Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Phật Câu-na-hàm”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Meotrangden (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
Meotrangden (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 29: Dòng 29:
Cây giác ngộ của ông là [[sung|ưu đàm]] (''Ficus racemosa'', udumbara, cây sung)<ref>Bản dịch của Hòa thượng Thích Minh Châu cho đoạn này chỉ phiên âm thành ô-tam-bà-la, nhưng ở các đoạn khác, như trong Kinh tập (Sutta Nipata) của [[Tiểu bộ kinh]] (Khuddaka Nikaya), phần phẩm Rắn (Uragavagga), kinh Rắn (Uraga Sutta), hòa thượng Thích Minh Châu lại dịch udumbara thành cây sung.</ref>.
Cây giác ngộ của ông là [[sung|ưu đàm]] (''Ficus racemosa'', udumbara, cây sung)<ref>Bản dịch của Hòa thượng Thích Minh Châu cho đoạn này chỉ phiên âm thành ô-tam-bà-la, nhưng ở các đoạn khác, như trong Kinh tập (Sutta Nipata) của [[Tiểu bộ kinh]] (Khuddaka Nikaya), phần phẩm Rắn (Uragavagga), kinh Rắn (Uraga Sutta), hòa thượng Thích Minh Châu lại dịch udumbara thành cây sung.</ref>.


Hai đệ tử hàng đầu của ông là Bhiyyosa (Thư-bàn-na) và Uttara (Uất-đa-la) còn vị chấp sự đệ tử (thị giả tỷ kheo) tên là Sotthija (An Hòa)<ref name=KDBPali /><ref name=KDBViet /><ref name=KDBTrung />.
Hai đệ tử hàng đầu của ông là Bhiyyosa (Thư-bàn-na, 舒槃那) và Uttara (Uất-đa-la / Uất Đa Lâu, 鬱多樓) còn vị chấp sự đệ tử (thị giả tỷ kheo) tên là Sotthija (An Hòa)<ref name=KDBPali /><ref name=KDBViet /><ref name=KDBTrung />.


Đại Bổn kinh chép rằng trong thời của ông thì tuổi thọ của loài người là 30.000 năm<ref name=KDBPali /><ref name=KDBViet /><ref name=KDBTrung />. Trong đời, ông thuyết giảng bài thuyết pháp đầu tiên của mình cho một tăng hội gồm 30.000 tỷ kheo<ref name=KDBPali /><ref name=KDBViet /><ref name=KDBTrung />.
Đại Bổn kinh chép rằng trong thời của ông thì tuổi thọ của loài người là 30.000 năm<ref name=KDBPali /><ref name=KDBViet /><ref name=KDBTrung />. Trong đời, ông thuyết giảng bài thuyết pháp đầu tiên của mình cho một tăng hội gồm 30.000 tỷ kheo<ref name=KDBPali /><ref name=KDBViet /><ref name=KDBTrung />.

Phiên bản lúc 15:29, ngày 11 tháng 7 năm 2012

Phật Câu Na Hàm Mâu Ni
Tượng Phật Câu Na Hàm tại chùa Ananda, Myanma
PaliKoõàgamano Buddha
Miến Điệnကောဏာဂုံ [kɔ́nàɡòʊɴ]
Trung拘那含牟尼
Nhật拘那含牟尼; くなごんむに; Kunagonmuni
Mông CổКанагамуни
Tây TạngSerthub
ViệtPhật Câu Na Hàm Mâu Ni
Thông tin
Tôn kính bởiThượng tọa bộ, Đại thừa, Kim cương thừa
Tiền nhiệmPhật Câu Lưu Tôn
Kế nhiệmPhật Ca Diếp
 Cổng thông tin Phật giáo

Phật Câu Na Hàm Mâu Ni hay Phật Câu Na Hàm (Koṇāgamana Buddha) là một trong số các vị Phật của hiền kiếp. Theo tín ngưỡng Phật giáo, Câu Na Hàm là tên gọi của vị Phật thứ 26, thứ hai trong số năm vị Phật của hiền kiếp, và là vị Phật thứ 5 trong số Bảy vị Phật quá khứ[1].

Phật Câu Na Hàm là người thuộc đẳng cấp Bà-la-môn, họ Kassapa[2][3][4]. Phụ thân là Yannadatta (Đạt Đức) còn mẫu thân là Uttarã (Thiện Thắng). Vị vua trị vì thời đó Sobha (Thanh Tịnh). Kinh thành của vua Sobha tên là Sobhavatĩ (Thanh Tịnh)[2][3][4].

Cây giác ngộ của ông là ưu đàm (Ficus racemosa, udumbara, cây sung)[5].

Hai đệ tử hàng đầu của ông là Bhiyyosa (Thư-bàn-na, 舒槃那) và Uttara (Uất-đa-la / Uất Đa Lâu, 鬱多樓) còn vị chấp sự đệ tử (thị giả tỷ kheo) tên là Sotthija (An Hòa)[2][3][4].

Đại Bổn kinh chép rằng trong thời của ông thì tuổi thọ của loài người là 30.000 năm[2][3][4]. Trong đời, ông thuyết giảng bài thuyết pháp đầu tiên của mình cho một tăng hội gồm 30.000 tỷ kheo[2][3][4].

Tại Myanma

Tại Myanma thì Phật Câu Na Hàm được gọi là Koṇāgon hay Koṇāgamanan. Theo thần thoại Myanma, ông sinh ra vào ngày thứ Tư[6], do đó tượng của Phật Câu Na Hàm được đặt trên ban thờ ngày thứ Tư.

Xem thêm

Ghi chú

  1. ^ Gärtner, Uta (1994). Tradition and modernity in Myanmar. LIT Verlag. tr. 281. ISBN 978-3-8258-2186-9. Đã bỏ qua tham số không rõ |coauthors= (gợi ý |author=) (trợ giúp)
  2. ^ a b c d e Suttantapiñake - Mahàpadànasuttaü (Kinh Đại Bổn tiếng Pali)
  3. ^ a b c d e - Trường bộ kinh - Kinh Đại Bổn (Bản dịch tiếng Việt của hòa thượng Thích Minh Châu)
  4. ^ a b c d e Trường A hàm kinh - Kinh Đại Bổn (tiếng Trung)
  5. ^ Bản dịch của Hòa thượng Thích Minh Châu cho đoạn này chỉ phiên âm thành ô-tam-bà-la, nhưng ở các đoạn khác, như trong Kinh tập (Sutta Nipata) của Tiểu bộ kinh (Khuddaka Nikaya), phần phẩm Rắn (Uragavagga), kinh Rắn (Uraga Sutta), hòa thượng Thích Minh Châu lại dịch udumbara thành cây sung.
  6. ^ Reid, Robert (2005). Myanmar (Burma). Lonely Planet. tr. 93. ISBN 978-1-74059-695-4. Đã bỏ qua tham số không rõ |coauthors= (gợi ý |author=) (trợ giúp)
Tiền nhiệm:
Phật Câu Lưu Tôn
Bảy vị Phật quá khứ Kế nhiệm:
Phật Ca Diếp