Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Hoàng đế Đức”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 29: Dòng 29:
Lễ thành lập Đế quốc Đức diễn ra ở [[cung điện Versailles]] ([[Pháp]]) vào năm [[1871]], và không phải là ngẫu nhiên mà Bismarck chọn nơi này. Như mọi học sinh Đức đều biết, một [[thế kỷ]] trước thời [[Napoléon Bonaparte]], vua Pháp [[Louis XIV của Pháp|Louis XIV]] - người đã xây nên cung điện Versailles - đã [[xâm lược]] nước Đức, lăng mạ các Vương hầu Đức. Qua đó, sự kiện này thể hiện sự "trả đũa" của người Đức đối với các cuộc xâm lăng của Louis XIV và Napoléon, cũng như là sự lăng nhục mà người Phổ giành cho Pháp - quốc gia lớn mạnh nhất châu Âu đã bị Phổ đánh bại trong cuộc [[Chiến tranh Pháp-Phổ]].<ref> Alan Davies, ''The Crucified Nation: A Motif in Modern Nationalism'', trang 56</ref><ref name="tongUe4">Neil Tonge, ''The Rise of the Nazis'', trang 4</ref> Với cuộc đăng quang này, [[Liên bang Bắc Đức]] ('''''Norddeutscher Bund''''') được chuyển đổi thành [[Đế quốc Đức]] ('''''Deutsches Kaiserreich'''''). Đế quốc này là một [[Liên bang|quốc gia Liên bang]]; Hoàng đế là nguyên thủ quốc gia và cũng là vị [[Chủ tịch]] của các vua chúa Liên bang (các vị [[Vua|Quốc vương]] xứ [[Vương quốc Bayern|Bayern]], [[Vương quốc Württemberg|Württemberg]], [[Vương quốc Sachsen|Sachsen]], các [[Đại Công tước]] xứ [[Đại Công quốc Baden|Baden]], [[Mecklenburg]], [[Đại Công quốc Hesse|Hesse]], cũng như nhiều Công quốc do Vương công hoặc [[Công tước]] cai quản, các [[thành phố tự do]] [[Thành phố tự do Hamburg|Hamburg]], [[Thành phố tự do Lübeck|Lübeck]] và [[Bremen (bang)|Bremen]]).
Lễ thành lập Đế quốc Đức diễn ra ở [[cung điện Versailles]] ([[Pháp]]) vào năm [[1871]], và không phải là ngẫu nhiên mà Bismarck chọn nơi này. Như mọi học sinh Đức đều biết, một [[thế kỷ]] trước thời [[Napoléon Bonaparte]], vua Pháp [[Louis XIV của Pháp|Louis XIV]] - người đã xây nên cung điện Versailles - đã [[xâm lược]] nước Đức, lăng mạ các Vương hầu Đức. Qua đó, sự kiện này thể hiện sự "trả đũa" của người Đức đối với các cuộc xâm lăng của Louis XIV và Napoléon, cũng như là sự lăng nhục mà người Phổ giành cho Pháp - quốc gia lớn mạnh nhất châu Âu đã bị Phổ đánh bại trong cuộc [[Chiến tranh Pháp-Phổ]].<ref> Alan Davies, ''The Crucified Nation: A Motif in Modern Nationalism'', trang 56</ref><ref name="tongUe4">Neil Tonge, ''The Rise of the Nazis'', trang 4</ref> Với cuộc đăng quang này, [[Liên bang Bắc Đức]] ('''''Norddeutscher Bund''''') được chuyển đổi thành [[Đế quốc Đức]] ('''''Deutsches Kaiserreich'''''). Đế quốc này là một [[Liên bang|quốc gia Liên bang]]; Hoàng đế là nguyên thủ quốc gia và cũng là vị [[Chủ tịch]] của các vua chúa Liên bang (các vị [[Vua|Quốc vương]] xứ [[Vương quốc Bayern|Bayern]], [[Vương quốc Württemberg|Württemberg]], [[Vương quốc Sachsen|Sachsen]], các [[Đại Công tước]] xứ [[Đại Công quốc Baden|Baden]], [[Mecklenburg]], [[Đại Công quốc Hesse|Hesse]], cũng như nhiều Công quốc do Vương công hoặc [[Công tước]] cai quản, các [[thành phố tự do]] [[Thành phố tự do Hamburg|Hamburg]], [[Thành phố tự do Lübeck|Lübeck]] và [[Bremen (bang)|Bremen]]).


Wilhelm I luôn thỏa mãn với việc trị vì đất nước trong khi Bismarck thực sự cầm quyền.<ref>Hastings Eells, ''Europe since 1500'', trang 159</ref> Trong lịch sử Đệ nhị Đế chế Đức có năm [[1888]] được gọi là là "Năm ba hoàng đế" do đó là năm Hoàng đế Friedrich III lên kế vị vua cha Wilhelm I trong một thời gian ngắn rồi mất, để lại ngôi Hoàng đế cho con ông là Wilhelm II.<ref>Nick Yapp, Nicholas Yapp, ''Audrey Hepburn'', trang 13</ref> Ông một thời là vị nguyên thủ hùng mạnh nhất ở [[châu Âu]].<ref name="yenne14"/> Không những là cháu trai của vị Hoàng đế Đức đầu tiên Wilhelm I và [[Nữ hoàng]] [[Anh Quốc]] [[Victoria của Anh|Victoria]], Hoàng đế Wilhelm II còn là người thuộc dòng dõi các [[Sa hoàng]] [[Đế quốc Nga|Nga]].<ref>John M. Merriman, J. M. Winter, ''Europe 1789 to 1914: encyclopedia of the age of industry and empire'', trang 2468</ref> Hoàng đế nắm phần lớn quyền hành, có quyền bổ nhiệm [[Thủ tướng]] [[Chính phủ]], trong khi [[Quốc hội (Đế quốc Đức)|Quốc hội]] (''[[Reichstag]]'') đóng vai trò quan trọng về [[tài chính]] và thuế khóa. Như vào năm [[1890]], Wilhelm II có lời diễn văn như sau : ''"Duy chỉ có một người làm chủ Đế quốc này và Trẫm sẽ không thể khoan dung cho những người khác"''.<ref name="tongUe4"/> Sau thất bại của cuộc [[Tổng tấn công Mùa xuân 1918]], nước Đức cận kề thất bại trong cuộc [[Chiến tranh thế giới thứ nhất]], phong trào [[Cách mạng Đức (1918&ndash;1919)|Cách mạng Đức]] bùng nổ dẫn tới sự thoái vị của Wilhelm II, đánh dấu sự kết thúc của [[triều đại]] 3 thập kỷ của vị Hoàng đế cuối cùng của Đức. <ref> John Kerr, ''Germany, 1918-39'', trang 8</ref><ref name="yenne14">Bill Yenne, ''Hitler's Master of the Dark Arts: Himmler's Black Knights and the Occult Origins of the SS'', trang 1-</ref>
Wilhelm I luôn thỏa mãn với việc trị vì đất nước trong khi Bismarck thực sự cầm quyền.<ref>Hastings Eells, ''Europe since 1500'', trang 159</ref> Trong lịch sử Đệ nhị Đế chế Đức có năm [[1888]] được gọi là là "Năm ba hoàng đế" do đó là năm Hoàng đế Friedrich III lên kế vị vua cha Wilhelm I trong một thời gian ngắn rồi mất, để lại ngôi Hoàng đế cho con ông là Wilhelm II.<ref>Nick Yapp, Nicholas Yapp, ''Audrey Hepburn'', trang 13</ref> Ông một thời là vị nguyên thủ hùng mạnh nhất ở [[châu Âu]].<ref name="yenne14"/> Không những là cháu trai của vị Hoàng đế Đức đầu tiên Wilhelm I và [[Nữ hoàng]] [[Anh Quốc]] [[Victoria của Anh|Victoria]], Hoàng đế Wilhelm II còn là người thuộc dòng dõi các [[Sa hoàng|Nga hoàng]].<ref>John M. Merriman, J. M. Winter, ''Europe 1789 to 1914: encyclopedia of the age of industry and empire'', trang 2468</ref> Hoàng đế nắm phần lớn quyền hành, có quyền bổ nhiệm [[Thủ tướng]] [[Chính phủ]], trong khi [[Quốc hội (Đế quốc Đức)|Quốc hội]] (''[[Reichstag]]'') đóng vai trò quan trọng về [[tài chính]] và thuế khóa. Như vào năm [[1890]], Wilhelm II có lời diễn văn như sau : ''"Duy chỉ có một người làm chủ Đế quốc này và Trẫm sẽ không thể khoan dung cho những người khác"''.<ref name="tongUe4"/> Thế nhưng, trong cuộc [[Chiến tranh thế giới thứ nhất]], sau khi đại phá quân đội Nga hoàng trong [[trận Tannenberg]] ([[1914]]), [[Nguyên soái|Thống chế]] [[Paul von Hindenburg]] và [[Thượng tướng Bộ binh (Đức)|Thượng tướng]] [[Bộ binh]] [[Erich Ludendorff]] đã trỗi dậy, và được Hoàng đế trao cho quyền lực [[chính trị]] vào đầu năm [[1917]]. Họ trở thành những nhà [[độc tài]] [[quân sự]] trên thực tế của nước Đức, chi phối Đế quyền.<ref>Shelley Baranowski, ''Nazi Empire: German Colonialism and Imperialism from Bismarck to Hitler'', trang 81</ref><ref>Denis Judd, ''Eclipse of kings: European monarchies in the twentieth century'', trang 18</ref> Sau thất bại của cuộc [[Tổng tấn công Mùa xuân 1918]], nước Đức cận kề thất bại trong [[chiến tranh]], phong trào [[Cách mạng Đức (1918&ndash;1919)|Cách mạng Đức]] bùng nổ dẫn tới sự thoái vị của Wilhelm II, đánh dấu sự kết thúc của [[triều đại]] 3 thập kỷ của vị Hoàng đế cuối cùng của Đức. <ref> John Kerr, ''Germany, 1918-39'', trang 8</ref><ref name="yenne14">Bill Yenne, ''Hitler's Master of the Dark Arts: Himmler's Black Knights and the Occult Origins of the SS'', trang 1-</ref>


Chữ "the [[Kaiser]]" được dùng phổ biến trong các tài liệu [[tiếng Anh]], để chỉ Hoàng đế Wilhelm II nước Đức.<ref>Nigel John Ashton, Duco Hellema, ''Unspoken Allies: Anglo-Dutch Relations Since 1780'', trang 80</ref><ref>Ronald Pawly, ''The Kaiser's Warlords: German Commanders of World War I'', trang 80</ref>
Chữ "the [[Kaiser]]" được dùng phổ biến trong các tài liệu [[tiếng Anh]], để chỉ Hoàng đế Wilhelm II nước Đức.<ref>Nigel John Ashton, Duco Hellema, ''Unspoken Allies: Anglo-Dutch Relations Since 1780'', trang 80</ref><ref>Ronald Pawly, ''The Kaiser's Warlords: German Commanders of World War I'', trang 80</ref>

Phiên bản lúc 14:39, ngày 15 tháng 5 năm 2012

Hoàng đế của Đế quốc
Wilhelm II
Chi tiết
Tước hiệuHoàng đế và Quốc vương Bệ hạ
Quân chủ đầu tiênWilhelm I
Quân chủ cuối cùngWilhelm II
Thành lập18 tháng 1 năm 1871
Bãi bỏ18 tháng 1 năm 1918
Dinh thựStadtschloss, Berlin
Vương vị lâm thờiGeorg Friedrich

Hoàng đế Đức (tiếng Đức: Deutscher Kaiser, nhiều tài liệu cũng viết là Kaiser[1][2]) là tước hiệu chính thức của nguyên thủ quốc gia hay nói cách khác là vua của Đế quốc Đức, mở đầu với sự đăng quang của Hoàng đế Wilhelm I (còn gọi là Wilhelm Đại Đế[2]) trong cuộc Chiến tranh Pháp-Phổ vào ngày 18 tháng 1 năm 1871 tại cung điện Versailles, và kết thúc với sự kiện Hoàng đế Wilhelm II chính thức thoái vị vào ngày 18 tháng 11 năm 1918. Trong suốt lịch sử tồn tại của mình, Đế quốc Đức đã trải qua ba đời Hoàng đế thuộc triều đại nhà Hohenzollern của Vương quốc Phổ.[3] Hoàng đế Đức được xem là vị vua hùng mạnh nhất của châu Âu trong thời kỳ ấy.[4] Song, nhiều tài liệu cũng ghi nhận các vị Hoàng đế La Mã Thần thánhHoàng đế Đức. [5][6]

Hoàng đế nắm phần lớn quyền thống trị Đế quốc Đức.[7] Trong khi sự đăng cơ của Hoàng đế Wilhelm I đánh dấu đại thắng của dân tộc Đức trước quân Pháp cũng như sự thắng lợi hoàn toàn của công cuộc thống nhất nước Đức,[8] việc Hoàng đế Wilhelm II thoái ngôi đã đánh dấu sự kết thúc của chế độ quân chủ Phổ - Đức. [3]

Khởi thủy

Wilhelm I được suy tôn làm Hoàng đế Đức trong Phòng Gươngcung điện Versailles, Pháp (họa phẩm của nhà hoạ sĩ Anton von Werner).

Tước hiệu "Hoàng đế Đức" đã được Thủ tướng Otto von Bismarck chắt lọc kỹ lưỡng sau những cuộc bàn cãi cho đến khi (và cả sau khi) vua nước Phổ là Wilhelm I đăng ngôi Hoàng đế. Wilhelm I - vị vua sáng lập ra Đế quốc Đức[9]- đã miễn cưỡng chấp thuận đế hiệu này do ông muốn gọi là "Hoàng đế của Đức" - một đế hiệu không được các vua chúa Liên bang Đức chấp nhận, và sẽ chứng tỏ yêu sách của Hoàng đế đối với các lãnh thổ bên ngoài đế quốc của ông (Áo, Liên bang Thụy Sĩ, Luxembourg, v.v...). Danh hiệu Hoàng đế của người Đức, được đề xuất hồi năm 1848, cũng phải loại bỏ do vua Đức coi mình là được lựa chọn "Do Ân điển của Chúa", chứ không phải là do nhân dân như trong một nước Cộng hòa Dân chủ.

Lễ thành lập Đế quốc Đức diễn ra ở cung điện Versailles (Pháp) vào năm 1871, và không phải là ngẫu nhiên mà Bismarck chọn nơi này. Như mọi học sinh Đức đều biết, một thế kỷ trước thời Napoléon Bonaparte, vua Pháp Louis XIV - người đã xây nên cung điện Versailles - đã xâm lược nước Đức, lăng mạ các Vương hầu Đức. Qua đó, sự kiện này thể hiện sự "trả đũa" của người Đức đối với các cuộc xâm lăng của Louis XIV và Napoléon, cũng như là sự lăng nhục mà người Phổ giành cho Pháp - quốc gia lớn mạnh nhất châu Âu đã bị Phổ đánh bại trong cuộc Chiến tranh Pháp-Phổ.[10][7] Với cuộc đăng quang này, Liên bang Bắc Đức (Norddeutscher Bund) được chuyển đổi thành Đế quốc Đức (Deutsches Kaiserreich). Đế quốc này là một quốc gia Liên bang; Hoàng đế là nguyên thủ quốc gia và cũng là vị Chủ tịch của các vua chúa Liên bang (các vị Quốc vương xứ Bayern, Württemberg, Sachsen, các Đại Công tước xứ Baden, Mecklenburg, Hesse, cũng như nhiều Công quốc do Vương công hoặc Công tước cai quản, các thành phố tự do Hamburg, LübeckBremen).

Wilhelm I luôn thỏa mãn với việc trị vì đất nước trong khi Bismarck thực sự cầm quyền.[11] Trong lịch sử Đệ nhị Đế chế Đức có năm 1888 được gọi là là "Năm ba hoàng đế" do đó là năm Hoàng đế Friedrich III lên kế vị vua cha Wilhelm I trong một thời gian ngắn rồi mất, để lại ngôi Hoàng đế cho con ông là Wilhelm II.[12] Ông một thời là vị nguyên thủ hùng mạnh nhất ở châu Âu.[13] Không những là cháu trai của vị Hoàng đế Đức đầu tiên Wilhelm I và Nữ hoàng Anh Quốc Victoria, Hoàng đế Wilhelm II còn là người thuộc dòng dõi các Nga hoàng.[14] Hoàng đế nắm phần lớn quyền hành, có quyền bổ nhiệm Thủ tướng Chính phủ, trong khi Quốc hội (Reichstag) đóng vai trò quan trọng về tài chính và thuế khóa. Như vào năm 1890, Wilhelm II có lời diễn văn như sau : "Duy chỉ có một người làm chủ Đế quốc này và Trẫm sẽ không thể khoan dung cho những người khác".[7] Thế nhưng, trong cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất, sau khi đại phá quân đội Nga hoàng trong trận Tannenberg (1914), Thống chế Paul von HindenburgThượng tướng Bộ binh Erich Ludendorff đã trỗi dậy, và được Hoàng đế trao cho quyền lực chính trị vào đầu năm 1917. Họ trở thành những nhà độc tài quân sự trên thực tế của nước Đức, chi phối Đế quyền.[15][16] Sau thất bại của cuộc Tổng tấn công Mùa xuân 1918, nước Đức cận kề thất bại trong chiến tranh, phong trào Cách mạng Đức bùng nổ dẫn tới sự thoái vị của Wilhelm II, đánh dấu sự kết thúc của triều đại 3 thập kỷ của vị Hoàng đế cuối cùng của Đức. [17][13]

Chữ "the Kaiser" được dùng phổ biến trong các tài liệu tiếng Anh, để chỉ Hoàng đế Wilhelm II nước Đức.[18][19]

Các vị Hoàng đế Đức (1871–1918)

Chân dung Tên Bắt đầu trị vì Kết thúc trị vì Quan hệ với (các) bậc tiên đế
Wilhelm I 18 tháng 1 năm 1871 9 tháng 9 năm 1888  • Không (Hoàng đế đầu tiên)
Friedrich III
[20]
9 tháng 3 năm 1888 15 tháng 6 năm 1888  • Con trai của Wilhelm I
Wilhelm II 15 tháng 6 năm 1888 18 tháng 11 năm 1918  • Cháu nội của Wilhelm I
 • Con trai của Friedrich III

Xem thêm

Chú thích

  1. ^ Charles B. Strozier, The Leader: Psychological Essays, trang 83
  2. ^ a b Stefan Berger, Mark Donovan, Kevin Passmore, Writing National Histories: Western Europe Since 1800, trang 104
  3. ^ a b Chris Cook, John Stevenson, The Routledge Companion To European History Since 1763, trang 345
  4. ^ Otto Bismarck (Fürst von), The Kaiser vs. Bismarck: suppressed letters by the Kaiser and new chapters from the autobiography of the Iron Chancellor, trang XI
  5. ^ Mehmet Sinan Birdal, The Holy Roman Empire and the Ottomans: From Global Imperial Power to Absolutist States, trang 87
  6. ^ Nina Berman, German Literature on the Middle East: Discourses and Practices, 1000-1989, trang 27
  7. ^ a b c Neil Tonge, The Rise of the Nazis, trang 4
  8. ^ Philip Schaff, History of the Christian Church: Medieval Christianity 590-1973, trang 263
  9. ^ Christopher Clark, Kaiser Wilhelm II: A Life in Power, trang 1
  10. ^ Alan Davies, The Crucified Nation: A Motif in Modern Nationalism, trang 56
  11. ^ Hastings Eells, Europe since 1500, trang 159
  12. ^ Nick Yapp, Nicholas Yapp, Audrey Hepburn, trang 13
  13. ^ a b Bill Yenne, Hitler's Master of the Dark Arts: Himmler's Black Knights and the Occult Origins of the SS, trang 1-
  14. ^ John M. Merriman, J. M. Winter, Europe 1789 to 1914: encyclopedia of the age of industry and empire, trang 2468
  15. ^ Shelley Baranowski, Nazi Empire: German Colonialism and Imperialism from Bismarck to Hitler, trang 81
  16. ^ Denis Judd, Eclipse of kings: European monarchies in the twentieth century, trang 18
  17. ^ John Kerr, Germany, 1918-39, trang 8
  18. ^ Nigel John Ashton, Duco Hellema, Unspoken Allies: Anglo-Dutch Relations Since 1780, trang 80
  19. ^ Ronald Pawly, The Kaiser's Warlords: German Commanders of World War I, trang 80
  20. ^ Được đánh số như là người kế thừa của Friedrich II Đại Đế, là vua nước Phổ từ năm 1740 cho đến năm 1786 nhưng chưa một ngày ở ngôi Hoàng đế.


Bản mẫu:German monarchs