11. ^ Anajaria, Jonathan Shapiro; Jasani, Mansi (2016). Donnelly, Catherine (biên tập). The Oxford Companion to Cheese. Oxford University Press. tr. 373. ISBN 978-0-19-933089-8.
  12. ^ Doniger 2009, tr. 111.
  13. ^ Prakash 1961, tr. 35–38.
  14. ^ Prakash 1961, tr. 40-41.
  15. ^ Prakash 1961, tr. 62-63.
  16. ^ Wiley 2017, tr. 44.

Nguồn