Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Alan Yelizbarovich Dzagoyev”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
VolkovBot (thảo luận | đóng góp)
n r2.7.2) (Bot: Thêm jv:Alan Dzagoev
MSBOT (thảo luận | đóng góp)
n r2.7.3) (Bot: Thêm fa:آلن زاگوئف
Dòng 116: Dòng 116:
[[es:Alán Dzagóyev]]
[[es:Alán Dzagóyev]]
[[eo:Alan Dzagojev]]
[[eo:Alan Dzagojev]]
[[fa:آلن زاگوئف]]
[[fr:Alan Dzagoev]]
[[fr:Alan Dzagoev]]
[[gl:Alan Dzagoev]]
[[gl:Alan Dzagoev]]

Phiên bản lúc 16:58, ngày 25 tháng 6 năm 2012

Alan Dzagoev
Thông tin cá nhân
Tên đầy đủ Alan Yelizbarovich Dzagoev
Chiều cao 1,79 m (5 ft 10+12 in)[chuyển đổi: số không hợp lệ]
Vị trí Tiền vệ tấn công
Thông tin đội
Đội hiện nay
CSKA Moscow
Số áo 10
‡ Số trận ra sân và số bàn thắng ở đội tuyển quốc gia, chính xác tính đến 07:15, 15 tháng 10 năm 2009 (UTC)

Alan Yelizbarovich Dzagoev (sinh ngày 17 tháng 6 năm 1990) là một tiền vệ người Nga hiện đang chơi cho PFC CSKA Moscow.

Sau khi gia nhập FC Krylia Sovetov-SOK vào năm 2006, anh ở đó 2 mùa giải trước khi chuyển tới CSKA Moscow. Sau một mùa giải đầu tiên thành công ở giải Ngoại hạng Nga, anh được bầu là Cầu thủ trẻ xuất sắc nhất giải và mở đường đến với đội tuyển quốc gia.

Tuổi thơ

Dzagoev, là em út trong gia đình có 2 anh em của ông bà Yelizbar và Lyana, sinh ra và lớn lên ở Beslan, Phía Bắc Ossetia, và cả gia đình anh đều là người Ossestia, chuyển tới vào năm 1989[1]. Anh chơi bóng trên đường phố cùng người anh Gela và được mẹ đưa tới đội trẻ của Terek Beslan[2].

Vào năm 2002, Dzagoev chuyển tới Vladikavkaz để chơi cho một đội bóng địa phương, Yunost. Anh mô tả Valery Gazzaev, một huyền thoại bóng đá Ossetia người mà sau này trở thành huấn luyện viên của CSKA Moscow là một thần tượng từ hồi nhỏ của anh và cho biết Evgeni AldoninFrank Lampard là những hình mẫu để anh học tập.[2]

Vào tháng 7 năm 2005, Dzagoev gia nhập học viện bóng đá Konoplyov.[3]

Sự nghiệp câu lạc bộ

Krylia Sovetov-SOK

Từ tháng 1 năm 2006 tới tháng 12 năm 2007 Dzagoev chơi cho Krylia Sovetov-SOK ở giải hạng hai Nga. Anh có trận chuyên nghiệp đầu tiên vào ngày 29 tháng 4 năm 2006trong trận thua 2-1 trước Tyumen. Anh có mặt trong 37 trận đấu và ghi 6 bàn cho đội bóng[4].

CSKA Moscow

Dzagoev gia nhập CSKA Moscow trước khi mùa giải 2008 bắt đầu. Trận ra mắt của anh là khi vào sân từ ghế dự bị trong trận gặp Luch.Trận đấu sau đó, anh ra sân trong đội hình chính thức trong trận gặp Khimki và ghi hai bàn cùng 2 đường kiến tạo. Anh cũng ra sân từ đầu trong trận chung kết cúp quốc gia Nga 2007-08. Ở vòng 13 thắng đạm đối thủ cùng thành phố Spartak Moscow, Dzagoev chuyền 3 đường kiến tạo, giúp CSKA thắng 5-1, và kể từ đó anh trở thành thành viên không thể thiếu trong đội hình. Dzagoev cũng được bầu là cầu thủ xuất sắc nhất trận khi ghi 2 bàn trong trận thắng 3-1 trước nhà vô địch cúp UEFA Zenit St. Petersburg.

Vào cuối mùa giải 2008, Dzagoev được bầu là Cầu Thủ Trẻ Xuất Sắc Nhất bởi Liên đoàn bóng đá Nga.[5]

Vào tháng 10 năm 2008, có thông tin rằng Real Madrid muốn chiêu mộ cầu thủ này. Dzagoev đã từ chối tất cả các lời đồn này, cho biết anh muốn ở lại CSKA lâu hơn trong khi đó cũng cho biết nếu chuyển sang nước ngoài, anh muốn tới Chelsea bởi anh đã hâm mộ The Blues trong 4 năm.[6]


Dzagoev ghi một bàn thắng rất ấn tượng trong trận gặp Manchester UnitedUEFA Champions League 2009-10 vào ngày 4 tháng 11 năm 2009, trận đấu kết thúc với tỉ số 3-3.[7]

Thi đấu quốc tế

Sau một màn trình diễn ấn tượng ở cấp độ câu lạc bộ, Dzagoev được gọi vào đội tuyển Nga để chuẩn bị cho trận đấu ở vòng loại World Cup 2010 gặp đội tuyển Đức vào ngày 11 tháng 10 năm 2008[8]. Anh có trận ra mắt khi vào sân ở đầu hiệp hai khi mới 18 tuổi và 116 ngày và trở thành cầu thủ trẻ nhất từng ra sân cho đội tuyển Nga, và là cầu thủ trẻ thứ hai được triệu tập sau đồng đội Igor Akinfeev.[9] Dzagoev đã bị la ó sau khi anh dắt bóng qua được thủ môn René Adler nhưng sút trúng cột dọc.[10]


Sau trận, huấn luyện viên Guus Hiddink nói, "Cậu ấy có khả năng bắt nhịp với trận đấu rất tốt. Alan là một cầu thủ rất thông minh với khả năng tạo ra những đường chuyền chết người. Cậu ấy đã chứng tỏ điều ấy ở Đức một lần nữa."[11] Tuy nhiên, Dzagoev lại không vui với trận thua, cho rằng đây là một thất bại.[11]

Bên ngoài bóng đá

Dzagoev được biết tới là một người chăm chỉ khi luôn tập trung vào trận đấu và luôn động viên những cầu thủ khác tập luyện chăm chỉ hơn để giành chiến thắng.[12]

Thống kê

CLB Mùa giải Giải đấu Cúp Châu Âu Tổng
Ra sân Bàn thắng Kiến tạo Ra sân Bàn thắng Kiến tạo Ra sân Bàn thắng Kiến tạo Ra sân Bàn thắng Kiến tạo
CSKA Moscow 2008 20 8 10 3 2 1 10 3 1 33 13 12
2009 18 5 7 2 0 0 6 2 2 26 7 9
Tổng 38 13 17 5 2 1 16 5 3 59 20 21

Thành tích

Câu lạc bộ

Cá nhân

  • Cầu thủ trẻ xuất sắc nhất Giải ngoại hạng Nga: 2008

Tham khảo

  1. ^ “Дзагоев красиво разбил «Депортиво»” (bằng tiếng Russian). Komsomolskaya Pravda. 25 tháng 10 năm 2008. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2009.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  2. ^ a b “Полузащитник ЦСКА Алан Дзагоев: «Надо прислушиваться к старшим»” (bằng tiếng Russian). 30 tháng 9 năm 2008. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2009.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  3. ^ “Our stars: Alan Dzagoyev”. Konoplyov football academy site. Truy cập ngày 11 tháng 9 năm 2009.
  4. ^ Profile at stats.sportbox.ru
  5. ^ “Алан Дзагоев признан главным открытием футбольной России” (bằng tiếng Russian). RIA Novosti. 16 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2009.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  6. ^ “CSKA's Dzagoev interested in move to Chelsea”. ESPNsoccernet. 27 tháng 10 năm 2008. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2009.
  7. ^ Man Utd 3-3 CSKA Moscow
  8. ^ “Хиддинк вызвал в сборную Прудникова и Дзагоева” (bằng tiếng Russian). RIA Novosti. 29 tháng 9 năm 2008. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2009.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  9. ^ “Youngsters out to impress in 2009”. ESPNsoccernet. 7 tháng 1 năm 2009. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2009.
  10. ^ “Сборная России проиграла Германии в отборочном матче ЧМ-2010” (bằng tiếng Russian). RIA Novosti. 12 tháng 10 năm 2008. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2009.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  11. ^ a b “Если бы не стойка” (bằng tiếng Russian). Rossiyskaya Gazeta. 15 tháng 10 năm 2008. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2009.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  12. ^ “«Дзагоев живет игрой!». Наставники Академии имени Коноплева рассказали о главном открытии нынешнего футбольного сезона” (bằng tiếng Russian). Sovetsky Sport. 2 tháng 10 năm 2008. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2009.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)

Xem thêm