Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chèo”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 41: Dòng 41:
Giới chuyên môn cũng chia các làn điệu chèo thành hai loại: chuyên dùng và đa dùng. Chuyên dùng là chỉ dùng cho một số nhân vật trong các vở diễn nào đó như trong vở ''Quan âm Thị Kính'' có điệu ''kể hạnh, ru kệ, ba than'' cho vai Thị Kính; trong vở Kim Nham có điệu ''con gà rừng, hát xuôi hát ngược''… dành cho vai Xúy Vân. Còn các làn điệu đa dùng được dùng trong nhiều vở diễn, có nhiều hoàn cảnh khác nhau như ''lới lơ, luyện năm cung''.<ref>[https://baohaiduong.vn/chuyen-trang/van-nghe/tac-gia---tac-pham/luyen-5-cung---lan-dieu-cheo-tham-tham-tru-tinh-55395 Luyện 5 cung - Làn điệu chèo thăm thẳm trữ tình]</ref>
Giới chuyên môn cũng chia các làn điệu chèo thành hai loại: chuyên dùng và đa dùng. Chuyên dùng là chỉ dùng cho một số nhân vật trong các vở diễn nào đó như trong vở ''Quan âm Thị Kính'' có điệu ''kể hạnh, ru kệ, ba than'' cho vai Thị Kính; trong vở Kim Nham có điệu ''con gà rừng, hát xuôi hát ngược''… dành cho vai Xúy Vân. Còn các làn điệu đa dùng được dùng trong nhiều vở diễn, có nhiều hoàn cảnh khác nhau như ''lới lơ, luyện năm cung''.<ref>[https://baohaiduong.vn/chuyen-trang/van-nghe/tac-gia---tac-pham/luyen-5-cung---lan-dieu-cheo-tham-tham-tru-tinh-55395 Luyện 5 cung - Làn điệu chèo thăm thẳm trữ tình]</ref>


Các làn điệu chèo có nguồn gốc phần lớn từ các vở chèo cổ như: vở chèo Quan Âm Thị Kính (''Sử rầu, gối hạc, ba than, Bình thảo, Chi tải vu quy, Nói lệch, cấm giá, Đường trường phải chiều, Hát đúm, Sắp thường, Làn thảm, Vỡ nước, Rỉ vong, Ru kệ, Sử chuyện, Ví hề, Sử xuân, Sử chúc, Sắp chợt'',...); vở chèo Lưu Bình Dương Lễ (''Hề sư cụ, Hề tiểu gấm hoa chanh, Quân tử vu dịch, Sử xếp, Sa lệch chênh, Tình thư hạ vị, Bóng quế giãi thềm, Ngâm bốn mùa, Sử bằng, Nói sử ghé rầu'',...); vở chèo Trương Viên (''Luyện năm cung, Trần tình, Gió thổi màn loan, Vãn canh 2, Vãn cầm, Vãn theo, Vãn xô, Xẩm tàu điện''...); vở chèo Từ Thức gặp tiên (''Đường trường thu không, Lão say, Chèo quế, Dương xuân, Hề tiểu, Hát cách, Tuyết dạt sông Thương, Sắp đặt để mà chơi'',...); vở chèo Kim Nham (''Bà chúa con cua, Con gà rừng, Hát xuôi hát ngược, Lới lơ, Rủ nhau lên núi thiên thai, Sắp cổ phong, Sắp cá rô, Khấn hàng, Tò vò, Quá giang, Vãn canh 1'',...); vở chèo Chu Mãi Thần (''Hò bắt đò, Có thánh trị vì, Vỉa Huế: dậm chân, sắp sông dâu, suông hời, Thiếp tôi trả lại cho chàng, Hề gậy đốt nhọ bôi mồm, Hề mồi thắt dải lưng xanh, Sắp bắt hề''); vở chèo Trinh Nguyên (''Rỉ vong, ba than, Xẩm xoan, Xẩm dựng, Xẩm thầy bói''); vở chèo Tấm Cám (''Chinh phụ, Hát ru, Ru bống'',...); vở chèo Kiều (''Du xuân, Quạt màn, Hải đường'')
Các làn điệu chèo có nguồn gốc phần lớn từ các vở chèo cổ như: vở chèo Quan Âm Thị Kính (''Sử rầu, gối hạc, ba than, Bình thảo, Chi tải vu quy, Nói lệch, cấm giá, Đường trường phải chiều, Hát đúm, Sắp thường, Làn thảm, Vỡ nước, Rỉ vong, Ru kệ, Sử chuyện, Ví hề, Sử xuân, Sử chúc, Sắp chợt'',...); vở chèo Lưu Bình Dương Lễ (''Hề sư cụ, Hề tiểu gấm hoa chanh, Quân tử vu dịch, Sử xếp, Sa lệch chênh, Tình thư hạ vị, Bóng quế giãi thềm, Ngâm bốn mùa, Sử bằng, Nói sử ghé rầu'',...); vở chèo Trương Viên (''Luyện năm cung, Trần tình, Gió thổi màn loan, Vãn canh 2, Vãn cầm, Vãn theo, Vãn xô, Xẩm tàu điện''...); vở chèo Từ Thức gặp tiên (''Đường trường thu không, Ván cờ tiên, Chèo quế, Dương xuân, Hề tiểu, Hát cách, Tuyết dạt sông Thương, Sắp đặt để mà chơi'',...); vở chèo Kim Nham (''Bà chúa con cua, Con gà rừng, Hát xuôi hát ngược, Lới lơ, Rủ nhau lên núi thiên thai, Sắp cổ phong, Sắp cá rô, Khấn hàng, Tò vò, Quá giang, Vãn canh 1'',...); vở chèo Chu Mãi Thần (''Hò bắt đò, Có thánh trị vì, Vỉa Huế: dậm chân, sắp sông dâu, suông hời, Thiếp tôi trả lại cho chàng, Hề gậy đốt nhọ bôi mồm, Hề mồi thắt dải lưng xanh, Sắp bắt hề''); vở chèo Trinh Nguyên (''Rỉ vong, ba than, Xẩm xoan, Xẩm dựng, Xẩm thầy bói''); vở chèo Tấm Cám (''Chinh phụ, Hát ru, Ru bống'',...); vở chèo Kiều (''Du xuân, Quạt màn, Hải đường'')


Mỗi làn điệu chèo đều có những chức năng biểu cảm, diễn đạt trạng thái của nhân vật trong hoàn cảnh cụ thể của vở diễn.... Trong chèo có những làn điệu tiêu biểu như: ''Đào liễu, lới lơ, ru kệ, đò đưa, làn thảm'' chứa trong mình đủ những yếu tố quan trọng của thanh nhạc: trữ tình, kịch tính và màu sắc. Có những làn điệu độc đáo như ''Con gà rừng, Nón thúng quai thao, Vãn, Sổng, du xuân''… thể hiện tâm hồn con người rất phong phú, tràn ngập những tình cảm như lãng đãng, phất phơ, chòng chành, sương khói…<ref>[http://nxbhanoi.com.vn/chi_tiet_tin/tabid/204/cateID/4/artilceID/16052/language/vi-VN/Default.aspx Những làn điệu vang vọng làng Chèo]</ref> Giai điệu trong làn điệu chèo phản ánh tương đối đầy đủ các trạng thái hỷ, nộ, ai, lạc, ái, ố, dục của con người. Ví dụ ở trạng thái vui vẻ có điệu ''Hồi tiếu, Lão say, Sắp dựng, Dương xuân''…; trạng thái buồn tủi có: ''Sử rầu, Ba than, Vãn cầm, Vãn theo, Trần tình''…; tâm sự yêu thương có: ''Tình thư hạ vị, Đào liễu, Quân tử vu dịch, Đường trường duyên phận, Sử truyện''…
Mỗi làn điệu chèo đều có những chức năng biểu cảm, diễn đạt trạng thái của nhân vật trong hoàn cảnh cụ thể của vở diễn.... Trong chèo có những làn điệu tiêu biểu như: ''Đào liễu, lới lơ, ru kệ, đò đưa, làn thảm'' chứa trong mình đủ những yếu tố quan trọng của thanh nhạc: trữ tình, kịch tính và màu sắc. Có những làn điệu độc đáo như ''Con gà rừng, Nón thúng quai thao, Vãn, Sổng, du xuân''… thể hiện tâm hồn con người rất phong phú, tràn ngập những tình cảm như lãng đãng, phất phơ, chòng chành, sương khói…<ref>[http://nxbhanoi.com.vn/chi_tiet_tin/tabid/204/cateID/4/artilceID/16052/language/vi-VN/Default.aspx Những làn điệu vang vọng làng Chèo]</ref> Giai điệu trong làn điệu chèo phản ánh tương đối đầy đủ các trạng thái hỷ, nộ, ai, lạc, ái, ố, dục của con người. Ví dụ ở trạng thái vui vẻ có điệu ''Hồi tiếu, Lão say, Sắp dựng, Dương xuân''…; trạng thái buồn tủi có: ''Sử rầu, Ba than, Vãn cầm, Vãn theo, Trần tình''…; tâm sự yêu thương có: ''Tình thư hạ vị, Đào liễu, Quân tử vu dịch, Đường trường duyên phận, Sử truyện''…

Phiên bản lúc 21:26, ngày 28 tháng 11 năm 2021

Chèo Quan âm Thị Kính của soạn giả Vũ Khắc Khoan hiệu đính diễn tại Trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ Sài Gòn, năm 1972

Chèo là loại hình nghệ thuật sân khấu cổ truyền Việt Nam. Chèo phát triển mạnh ở phía bắc Việt Nam với trọng tâm là vùng đồng bằng sông Hồng cùng hai khu vực lan tỏa là trung du miền núi Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Loại hình sân khấu này phát triển cao, giàu tính dân tộc. Chèo mang tính quần chúng và được coi là loại hình sân khấu của hội hè với đặc điểm sử dụng ngôn ngữ đa thanh, đa nghĩa kết hợp với cách nói ví von giàu tính tự sự, trữ tình. Nếu sân khấu truyền thống Trung Quốc có đại diện tiêu biểu là Kinh kịch của Bắc Kinh thì đại diện tiêu biểu nhất của sân khấu truyền thống Việt Nam là chèo.[1][2]

Nghệ thuật sân khấu chèo đã trải qua quá trình lịch sử lâu dài từ thế kỉ 10 tới nay, đã đi sâu vào đời sống xã hội Việt Nam. Chèo phản ánh đầy đủ mọi góc độ của bản sắc dân tộc Việt Nam: lạc quan, nhân ái, yêu cuộc sống yên lành, bình dị, nhưng tràn đầy tự hào dân tộc, kiên cường đuổi giặc ngoại xâm, bảo vệ tổ quốc. Cũng chính vì nội dung tư tưởng lành mạnh đó mà trong chèo có đầy đủ các thể loại văn học: trữ tình, lãng mạn, anh hùng ca, sử thi, thơ ca giáo huấn,... hơn hẳn các loại hình nghệ thuật khác như tuồng, cải lương, quan họ… Từ năm 2021, Nghệ thuật chèo đồng bằng sông Hồng được lập hồ sơ đề nghị UNESCO ghi danh là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.

Nguồn gốc hình thành chèo

Chèo được hình thành từ thế kỷ 10, dưới thời nhà Đinh khi vua Đinh Tiên Hoàng trị vì. Kinh đô Hoa Lư (Ninh Bình) là đất tổ của sân khấu chèo, người sáng lập là bà Phạm Thị Trân, một vũ ca tài ba trong hoàng cung đã được nhà vua phong chức quan Ưu Bà.[3] Sau đó chèo phát triển rộng ra toàn lãnh thổ Đại Cồ Việt gồm khu vực châu thổ Bắc Bộ và các tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh ngày nay. Chèo bắt nguồn từ âm nhạc và múa dân gian, nhất là trò nhại từ thế kỷ 10. Qua thời gian, người Việt đã phát triển các tích truyện ngắn của chèo dựa trên các trò nhại này thành các vở diễn trọn vẹn dài hơn.

Đến thế kỷ 14, sự phát triển của sân khấu Việt Nam có một mốc quan trọng là thời điểm một con hát quân đội Nguyên Mông đã bị bắt ở Việt Nam tên gọi Lý Nguyên Cát. Binh sĩ này vốn là một diễn viên nên đã được tha tội chết và sai dạy lối hát đó cho binh sĩ. Cát cho diễn vở Vương mẫu hiến đào để vua ngự lãm cùng các triều thần xem, Ai cũng cho là hay. Qua đó truyền dạy nghệ thuật Kinh kịch của Trung Quốc vào Việt Nam, làm ảnh hưởng trực tiếp đến các loại hình sân khấu tuồng, chèo. Các loại vai diễn cũng ảnh hưởng theo sự kiện này như đán nương (đào), quan nhân (kép), châu tử (tướng), sửu nô (hề),..

Vào thế kỷ 15, vua Lê Thánh Tông đã không cho phép biểu diễn chèo trong cung đình, do chịu ảnh hưởng của đạo Khổng. Chèo trở về với nông dân, kịch bản lấy từ truyện viết bằng chữ Nôm. Chèo gắn liền với sinh hoạt đời sống, hội hè của người Việt. Đồng bằng châu thổ sông Hồng luôn là cái nôi của nền văn minh lúa nước của người Việt. Mỗi khi vụ mùa được thu hoạch, họ lại tổ chức các lễ hội để vui chơi và cảm tạ thần thánh đã phù hộ cho vụ mùa no ấm. Nhạc cụ chủ yếu của chèo là trống chèo. Chiếc trống là một phần của văn hoá cổ Việt Nam, người nông dân thường đánh trống để cầu mưa và biểu diễn chèo.

Tới thế kỷ 18, hình thức chèo đã được phát triển mạnh ở vùng nông thôn Việt Nam và tiếp tục phát triển, đạt đến đỉnh cao vào cuối thế kỷ 19. Những vở nổi tiếng như Quan Âm Thị Kính, Lưu Bình Dương Lễ, Kim Nham, Trương Viên xuất hiện trong giai đoạn này. Đến thế kỷ 19, chèo ảnh hưởng của tuồng, khai thác một số tích truyện như Tống Trân, Phạm Tải, hoặc tích truyện Trung Quốc như Hán Sở tranh hùng. Đầu thế kỷ 20, chèo được đưa lên sân khấu thành thị trở thành chèo văn minh. Có thêm một số vở mới ra đời dựa theo các tích truyện cổ tích, truyện Nôm như Tô Thị, Nhị Độ Mai.

Đặc trưng của chèo

Chèo là nghệ thuật tổng hợp, muốn thấy được cái hay, cái đẹp, cái đặc sắc của chèo phải trực tiếp đến với các chiếu chèo, các vở diễn. Đặc biệt, nếu thuộc được một số làn điệu thì mới thấy được sức cuốn hút lạ kỳ của chèo đối với người nghe. Hát chèo là lối hát sân khấu, có thể một người, có thể nhiều người hát đồng ca. Giai điệu của các làn điệu hát chèo rất phù hợp với giọng tự nhiên và ngôn ngữ của người Việt. Hát chèo được hình thành bắt nguồn từ các làn điệu dân ca, lời hát chèo lấy trong các sáng tác văn học dân gian ở vùng đồng bằng Bắc Bộ là chủ yếu. Ngoài ra các làn điệu chèo còn chịu những ảnh hưởng từ hát văn, hát Xẩm, hát ghẹo, hát Xoan, hát Quan họ, hát đúm, ca Huế,... Hát chèo là loại hình nghệ thuật dân tộc có sức sống lâu bền, độc đáo và phổ biến. Nó đáp ứng được nhu cầu thẩm mỹ, giáo dục và phục vụ đắc lực cho đời sống tinh thần của nhân dân nên chèo luôn được nhân dân yêu mến, gìn giữ.

Về nội dung, không giống tuồng chỉ ca tụng hành động anh hùng của các giới quyền quý, chèo thường miêu tả cuộc sống bình dị của người dân nông thôn, ca ngợi những phẩm chất cao cả của con người. Nội dung của các vở chèo lấy từ những truyện cổ tích, truyện Nôm; được nâng lên một mức cao bằng nghệ thuật sân khấu mang giá trị hiện thực và tư tưởng sâu sắc. Trong chèo, cái thiện thường thắng cái ác, các sĩ tử tốt bụng, hiền lành, luôn đỗ đạt, làm quan còn người vợ thì tiết nghĩa, cuối cùng sẽ được đoàn tụ với chồng. Các tích trò chủ yếu lấy từ truyện cổ tích, truyện Nôm; ca vũ nhạc từ dân ca dân vũ; lời thơ chủ yếu là thơ dân gian. Lối chèo thường diễn những việc vui cười, những thói xấu của người đời như các vai: Thầy mù, Hương câm, Đồ điếc trong Quan Âm Thị Kính. Ngoài ra chèo còn thể hiện tính nhân đạo, như trong vở Trương Viên. Chèo luôn gắn với chất "trữ tình", thể hiện những xúc cảm và tình cảm cá nhân của con người, phản ánh mối quan tâm chung của nhân loại: tình yêu, tình bạn, tình thương.

Nhân vật trong chèo thường mang tính ước lệ, chuẩn hóa và rập khuôn. Tính cách của các nhân vật trong chèo thường không thay đổi với chính vai diễn đó. Những nhân vật phụ của chèo có thể đổi đi và lắp lại ở bất cứ vở nào, nên hầu như không có tên riêng. Có thể gọi họ là thầy đồ, phú ông, thừa tướng, thư sinh, hề v.v...Tuy nhiên, qua thời gian, một số nhân vật như Thiệt Thê, Thị Kính, Thị Mầu, Súy Vân đã thoát khỏi tính ước lệ đó và trở thành một nhân vật có cá tính riêng.

Hề chèo là một vai diễn rất đặc trưng trong các vở diễn chèo. Các cảnh diễn có vai hề là nơi để cho người dân đả kích những thói hư tật xấu của xã hội phong kiến hay kể cả vua quan, những người có quyền, có của trong làng xã. Trong chèo không thể thiếu hề, điều đó đã được khẳng định qua nhiều vở chèo truyền thống - “phi Hề bất thành Chèo”. Nghệ thuật tung hứng của các anh hề trong tích chèo đã không chỉ mang lại tiếng cười cho người xem mà nó còn chứa đựng, chuyển tải cả những tinh thần, tư tưởng khác của vở diễn, mà những tư tưởng đó nhiều khi còn có ý nghĩa lớn hơn một tiếng cười. Có hai loại hề chính bao gồm: hề áo dàihề áo ngắn. Hề áo ngắn gồm có hề Gậy và hề Mồi. Hề Gậy thường là các anh chàng hề đồng lóc cóc chạy theo hầu thầy khi ra sân khấu mang theo gậy đường trường hoặc cây đòn gánh. Hề Mồi là những nhân vật hầu hạ sai vặt, điếu đóm trong nhà hoặc lính canh, lính hầu nơi quan phủ, tư dinh… Nhân vật này ra sân khấu thường mang theo chiếc mồi quấn bằng giẻ tẩm mỡ, tẩm dầu đốt sáng như đuốc. Do thân phận hầu hạ, hề Mồi hay ra trước dọn dẹp, đón quan đủng đỉnh ra sau. Loại thứ hai của hề chèo là hề áo dài. Hề áo dài thường hóa trang xấu xí, nhọ nhem như phù thủy, thầy bói, thầy đồ dốt nát, hả hê vui sướng tự giễu cợt mình, tự lột mặt nạ bản thân và tự đẩy mình vào tình huống lố bịch. Loại hề này cười cợt trên sân khấu chèo sân đình với đủ mọi giọng điệu phong phú: giễu vui, đả kích, đùa bỡn, trêu chọc, nghịch ngợm… với mục đích tự bôi bác mình.

Sân khấu chèo là loại hình nghệ thuật tổng hợp các yếu tố dân ca, dân vũ và các loại hình nghệ thuật dân gian khác ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Nó là hình thức kể chuyện bằng sân khấu, lấy sân khấu và diễn viên làm phương tiện giao lưu với công chúng, và có thể được biểu diễn ngẫu hứng. Sân khấu chèo dân gian đơn giản, những danh từ chèo sân đình, chiếu chèo cũng phát khởi từ đó. Đặc điểm nghệ thuật của chèo bao gồm yếu tố kịch tính, kỹ thuật tự sự, phương pháp biểu hiện tính cách nhân vật, tính chất ước lệ và cách điệu. Ngôn ngữ chèo có những đoạn sử dụng những câu thơ chữ Hán, điển cố, hoặc những câu ca dao với khuôn mẫu lục bát rất tự do, phóng khoáng về câu chữ.

Chèo sử dụng tối thiểu là ba loại nhạc cụ dây là đàn nguyệt, đàn nhịđàn bầu đồng thời thêm cả sáo nữa. Ngoài ra, các nhạc công còn sử dụng thêm trốngchũm chọe. Bộ gõ nếu đầy đủ thì có trống cái, trống con, trống cơm, thanh la, . Trống con dùng để giữ nhịp cho hát, cho múa và đệm cho câu hát. Có câu nói " phi trống bất thành chèo" chỉ vị trí quan trọng của chiếc trống trong đêm diễn chèo. Trong chèo hiện đại có sử dụng thêm các nhạc cụ khác để làm phong phú thêm phần đệm như đàn tam thập lục, tiêu v.v...

Các làn điệu chèo

Số làn điệu chèo theo ước tính có khoảng trên 200 làn điệu, chủ yếu được hình thành và bắt nguồn từ các làn điệu dân ca, ca dao, thơ giàu chất văn học đằm thắm trữ tình... Làn điệu chèo được chia ra thành hệ thống như sau:

  • Hệ thống làn điệu đối đáp, trữ tình: 22 điệu,
  • Hệ thống làn điệu đường trường: 17 điệu, Hệ thống đường trường thường là những điệu hát có cấu trúc lớn bao gồm nhiều trổ và có kĩ thuật phức tạp. Những điệu hát trong hệ thống này thường mang tính chất trữ tình và diễn tả những trạng thái nội tâm khá phức tạp của nhân vật.
  • Hệ thống làn điệu sắp: 29 điệu. Mô hình hát sắp thường mang tính chất hát nói, tiết tấu nhanh, vui vẻ, sôi nổi, thể hiện sự phấn chấn, lạc quan trong đó có cả những bài hát sắp mang tính giễu cợt để dùng cho các vai hề như: Sắp mưa ngâu, sắp đan lồng, sắp dựng.
  • Hệ thống làn điệu hề: 28 điệu. Đây là những hệ thống làn điệu chuyên dùng cho các vai: Hề gậy, hề mồi có tính chất vui vẻ, gây cười và nhiều lúc dùng để châm biếm và giễu cợt.
  • Hệ thống làn điệu ra trò: 36 điệu. Tiêu biểu như: Gió thổi màn loan
  • Hệ thống làn điệu vãn, thảm: 10 điệu. Hát vãn thường dùng cho nhân vật trong những hoàn cảnh buồn khổ, than thân trách phận, ngậm ngùi xót xa.
  • Hệ thống làn điệu nói sử: Hát sử và nói sử là lối nói đặc biệt quan trọng trong việc hình thành phong cách âm nhạc kể chuyện của chèo, nó mang tính tự sự rõ rệt nhưng rất chú ý đến việc vận dụng ngữ khí âm sắc. Khi thể hiện thì lại mang âm điệu đĩnh đạc và có tiết tấu nhất định. Nó dùng để thể hiện cho nhiều nhân vật ở những hoàn cảnh cần phải thể hiện rõ nét hơn.
  • Hệ thống làn điệu sa lệch: Hệ thống sa lệch thể hiện tính chất trữ tình, đằm thắm thiết tha, đôi khi có chút dỗi hờn và sự buồn thương man mác.
  • Hệ thống làn điệu nói, vỉa, ngâm vịnh.
  • Hệ thống chỉ có một làn điệu như một bài hát riêng được gọi là bài ca lẻ trong chèo. Bài ca lẻ không đứng trong một hệ thống làn điệu nhưng mang giá trị thẩm mỹ cao như: Quân tử vu dịch, Đào liễu, Đào lý, Tình thư hạ vi, Bình thảo, Chức cẩm hồi văn, Lới lơ... bản thân mỗi làn điệu đó cũng là một mô hình âm nhạc nhưng chưa được bẻ làn nắn điệu và chuyển hóa mô hình thành một điệu khác.

Giới chuyên môn cũng chia các làn điệu chèo thành hai loại: chuyên dùng và đa dùng. Chuyên dùng là chỉ dùng cho một số nhân vật trong các vở diễn nào đó như trong vở Quan âm Thị Kính có điệu kể hạnh, ru kệ, ba than cho vai Thị Kính; trong vở Kim Nham có điệu con gà rừng, hát xuôi hát ngược… dành cho vai Xúy Vân. Còn các làn điệu đa dùng được dùng trong nhiều vở diễn, có nhiều hoàn cảnh khác nhau như lới lơ, luyện năm cung.[4]

Các làn điệu chèo có nguồn gốc phần lớn từ các vở chèo cổ như: vở chèo Quan Âm Thị Kính (Sử rầu, gối hạc, ba than, Bình thảo, Chi tải vu quy, Nói lệch, cấm giá, Đường trường phải chiều, Hát đúm, Sắp thường, Làn thảm, Vỡ nước, Rỉ vong, Ru kệ, Sử chuyện, Ví hề, Sử xuân, Sử chúc, Sắp chợt,...); vở chèo Lưu Bình Dương Lễ (Hề sư cụ, Hề tiểu gấm hoa chanh, Quân tử vu dịch, Sử xếp, Sa lệch chênh, Tình thư hạ vị, Bóng quế giãi thềm, Ngâm bốn mùa, Sử bằng, Nói sử ghé rầu,...); vở chèo Trương Viên (Luyện năm cung, Trần tình, Gió thổi màn loan, Vãn canh 2, Vãn cầm, Vãn theo, Vãn xô, Xẩm tàu điện...); vở chèo Từ Thức gặp tiên (Đường trường thu không, Ván cờ tiên, Chèo quế, Dương xuân, Hề tiểu, Hát cách, Tuyết dạt sông Thương, Sắp đặt để mà chơi,...); vở chèo Kim Nham (Bà chúa con cua, Con gà rừng, Hát xuôi hát ngược, Lới lơ, Rủ nhau lên núi thiên thai, Sắp cổ phong, Sắp cá rô, Khấn hàng, Tò vò, Quá giang, Vãn canh 1,...); vở chèo Chu Mãi Thần (Hò bắt đò, Có thánh trị vì, Vỉa Huế: dậm chân, sắp sông dâu, suông hời, Thiếp tôi trả lại cho chàng, Hề gậy đốt nhọ bôi mồm, Hề mồi thắt dải lưng xanh, Sắp bắt hề); vở chèo Trinh Nguyên (Rỉ vong, ba than, Xẩm xoan, Xẩm dựng, Xẩm thầy bói); vở chèo Tấm Cám (Chinh phụ, Hát ru, Ru bống,...); vở chèo Kiều (Du xuân, Quạt màn, Hải đường)

Mỗi làn điệu chèo đều có những chức năng biểu cảm, diễn đạt trạng thái của nhân vật trong hoàn cảnh cụ thể của vở diễn.... Trong chèo có những làn điệu tiêu biểu như: Đào liễu, lới lơ, ru kệ, đò đưa, làn thảm chứa trong mình đủ những yếu tố quan trọng của thanh nhạc: trữ tình, kịch tính và màu sắc. Có những làn điệu độc đáo như Con gà rừng, Nón thúng quai thao, Vãn, Sổng, du xuân… thể hiện tâm hồn con người rất phong phú, tràn ngập những tình cảm như lãng đãng, phất phơ, chòng chành, sương khói…[5] Giai điệu trong làn điệu chèo phản ánh tương đối đầy đủ các trạng thái hỷ, nộ, ai, lạc, ái, ố, dục của con người. Ví dụ ở trạng thái vui vẻ có điệu Hồi tiếu, Lão say, Sắp dựng, Dương xuân…; trạng thái buồn tủi có: Sử rầu, Ba than, Vãn cầm, Vãn theo, Trần tình…; tâm sự yêu thương có: Tình thư hạ vị, Đào liễu, Quân tử vu dịch, Đường trường duyên phận, Sử truyện

Một số làn chèo tiêu biểu

Bà chúa con cua, Bắt hò, Bát mật con ruồi, Binh thảo, Bình tửu, Bồ kếch bồ các, Bóng quế giãi thềm, Cách cú, Cấm giá, Chèo quế, Chi tải vu quy, Chức cẩm hồi văn, Con nhện giăng mùng, Con tò vò, Dậm chân, Đào liễu, Đào lý một cành, Đò đưa, Du xuân, Đường trường duyên phận, Đường trường phải chiều, Đường trường thu không, Đường trường tiếng đàn, Đường trường trong rừng, Dương xuân, Duyên tình, Gà rừng, Gánh nước tưới cà, Ghẹo nguyệt trêu hoa, Gió thổi màn loan, Hát cách, Hát cách gối hạc, Hát đúm, Hát sắp, Hát sắp thường, Hát tiên, Hát xuôi ngược, Hề bát môn, Hề đơm đó, Hề đom đóm, Hề mồi anh kiêu nàng thấp, Hề mồi bằng vàng, Hề mồi cơm canh, Hề mồi cu sứt, Hề mồi duyên tình, Hề mồi sư cụ, Hề tiểu, Làn say, Làn thảm, Lới lơ, Luyện năm cung, Luyện tam tầng, Nhân khang (loại hát vỡ nước), Nhịp đuổi, Nói hạnh, Nói rỉ vong, Nói sử rầu, Nón thúng quai thao, Quá giang, Quân tử vu dịch, Quạt màn, Rót chén rượu đào, Ru bống, Ru kệ, Rủ nhau lên núi thiên thai, Sa lệch bằng, Sa lệch chênh, Sắp bắt hề, Sắp cá rô, Sắp chênh, Sắp chò, Sắp cổ phong, Sắp đan lồng, Sắp đánh cờ, Sắp đặt để mà chơi, Sắp mưa ngâu, Sắp phòng loan, Sắp qua cầu, Sắp thường, Sử bằng, Sử chuyện, Sử xuân, Tháp trị vì (thiếp trả cho chàng), Thiếp bỏ cho chàng, Tiền xướng ca hậu lâm khúc, Tiểu gấm hoa chanh, Tình thư hạ vị, Tò vò, Tòng nhất nhi chung, Tú bà khấn tiên sư, Tuyết sương, Vãn cầm, Vãn canh 1, Vãn canh 2, Vãn theo, Xẩm dựng, Xẩm thày bói, Xẩm xoan, Xe tơ, Xuông hời.

Phân loại chèo

Các nghệ sĩ Nhà hát chèo Việt Nam biểu diễn ở bờ Bắc sông Bến Hải, năm 1956)
  • Chèo truyền thống: khai thác đề tài chèo cổ Việt Nam. Chèo về đề tài truyền thống vẫn được kế thừa và phát triển trên nguyên tắc bảo tồn những giá trị cơ bản của chèo cổ. Một số tác phẩm kinh điển của nghệ thuật chèo truyền thống như: Quan Âm Thị Kính, Trương Viên, Nàng Thiệt Thê (Chu Mãi Thần), Kim Nham (Súy Vân), Lưu Bình - Dương Lễ, Trinh Nguyên (Tôn Mạnh Tôn Trọng) và Từ Thức gặp tiên.
  • Chèo hiện đại: khai thác đề tài cuộc sống hiện tại. Một số điệu hát chèo đã được cải biên, phối khí theo phong cách và nhạc cụ hiện đại nhưng vẫn giữ giai điệu gốc vốn có của chèo. Một số vở chèo hiện đại như: Chị Trầm, Con trâu hai nhà, Đường đi đôi ngả, Mối tình Điện Biên, Đường về trận địa, Sợi tơ vàng, Những cô thợ dệt, Chiến trường không tiếng súng, Tình rừng, Người con gái Kinh Bắc.

Ngoài ra còn một số loại hình chèo ít được nhắc đến hơn như: chèo sân đình, chèo opera, chèo cải lương, chèo văn minh, chèo chải hê, chèo bả trạo, chèo thờ, chèo đò,...

Tứ chiếng chèo

Tứ chiếng chèo là cách phân vùng không gian nghệ thuật chèo đồng bằng sông Hồng kể từ thế kỷ 15, khi chèo rời kinh đô trở về vùng nông thôn. Chiếng Chèo là những phường Chèo hoạt động trong một vùng văn hóa, địa lý nhất định. Phong trào hát chèo xưa phân vùng chèo châu thổ sông Hồng thành 4 chiếng chèo Đông, chèo Đoài, chèo Nam, chèo Bắc với kinh đô Thăng Long - Hà Nội ở vị trí trung tâm. Mỗi chiếng có những "ngón nghề" riêng, kỹ thuật riêng, khó lưu truyền và phát triển ra đến bên ngoài do sự khác nhau trong phong cách nghệ thuật dựa trên cơ sở dân ca, dân vũ và văn hóa địa phương, chỉ người trong chiếng mới diễn được với nhau. Nhưng có những nghệ nhân chèo tài năng, nhập vào chiếng nào cũng diễn được, diễn hay, được tôn là "nghệ nhân tứ chiếng".

Trong tứ chiếng chèo xưa thì hiện nay thì chiếng chèo Nam được bảo tồn tốt hơn cả vì là quê hương của nghệ thuật chèo và có các địa phương mạnh về chèo như Thái Bình, Ninh Bình, Nam ĐịnhHà Nam. Tiếp theo là chiếng chèo Đông với các vùng chèo Hải Dương, Hưng Yên, Hải Phòng, Quảng Ninh. Chiếng chèo xứ Đoài trước đây với trung tâm là vùng Thạch Thất - Sơn Tây nay đã bị sáp nhập về Hà Nội, phần còn lại thuộc các tỉnh trung du Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Tuyên Quang. Xứ Bắc là quê hương của quan họ nên nghệ thuật chèo ít được quan tâm hơn, nhưng vẫn tồn tại ở nhiều làng quê Bắc Giang, Bắc Ninh.

Các tổ chức chèo hiện nay

Các đoàn chèo, nhà hát chèo Việt Nam năm 2020

Các tổ chức chèo hiện nay gồm có các nhà hát chèo, đoàn chèo chuyên nghiệp và các câu lạc bộ chèo không chuyên

Quy mô lớn nhất của các đơn vị nghệ thuật Chèo là Nhà hát Chèo rồi đến Đoàn Chèo, một số tỉnh chỉ biên chế đội hoặc tổ Chèo thuộc đoàn nghệ thuật hoặc trung tâm nghệ thuật tỉnh. Ở Việt Nam hiện có 18 đơn vị nghệ thuật chuyên nghiệp có chèo trong đó gồm:

Hình thức sinh hoạt câu lạc bộ chèo hiện đại đã vượt ra khỏi không gian làng xã và trở thành nơi tập hợp những người yêu chèo. Các câu lạc bộ Chèo cấp tỉnh, huyện, xã, thôn do các nghệ sĩ chèo hoặc những người yêu chèo sáng lập nhiều nơi như: Bắc Giang có 40 CLB chèo, Bắc Ninh có 60 CLB chèo, Hà Nam có 70 CLB chèo, Hải Dương có 190 CLB chèo, Nam Định có 200 CLB chèo,...

Các nghệ sĩ nổi tiếng

Các cố nghệ sĩ

Trùm Thịnh
  • Tổ nghề Phạm Thị Trân và các vị hậu tổ nghệ thuật chèo được chép trong Hý phường phả lục của Lương Thế Vinh gồm: Đào Văn Só, Đặng Hồng Lân, Đào Hoa, Từ Đạo Hạnh, Sái Ất và Chính Vịnh Càn.
  • Nguyễn Đình Nghị (1886-1954) quê làng Thụy Lôi, xã Thụy Lôi, huyện Tiên Lữ, Hưng Yên. Ông có công đầu trong việc gìn giữ và cách tân Chèo. Ông đi từ Chèo sân đình, qua Chèo văn minh và thành đạt ở Chèo cải lương.
  • Trùm Thịnh (Cụ Nguyễn Văn Thịnh), (1883-1973), được truy phong Nghệ sĩ nhân dân; là người phục hồi nghệ thuật chèo và xây dựng sân khấu chèo hiện đại. Vở Lưu Bình Dương Lễ lời trò do cụ Trịnh Thị Lan đọc và có bổ sung của cụ Nguyễn Văn Thịnh năm 1956.
  • Cả Tam (Cụ Trịnh Thị Lan), (1888 - 1971), được truy phong Nghệ sĩ nhân dân; một trong những nghệ nhân có công khôi phục vốn chèo cổ đồng thời có đóng góp lớn cho việc hiện đại hoá chèo.
  • An Văn Mược (Cả Mược): Nghệ nhân trùm chèo nổi tiếng ở Ninh Bình, có công lưu giữ các làn điệu chèo. Tác giả biên kịch vở chèo kinh điển là Quan Âm Thị Kính (cùng với Phạm Hồng Lô) và vở chèo cổ Kim Nham (cùng với Phạm Hồng Lô, Nguyễn Mầm, Nguyễn Văn Tích).
  • Tào Mạt: là người có đóng góp lớn trong sự phát triển chèo hiện đại. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là bộ ba vở chèo Bài ca giữ nước kể về lịch sử Việt Nam thời nhà Lý với nhân vật chính là Lý Thánh Tông, Nguyên phi Ỷ LanLý Nhân Tông.
  • Nguyễn Thị Minh Lý, bà sinh năm 1912, là con gái Trùm Thịnh (1883 - 1973), người đã cùng với Nguyễn Đình NghịCả Tam (1888 - 1971) đóng góp lớn cho việc hiện đại hóa chèo đầu thế kỷ 20.
  • Dịu Hương (1919-1994), người Bình Lục, Hà Nam, thành công với những trích đoạn Xuý Vân giả dạiThị Màu lên chùa.
  • Năm Ngũ, Tư Liên, Lý Mầm, Mạnh Tuấn, những nghệ nhân nổi danh với loại vai hề chèo
    Hoa Tâm
  • Vũ Thị Tý (1936-1974); được truy phong Nghệ sĩ ưu tú năm 1995; nổi tiếng với các vai: Thị Kính trong "Quan âm Thị Kính"(tác giả: Nguyễn Văn Thịnh); Đào Huế trong "Chu Mãi Thần" (tác giả: Nguyễn Văn Mầm); Mụ quán trong "Xúy Vân" (tác giả: Hàn Thế Du); Chị Út Tịch trong "Cô Giải phóng" (tác giả: Tào Mạt); Chị Tâm trong "Phiến đá" (tác giả: Hà Văn Cầu).
  • Kiều Bạch Tuyết (1939-1975); được truy phong Nghệ sĩ ưu tú năm 1995; nổi tiếng với các vai: Thị Mầu trong "Quan âm Thị Kính" (tác giả: Nguyễn Văn Thịnh); Đào nấp trong "Chu Mãi Thần" (tác giả: Nguyễn Văn Mầm); Mụ Cám trong "Tấm Cám" (tác giả: Lưu Quang Thuận).
  • Hoa Tâm (1906 - 1986), người xã Kim Động, tỉnh Hưng Yên.
  • Phạm Hồng Lô: Nghệ nhân chèo người Yên Khánh, Ninh Bình.
Đền Vân Thị cạnh nhà hát Chèo Ninh Bình, nơi thờ bà tổ hát chèo Phạm Thị Trân

Các nghệ sĩ đương đại

Tác phẩm chèo tiêu biểu

Một số vở chèo tiêu biểu
  • 7 vở chèo truyền thống trong tuyển tập chèo cổ Việt Nam, được xem là những tác phẩm kinh điển của nghệ thuật chèo gồm: Quan Âm Thị Kính, Trương Viên, Nàng Thiệt Thê (Chu Mãi Thần), Kim Nham (Súy Vân), Lưu Bình - Dương Lễ, Trinh Nguyên (Tôn Mạnh Tôn Trọng) và Từ Thức gặp tiên.
  • Các vở chèo khác sau đó đã có tác giả như Bài ca giữ nước, Tấm Cám, Đồng tiền Vạn Lịch, Hoàng Trìu kén vợ, Nghêu sò ốc hến, Trần Tử Lệ,...
  • Một số trích đoạn tiêu biểu được xem là mẫu mực, kinh điển, được đưa vào giảng dạy cho các sinh viên học khoa Kịch hát dân tộc, chuyên ngành chèo như: Thị Mầu lên chùa, Xã trưởng - Mẹ Đốp (vở Quan Âm Thị Kính); Xúy Vân giả dại, Cả sứt dặn em, Phù thủy sợ ma, Mụ Quán và thằng Khoèo (vở Kim Nham), Tuần Ty Đào Huế (vở Chu Mãi Thần); Thày bói đi chợ, Thày đồ dạy học (vở Trinh Nguyên); Nghinh Hương quán, Lưu Bình vinh quy bái tổ (vở Lưu Bình Dương Lễ); Từ Thức gặp Tiên, Giáng Hương vào chùa (vở Từ Thức)...
  • Các vở chèo về đề tài hiện đại: Những vần thơ thép, Danh chiếm bảng vàng, Chiến trường không tiếng súng, Cà phê chín đỏ, Bến nước đời người, Giếng thơi trong lòng phố, Quả ngọt trái mùa, Đất làng, Nắng quái chiều hôm,...
Nghiên cứu về chèo
  • Lương Thế Vinh đã viết Hý Phường Phả Lục là tài liệu nghiên cứu chèo xưa nhất ở Việt Nam. Tác phẩm viết về các khoán ước của phường chèo, kịch bản và diễn xuất, cách đánh trống chèo, phương pháp múa hát, các vị tổ chèo, nôi chèo.
  • Hà Văn Cầu (1964), Tim hiểu phương pháp viết Chèo, Nhà xuất bản Văn hóa nghệ thuật Hà Nội.
  • Bùi Đức Hạnh (2006), 150 làn điệu chèo cổ, Nhà xuất bản Văn hoá dân tộc, Hà Nội.
  • Vũ Khắc Khoan (1974), Tìm hiểu Sân khấu Chèo, Nhà xuất bản Lửa thiêng, Sài Gòn.
  • Nguyễn Thanh Phương (2003), Âm nhạc sân khấu chèo nửa cuối thể kỷ XX, Trường Đại học Sân khấu - Điện ảnh Hà Nội.

Bảo tồn nghệ thuật chèo

Đề cử di sản văn hóa thế giới

Năm 2021 Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Thái Bình đã xây dựng hồ sơ "Nghệ thuật chèo đồng bằng sông Hồng" để trình UNESCO đưa vào danh sách di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.[6]

Hà Nam là tỉnh tiên phong trong việc lập hồ sơ đệ trình UNESCO công nhận nghệ thuật hát Chèo là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại[7] Đây là chủ trương được cụ thể trong theo Quyết định này Quy hoạch phát triển văn hoá, thể dục thể thao tỉnh Hà Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.

Ngày 20/10/2021, Văn phòng Chính phủ ban hành văn bản 7611/VPCP-KGVX đồng ý để Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương liên quan triển khai lập Hồ sơ di sản đối với Nghệ thuật Chèo Đồng bằng sông Hồng trình UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới.[8]

Hội diễn sân khấu chèo

Các cuộc thi nghệ thuật Sân khấu Chèo chuyên nghiệp toàn quốc dành cho các đơn vị nghệ thuật Chèo chuyên nghiệp là hoạt động mang tính thi đua cao nhằm đánh giá, tổng kết hoạt động nghệ thuật Chèo của các đơn vị trên toàn quốc sau thời gian 3 năm; từ đó định hướng cho 3 năm tiếp theo. Thời gian tổ chức Cuộc thi dành cho các đơn vị nghệ thuật Chèo chuyên nghiệp là 3 năm một lần. Ngoài ra còn các cuộc thi dành cho nhóm nghệ sĩ, cá nhân nghệ sĩ như: Cuộc thi tài năng trẻ diễn viên Sân khấu Tuồng, Chèo; Cuộc thi tài năng trẻ đạo diễn Sân khấu toàn quốc; Cuộc thi tài năng biểu diễn Múa; Cuộc thi tài năng trẻ biên đạo Múa.

Liên hoan nghệ thuật sân khấu Chèo là hoạt động giao lưu, trao đổi, học tập, tôn vinh các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong sáng tạo nghệ thuật. Liên hoan chỉ tổ chức cho các loại hình nghệ thuật Chèo không tham gia các Cuộc thi dành cho các đơn vị nghệ thuật Chèo. Đơn vị tổ chức các cuộc Liên hoan nghệ thuật Chèo tại Việt Nam xây dựng chủ đề cho mỗi cuộc, gắn với việc kỷ niệm các ngày lễ trọng đại của dân tộc, các sự kiện chính trị diễn ra hàng năm. Các cuộc Liên hoan tổ chức xen kẽ trong khoảng thời gian giữa hai kỳ tổ chức các Cuộc thi.

Lễ hội truyền thống

Niềm đam mê chèo của người dân Việt thể hiện qua việc khát khao đến với các lễ hội dân gian truyền thống:

Ăn no rồi lại nằm khoèo
Nghe giục trống chèo vỗ bụng đi xem
Chẳng thèm ăn chả ăn nem
Thèm no cơm tẻ, thèm xem hát chèo.

Các lễ hội ở vùng châu thổ sông Hồng thường có biểu diễn nghệ thuật hát chèo dưới dạng sân khấu chèo, chiếu chèo hoặc tổ chức hội thi, hội diễn chèo. Các lễ hội tiêu biểu luôn có hát chèo làm chủ đạo tiêu biểu như:

Chú thích

  1. ^ Sức sống của chèo cổ
  2. ^ Xem cuốn Non Nước Việt Nam, mục Nghệ thuật sân khấu truyền thống
  3. ^ “Lịch sử và đặc điểm nghề hát Chèo Việt Nam”. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2015.
  4. ^ Luyện 5 cung - Làn điệu chèo thăm thẳm trữ tình
  5. ^ Những làn điệu vang vọng làng Chèo
  6. ^ Trình UNESCO đưa "Nghệ thuật chèo đồng bằng sông Hồng" vào danh sách di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại
  7. ^ PHÊ DUYỆT QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN VĂN HOÁ, THỂ DỤC THỂ THAO TỈNH HÀ NAM ĐẾN NĂM 2020, TẦM NHÌN 2030
  8. ^ Lập hồ sơ đệ trình UNESCO công nhận nghệ thuật Chèo là Di sản Văn hóa thế giới