Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Hồ Chí Minh”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
đừng đưa thông điệp soạn thảo trong nội dung bài
Linhbach (thảo luận | đóng góp)
Dòng 179: Dòng 179:


==== Giai đoạn kháng chiến chống Pháp ====
==== Giai đoạn kháng chiến chống Pháp ====
Tháng 3 năm 1947,ông và Trung ương Đảng chuyển lên [[Việt Bắc]].Ông kêu gọi nhân dân [[tiêu thổ kháng chiến]],tản cư cũng là kháng chiến, phá hoại (cho Pháp không lợi dụng được) cũng là kháng chiến.
Tháng 3 năm 1947, ông và Trung ương Đảng chuyển lên [[Việt Bắc]]. Ông kêu gọi nhân dân [[tiêu thổ kháng chiến]], tản cư cũng là kháng chiến, phá hoại (cho Pháp không lợi dụng được) cũng là kháng chiến.


Ngày 2 tháng 2 năm 1950, Hồ Chí Minh kí sắc lệnh tổng phản công trong năm 1950. Tuy vậy, sau đó nội dung của sắc lệnh này đã bị bác bỏ. Những lệch lạc trong công tác so sánh lực lượng hai bên tham chiến của phía Việt Nam cũng như sự chủ quan trong chỉ đạo đã bị kiểm điểm và uốn nắn.
Ngày 2 tháng 2 năm 1950, Hồ Chí Minh kí sắc lệnh tổng phản công trong năm 1950. Tuy vậy, sau đó nội dung của sắc lệnh này đã bị bác bỏ. Những lệch lạc trong công tác so sánh lực lượng hai bên tham chiến của phía Việt Nam cũng như sự chủ quan trong chỉ đạo đã bị kiểm điểm và uốn nắn.

Phiên bản lúc 11:17, ngày 8 tháng 10 năm 2007

Bản mẫu:Tên Hán Nôm Hồ Chí Minh (chữ Hán: 胡志明; 19 tháng 5 năm 1890 – 2 tháng 9 năm 1969) là một nhà cách mạng, một người đấu tranh giành độc lập, toàn vẹn lãnh thổ cho Việt Nam. Hồ Chí Minh là một trong những người đặt nền móng và lãnh đạo công cuộc đấu tranh giành độc lập, dẫn đến việc thống nhất nước Việt Nam. Ông trở thành Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong thời gian 1945-1969.

Tên gọi, bí danh, bút danh

Ngoài tên gọi Hồ Chí Minh (dùng từ 1942), trong cuộc đời mình, ông còn có nhiều tên gọi và bí danh khác như Nguyễn Tất Thành (阮必成), Paul Tất Thành (1912); Nguyễn Ái Quốc (阮愛國, từ 1919); Văn Ba (khi làm phụ bếp trên tàu biển, 1911); Lý Thụy (李瑞, khi ở Quảng Châu, 1924-), Hồ Quang (1938-40), Vương (Wang) (1925-27, 1940), Tống Văn Sơ (1931-33), Trần (1940) (khi ở Trung Quốc); Chín (khi ở Thái Lan, 1928-30) và được gọi là Thầu (ông cụ) Chín; Lin (khi ở Liên Xô, 1934-38); Chen Vang (trong giấy tờ đi đường từ Pháp sang Liên Xô năm 1923); ông cũng còn được gọi là Bác Hồ, Bok Hồ, Cụ Hồ. Khi ở Việt Bắc ông thường dùng bí danh Thu, Thu Sơn và được người dân địa phương gọi là Ông Ké, Già Thu,. Tổng thống Indonesia Sukarno gọi ông là "Bung Hồ" (Anh Cả Hồ).

Ông còn dùng hơn 50 bút danh khi viết sách, báo: Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn, Nguyễn A.Q, Ng A.Q, Ng. Ái Quốc, N.A.Q, N., Wang, N.K., A.N; P.C. Lin, P.C. Line (1938, Trung Quốc), Line (1938, Trung Quốc), Q.T, Q.TH, Lê Quyết Thắng (1948-50), A.G, X.Y.Z (1947-50), G., Lê Nhân, Lê, Lê Ba, Lê Nông, Lê Thanh Long, L.T., T.L. (1955-69), T.Lan (1955-69), Tuyết Lan, Thanh Lan, Đin (1950-53), Tân Trào, Đ.X (trong chuyên mục "Thường thức chính trị" trên báo Cứu quốc năm 1953), C.B (trên báo Nhân Dân 1951-57), V.K., K.C., C.K., Trần Lực (1948-61), C.S, Chiến Sĩ, Chiến đấu, La Lập, Nói thật, Thu Giang, K.V., Thu Giang, Trầm Lam, Luật sư TH. Lam, Nguyễn Kim, K.O, Việt Hồng...

Tiểu sử

Gia đình và quê quán

Theo gia phả của dòng họ Nguyễn ở làng Kim Liên tại Nam Đàn, Nghệ An thì:

"Hoàng sơ tổ khảo là Nguyễn Bá Phụ, tổ đời thứ hai là Nguyễn Bá Bạc, tổ đời thứ ba là Nguyễn Bá Ban, tổ đời thứ tư là Nguyễn Văn Dân,... tổ đời thứ năm, Nguyễn Sinh Vật là giám sinh đời Lê Thánh Đức (tức Lê Thần Tông) năm thứ ba..., tổ đời thứ sáu là Nguyễn Sinh Tài đỗ hiếu sinh khi 17 tuổi, năm 34 tuổi đỗ tam trường khoa thi Hội..., tổ đời thứ 10 là Nguyễn Sinh Nhậm[1])." Cả bốn đời đầu tiên của dòng họ đều chưa lấy đệm là "Sinh" và không rõ năm sinh, năm mất[2].

Ông tên thật là Nguyễn Sinh Cung (阮生恭, giọng địa phương phát âm là Côông), tự là Tất Thành. Quê nội là làng Kim Liên (tên nôm là làng Sen). Ông được sinh ra ở quê ngoại là làng Hoàng Trù (tên nôm là làng Chùa, nằm cách làng Sen khoảng 2 km) và sống ở đây cho đến năm 1895. Hai làng này vốn cùng nằm trong xã Chung Cự, thuộc tổng Lâm Thịnh, huyện Nam Đàn. Quê nội của ông, làng Kim Liên[3] là một làng quê nghèo khó. Phần lớn dân chúng không có ruộng, phải làm thuê cấy rẽ, mặc quần ít, đóng khố nhiều, bởi thế nên làng này còn có tên là làng Đai Khố[4]. Vào đời ông, phần lớn dòng họ của ông đều cơ hàn, kiếm sống bằng nghề làm thuê, và cũng có người tham gia các hoạt động chống Pháp[5].

Thân phụ ông là một nhà nho tên là Nguyễn Sinh Sắc, từng đỗ phó bảng[6]. Thân mẫu là bà Hoàng Thị Loan. Ông có một người chị là Nguyễn Thị Thanh, một người anh là Nguyễn Sinh Khiêm (tự Tất Đạt, còn gọi là Cả Khiêm) và một người em trai mất sớm là Nguyễn Sinh Nhuận (1900-1901, tên khi mới lọt lòng là Xin).

Theo lý lịch chính thức, Hồ Chí Minh sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890, tuy nhiên có những thông tin khác không đồng nhất:

  • Trong đơn xin học Trường hành chính thuộc địa, năm 1911, ông tự ghi là sinh năm 1892.
  • Năm 1920, ông khai với một quận cảnh sát tại Paris ngày sinh của mình là 15 tháng 1 năm 1894.
  • Theo một tài liệu do Phòng nhì Pháp lập năm 1931, có sự xác nhận của một số nhân chứng làng Kim Liên, quê nội của ông, thì ông sinh tháng 4 năm 1894.
  • Trong tờ khai của ông tại Đại sứ quán Liên Xô ở Berlin, vào tháng 6 năm 1923, thì ngày sinh là 15 tháng 2 năm 1895.

Tuổi trẻ

Tập tin:Truongducthanh.gif
Trường Dục Thanh

Năm 1895, Nguyễn Sinh Cung cùng cha mẹ và anh trai vào Huế lần đầu tiên. Sau khi mẹ ông mất (1901), ông được đưa về Nghệ An cho bà ngoại chăm sóc một thời gian ngắn rồi theo cha về quê nội. Khi về sống với cha ở làng Kim Liên năm 1901, ông lấy tên là Nguyễn Tất Thành. Tất Thành theo học cử nhân Hoàng Phạm Quỳnh (học trò của Hoàng Phạm Quỳnh có khoa thi đỗ sáu cử nhân, mười hai tú tài) và một số ông giáo khác. Nhưng Tất Thành thì "ham đọc sách [...] nhưng ham nhất là các loại sách như Tam Quốc Chí hay Tây Du [...] văn bài thì Thành không thích làm nhưng rất hay hỏi nghĩa [...] một ông đồ [...] sau khi dạy chú mấy tháng đã không dạy nữa"[7].

Năm 1906, Nguyễn Tất Thành theo cha vào Huế lần thứ hai và học ở trường tiểu học Pháp-Việt Đông Ba. Sau khi học xong tiểu học, tháng 9 năm 1907, Nguyễn Tất Thành vào học tại trường Quốc Học, Huế, nhưng bị đuổi học vào cuối tháng 5 năm 1908 vì tham gia phong trào chống thuế ở Trung Kỳ[8].

Tháng 9 năm 1910, Nguyễn Tất Thành vào Phan Thiết (khi này cha ông vừa bị cách chức). Ông dạy chữ Hánchữ Quốc ngữ cho học sinh lớp ba và tư tại trường Dục Thanh của hội Liên Thành[9][10]. Khoảng trước tháng 2 năm 1911, ông nghỉ dạy. Sau đó ông vào Sài Gòn. Tại đây,ông theo học trường Bá Nghệ là trường đào tạo công nhân hàng hải và công nhân chuyên nghiệp cho xưởng Ba Son. Ở đây, ông được nuôi ăn nhưng chỉ học 3 tháng (lệ thường là học 3 năm mới thành nghề)[11]

Hoạt động ở nước ngoài

Tấm biển đồng gắn tại nhà số 9 ngõ Compoint, quận 17 Paris: "Tại đây, từ năm 1921-1923, Nguyễn Ái Quốc đã sống và chiến đấu vì quyền độc lập và tự do cho nhân dân Việt Nam và các dân tộc bị áp bức."

Ngày 5 tháng 6 năm 1911, từ Bến Nhà Rồng, ông lấy tên Văn Ba, lên đường sang Pháp với nghề phụ bếp trên chiếc tàu buôn Đô đốc Latouche-Tréville của hãng Nǎm Sao, với mong muốn học hỏi những tinh hoa và tiến bộ từ các nước phương Tây[12]. Sau khi ở Hoa Kỳ một năm (cuối 1912-cuối 1913), ông quay trở lại nước Anh làm nghề cào tuyết, đốt lò rồi phụ bếp cho khách sạn.

Trong thập niên 1960, khi nói chuyện với khách nước ngoài, ông cho biết rằng ông đã từng là lính thủy[13].

Ngày 19 tháng 6 năm 1919, nhân danh một nhóm người Việt Nam yêu nước[14], ông phổ biến "Yêu sách của nhân dân An Nam", gồm tám điểm và được viết bằng tiếng Pháp (Revendications du peuple annamite), ký tên Nguyễn Ái Quốc và gửi tới Hội nghị Hòa bình Versailles. [15] Từ đó ông dùng tên Nguyễn Ái Quốc.

Giữa năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lenin đăng trên báo L'Humanité (tờ này là cơ quan phát ngôn của Đảng Cộng sản Pháp), từ đó ông đi theo chủ nghĩa cộng sản. Ông tham dự Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp tại Tours với tư cách là đại biểu Đông Dương, trở thành một trong những sáng lập viên của Đảng Cộng sản Pháp. Sau này, ông thừa nhận:

"Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước chứ không phải chủ nghĩa cộng sản đã làm tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế III"[16].
Tranh biếm họa của Nguyễn Ái Quốc cho tờ Le Paria, đời sống người dân dưới ách thống trị của thực dân Pháp

Năm 1921, ông cùng một số nhà yêu nước của các thuộc địa Pháp lập ra Hội Liên hiệp Thuộc địa (Union intercoloniale - Association des indigènes de toutes les colonies). Năm 1922, ông cùng một số nhà cách mạng thuộc địa ra báo Le Paria (Người cùng khổ).[17] Tờ này ra được 38 số với mỗi số bán được quãng 1000 tới 5000 bản, một con số thuyết phục vào lúc bấy giờ[18].Ngoài ra, ông viết bài cho hàng loạt báo khác. [19].

Tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp (Procès de la colonisation française) do ông viết được xuất bản năm 1925, đã tố cáo chính sách thực dân tàn bạo của Pháp và đề cập đến phong trào đấu tranh của các dân tộc thuộc địa. [20] Ông là trưởng Tiểu ban Đông Dương của Đảng Cộng sản Pháp.

Năm 1923, với tư cách đảng viên Đảng Cộng sản Pháp, ông ra tranh cử vào Hạ viện Pháp, nhưng thất bại. Trong lần đầu tiên tham gia bầu cử Quốc hội đó, Đảng Cộng sản Pháp giành được tất cả 1,2 triệu phiếu ủng hộ trên tổng số 5 triệu phiếu cử tri, nhưng Nguyễn Ái Quốc trượt chân dân biểu Quốc hội[21]. [22]

Trong toàn bộ thời gian sống trên đất Pháp, ông trang trải cuộc sống bằng cách làm việc nửa ngày. Thoạt đầu, ông làm thuê tại một tiệm rửa ảnh và được Phan Văn Trường nhượng quyền cho thuê lại một căn phòng. Sau đó, ông đi vẽ khoán cho một xưởng vẽ truyền thần và thuê một phòng tại căn nhà số 9 ngõ Compoint, Quận 17, Paris[23].Ông theo học dự thính tại Đại học Sorbonne và được coi là mọt sách tại Thư viện Quốc gia Pháp[24].

Tháng 6 năm 1923, [25] Nguyễn Ái Quốc đến Moskva học tập tại trường Đại học Phương Đông của Quốc tế Cộng sản. [26] Tại Đại hội lần thứ 5 Quốc tế Cộng sản ông được cử làm ủy viên Ban Phương Đông, phụ trách Cục Phương Nam[27].

Ngày 11 tháng 11 nǎm 1924, Nguyễn Ái Quốc rời Liên Xô tới Quảng Châu, lấy tên là Lý Thụy, làm phiên dịch trong phái đoàn cố vấn của chính phủ Liên Xô bên cạnh Chính phủ Trung Hoa Dân quốc,[28].

Thời gian này ông cũng gặp mặt một số nhà cách mạng lão thành người Việt đang sống và hoạt động lưu vong trên đất Trung Quốc, trong đó có Phan Bội Châu. Trong một báo cáo gửi đoàn chủ tịch Quốc tế Cộng sản đề ngày 18 tháng 12 năm 1924, ông viết về Phan Bội Châu:

"Ông ta không hiểu chính trị và lại càng không hiểu việc tổ chức quần chúng... tôi đã giải thích cho ông ta hiểu sự cần thiết của tổ chức và sự vô ích của những hành động không có cơ sở. Ông ta đã đưa tôi một bản danh sách của 14 người Việt Nam đã cùng ông ta hoạt động bấy lâu"[29].

Trong nhóm 14 người này có một số thành viên của Tâm tâm xã - một tổ chức cấp tiến hoạt động từ 1923 với những thành viên như Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn, Phạm Hồng Thái, Lê Hồng Phong, Lâm Đức Thụ...[30].

Nguyễn Ái Quốc

Năm 1925, ông (lúc này mang tên Vương) lựa chọn một số phần tử tích cực của Tâm tâm xã, huấn luyện thêm và trên cơ sở đó, lập ra Cộng sản đoàn, rồi tiếp tục dựa trên Cộng sản đoàn mà thành lập Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội (hay còn gọi là Hội Việt Nam cách mạng thanh niên) vào tháng 6. Hội này phái người về nước vận động và đưa thanh niên sang Quảng Châu đào tạo. [31] Việc làm quan trọng nhất của hội trong thời gian này là cử được người đi học tại Đại học Phương Đông (Liên Xô) và trường Quân chính Hoàng Phố của Quốc dân Đảng Trung Quốc. [32][33].

Ông cũng lập ra tờ Thanh niên làm cơ quan phát ngôn của hội[34]. Cuốn Đường Kách mệnh tập hợp các bài giảng của ông, được Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông xuất bản năm 1927. Ông cho rằng để cách mạng thành công, phải coi học trò, nhà buôn, điền chủ nhỏ đều là bầu bạn của cách mạng. Tư tưởng này của ông trong đầu thập niên 1930 đã vấp phải sự phê phán của một số người cộng sản Việt Nam khác. Ngoài ra, trong thập niên 1920, một trong những quan điểm của ông về cách mạng là: cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa có thể bùng nổ và giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc[cần dẫn nguồn].

Có bằng cớ là trong thời gian ở Quảng Châu, ông đã kết hôn với một hộ lý Trung Quốc tên là Tăng Tuyết Minh, đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc (ngày 18 tháng 10 năm 1926) và sống với nhau cho đến khi ông rời Quảng Châu, vào khoảng tháng 4 hoặc 5 năm 1927. Sau khi ông đã trở thành Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, cả hai người đã tìm nhau thông qua Đảng Cộng sản Trung Quốc và cơ quan ngoại giao Việt Nam tại Trung Quốc nhưng không thành công[35]. Nhưng ông cũng đã từng cho rằng ông chưa bao giờ lập gia đình và có vợ con[cần dẫn nguồn].

Cùng năm 1925, ông tham gia thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông, do Liêu Trọng Khải, một cộng sự thân tín của Tôn Dật Tiên, làm hội trưởng và ông làm bí thư.

Tháng 5 năm 1927, do Tưởng Giới Thạch khủng bố cộng sản, ông rời Quảng Châu đi Hồng Kông, rồi sang Moskva. Tháng 11 năm 1927, ông được cử đi Pháp, rồi từ đó đi dự cuộc họp Đại hội đồng của Liên đoàn chống chiến tranh đế quốc từ ngày 9 đến ngày 12 tháng 12 năm 1927 tại Brussel, Bỉ. Sau đó, ông cũng qua Ý[36].

Mùa thu 1928, ông từ châu Âu đến Thái Lan, với bí danh Thầu Chín (trong tiếng Lào, "thầu" chỉ người nhiều tuổi và biểu thị sự tôn kính) để tuyên truyền và huấn luyện cho Việt kiều, đồng thời móc nối một số thanh thiếu niên Việt Nam sang Thái Lan hoạt động[37]. Ông chủ trương tuyên truyền cho kiều bào và tổ chức họ vào những hội thân ái, tổ chức các buổi sinh hoạt văn hóa cho họ, xin chính phủ Thái cho mở trường dành cho Việt kiều, [38] Ông đi (chủ yếu là đi bộ) và vận động hầu khắp các vùng có kiều bào ở Thái Lan [39]. Giống như tại nhiều nơi đã hoạt động, ông cho in báo - tờ Thân ái.

Cuối năm 1929, ông rời Thái Lan sang Trung Quốc.

Ba tổ chức cộng sản tại Việt Nam, tuy mới thành lập nhưng đã mâu thuẫn rõ rệt và tranh giành sự ủng hộ của quần chúng. Đông Dương Cộng sản Đảng phê An Nam Cộng sản Đảng là "hoạt đầu, giả cách mạng"; An Nam Cộng sản Đảng chỉ trích Đông Dương Cộng sản Đảng là "chưa thật cộng sản", "chưa thật Bôn-sê-vích"...[cần dẫn nguồn] Ngày 3 tháng 2 năm 1930 (hoặc ngày 6 tháng 1 năm 1930[40]), tại Cửu Long (九龍) thuộc Hương Cảng, ông thống nhất ba tổ chức đảng cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam trong một hội nghị được tổ chức tại nhà một người công nhân, ngoài ông còn có 5 người khác là các đại diện cộng sản. Các văn kiện quan trọng nhất (như Chính cương vắn tắt, Sách lược, Điều lệ vắn tắt của Đảng, Lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng) của hội nghị này đều do ông soạn thảo và được cho là thể hiện những quan điểm và tư tưởng khác với chủ trương khi đó của Quốc tế Cộng sản. Bởi vậy, khi Trần Phú về nước vào tháng 4 năm 1930 thì được bầu bổ sung vào Ban Chấp hành Trung ương Lâm thời của Đảng và được giao soạn thảo Luận cương chính trị cũng như trở thành Tổng bí thư. Luận cương chính trị này, theo như nhận định chính thống trong các văn kiện và tài liệu ở giai đoạn sau của Đảng Cộng sản Việt Nam, mang tính tả khuynh rõ rệt.

Tháng 3 năm 1930, ông trở lại Thái Lan trong một thời gian ngắn, sau đó quay lại Trung Hoa.

Năm 1931, dưới tên giả là Tống Văn Sơ (Sung Man Ch'o), Nguyễn Ái Quốc bị nhà cầm quyền Hương Cảng bắt giam. Ông bị giam cả thảy hơn một năm. Các đồng chí của ông - (Hồ Tùng MậuTrương Vân Lĩnh) liên hệ được với Công hội Đỏ và gia đình luật sư Frank Loseby can thiệp, cãi cho ông. Báo chí Pháp ở Đông Dương loan tin là ông chết trong ngục do bị ho lao. Sau khi tòa tại Hương Cảng không kết án được, chính quyền Anh tại Hương Cảng trục xuất ông với ý định lực lượng của Pháp sẽ bắt ông và đưa về Việt Nam xét xử [41]. Ông được Loseby bố trí ra khỏi Hương Cảng trên một chiếc tàu khác. Sau khi ở Hạ Môn ngót năm, sáu tháng, đầu năm 1933, ông lên Thượng Hải. [42] Từ đây, ông được Đảng Cộng sản Trung Quốc bố trí đưa đi Liên Xô[43].

Đầu năm 1933, Nguyễn Ái Quốc đã có mặt ở Liên Xô. Ông dự Đại hội lần thứ 7 Quốc tế Cộng sản (từ ngày 25 tháng 7 đến ngày 20 tháng 8 năm 1935), nhưng không được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương của Quốc tế Cộng sản. Đại diện của Việt Nam tại Ban Chấp hành này là Lê Hồng Phong. Theo tài liệu của một số nhà sử học, ông bị ép buộc phải ở lại Liên Xô và bị giam lỏng (hoặc nói nhẹ hơn là bị kỷ luật), do bị nghi ngờ về lý do ông được nhà cầm quyền Hương Cảng trả tự do[44]. Ông phụ trách chung những người cộng sản Việt Nam và theo học khóa ngắn hạn tại trường Lenin là trường Đảng cao cấp dành cho các lãnh tụ cộng sản nước ngoài (1934-1935). Năm 1935, ông được bầu làm đại diện của Đảng Cộng sản Đông Dương bên cạnh Quốc tế Cộng sản. [45].Trong khi Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai... về nước từ 1936 và các học sinh người Việt Nam không tiếp tục sang Liên Xô nữa thì ông vẫn phải ở lại Liên Xô. Thời gian này ông có theo học lớp nghiên cứu sinh sử học của Viện nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa nhưng sau đó không tốt nghiệp. Ông rời Liên Xô vào mùa thu năm 1938.

Ít nhất ông có hai tên gọi trong thời kì ở Liên Xô: ở trường Lenin ông lấy tên là Li Nốp, đối với nhóm học sinh ở Viện nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa ông lấy tên là Lin[46].

Trong những năm 1931-1935, ông đã bị Trần Phú và sau đó là Hà Huy Tập phê phán về đường lối cải lương, không đúng đường lối đấu tranh giai cấp của Quốc tế Cộng sản[47]. Hà Huy Tập đã viết trên tạp chí Bônsơvích (số 8/12-1934):

"...chúng ta không được quên những tàn tích quốc gia chủ nghĩa của Nguyễn Ái Quốc và những chỉ thị sai lầm của đồng chí ấy về những vấn đề căn bản của phong trào cách mạng tư sản dân quyền và những lý luận cơ hội của đồng chí ấy bám rễ vào đầu óc của phần đông đồng chí chúng ta, giống như những tàn tích tư sản vẫn sống dai dẳng trong đầu óc những hội viên Thanh Niên, Tân Việt và Vừng Hồng.
Nguyễn Ái Quốc không hiểu được những chỉ thị của Quốc tế cộng sản; không hợp nhất được ba tổ chức cộng sản từ trên xuống dưới... Tài liệu Sách lược vắn tắt của Đảng và Điều lệ của Đảng hợp nhất không theo đúng chỉ thị của Quốc tế cộng sản. Ngoài ra Nguyễn Ái Quốc còn chủ trương một sách lược cải lương và hợp tác: "trung lập tư sản và phú nông", "liên minh với địa chủ nhỏ và vừa", v.v. Vì những sai lầm đó, nên từ tháng Giêng đến tháng Mười năm 1930, Đảng Cộng sản Đông Dương đã đi theo một chiến lược có nhiều điểm trái với những chỉ thị của Quốc tế cộng sản, tuy trong thực tế đã lãnh đạo quần chúng kiên quyết đấu tranh cách mạng."[48]

Năm 1938, ông trở lại Trung Quốc. Trong vai thiếu tá Bát Lộ quân Hồ Quang, Nguyễn Ái Quốc đến công tác tại văn phòng Bát Lộ quân Quế Lâm, sau đó đi Quý Dương, Côn Minh rồi đến Diên An, căn cứ đầu não của Đảng Cộng sản Trung Quốc và Hồng quân Trung Quốc vào mùa đông 1938. Khi này đang là thời kì Quốc-Cộng hợp tác trong cuộc kháng chiến chống Nhật, Tưởng Giới Thạch có đề nghị Đảng Cộng sản Trung Quốc cử một đoàn cán bộ đi hướng dẫn cho Quốc Dân Đảng về kỹ thuật chiến đấu du kích. Tổng phụ trách đoàn là Diệp Kiếm Anh. Từ tháng 6 năm năm 1939, Hồ Quang được gửi tới phái đoàn này làm người phụ trách chính trị[49]. [50] Trên thực tế, ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Đông Dương lúc này cũng mất liên lạc với ông tới tháng 1 năm 1940 (thời kì này lấy bí danh là Trần)[51].

Có thể nhận xét rằng cho tới giai đoạn này, ngoại trừ hoạt động khi thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương vào đầu năm 1930, vai trò của ông trong quá trình ra quyết định ở hàng ngũ lãnh đạo cộng sản cũng như sự tham gia trực tiếp vào các sự kiện cộng sản tại Việt Nam là không nhiều. Từ thập niên 1920, các tác phẩm chính trị cũng như báo chí do ông viết đã được chuyển về nước. Trong thời kì Mặt trận Dân chủ Đông Dương (1936-1939), ông có viết báo và gửi bài về in trên tờ Notre Voix - tờ báo công khai của Đảng bằng tiếng Pháp - dưới bút danh P.C. Lin[52]. Một trong những việc mà ông thường làm mỗi khi có sự kiện xảy ra ở Việt Nam là viết thư đề nghị hoặc báo cáo gửi Quốc tế Cộng sản, nhưng kết quả của những tác động đó là hạn chế. Khi khởi nghĩa Nam Kỳ nổ ra, ông - khi này đang ở Trung Quốc và chỉ biết tin qua báo chí - đã viết một bức điện với nội dung rằng thời cơ hành sự chưa chín, nhẽ ra không thể tiến hành khởi nghĩa vũ trang, nhưng khi chuyện đã rồi thì cần rút lui cho khéo nhằm duy trì được phong trào. Nhưng bức điện này không chuyển đi được[53].

Trở về Việt Nam

Ông trở về Việt Nam vào ngày 28 tháng 1 năm 1941[54], ở tại hang Cốc Bó, bản Pác Bó, tỉnh Cao Bằng với bí danh Già Thu. Tại đây, ông mở các lớp huấn luyện cán bộ[55], cho in báo, tham gia các hoạt động thường ngày... Tài liệu huấn luyện và tuyên truyền chủ yếu là sách do ông dịch và viết về nhiều chủ đề. Tại cuối một cuốn sách như vậy ông ghi "Việt Nam độc lập năm 1945"[56]. Ông cho lập nhiều hội đoàn nhân dân như hội phụ nữ cứu quốc, hội phị lão cứu quốc, hội nông dân cứu quốc...

Tháng 5 năm 1941, hội nghị mở rộng lần thứ 8 của Trung ương Đảng họp ở Cao Bằng và quyết định thành lập Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội (Việt Minh). Ông là chủ tọa.

Giai đoạn từ khi bị giam ở Trung Quốc cho tới ngày 2-9-1945

Ngày 13 tháng 8 năm 1942, ông lấy tên Hồ Chí Minh, sang Trung Quốc với danh nghĩa đại diện của cả Việt Minh và Hội quốc tế phản xâm lược Việt Nam (một hội đoàn được ông tổ chức ra trước đó) để tranh thủ sự ủng hộ của Trung Hoa Dân quốc. Đây là lần đầu tiên trong các giấy tờ cá nhân ông sử dụng tên Hồ Chí Minh, tuy vậy ông lại khai nhân thân là "Việt Nam-Hoa kiều"[57].

Ông bị chính quyền địa phương của Trung Hoa Dân quốc bắt ngày 29 tháng 8 khi đang đi cùng một người Trung Quốc dẫn đường và giam hơn một năm, trải qua khoảng 30 nhà tù. Ông viết Nhật ký trong tù trong thời gian này (từ tháng 8 năm 1942 đến tháng 9 năm 1943). Các đồng chí của ông (Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Vũ Anh...) ở Việt Nam tưởng lầm là ông đã chết (sau này nguyên nhân được làm rõ là do một cán bộ Cộng sản tên Cáp nghe và hiểu sai ngữ nghĩa)[58]. Họ thậm chí đã tổ chức đám tang và đọc điếu văn cho ông (Phạm Văn Đồng làm văn điếu) cũng như "mở chiếc va-li mây của Bác ra tìm xem còn những gì có thể giữ lại làm kỉ niệm" (lời của Võ Nguyên Giáp). Vài tháng sau họ mới biết được tình hình thực của ông sau khi nhận được thư do ông viết và bí mật nhờ chuyển về.

Sau khi được trả tự do ngày 10 tháng 9 năm 1943, Hồ Chí Minh tham gia Ban Chấp hành Trung ương Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội. Từ trước đó, Việt Minh cũng đã ra tuyên bố ủng hộ Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội. Ông cũng cố gắng tranh thủ Trương Phát Khuê, tướng cai quản vùng Quảng ĐôngQuảng Tây của Quốc Dân Đảng, nhưng kết quả là hạn chế.

Cuối tháng 9 năm 1944, ông trở về Việt Nam. Khi này các đồng chí của ông ở Liên tỉnh ủy Cao-Bắc-Lạng như Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng... đã quyết định tiến hành phát động chiến tranh du kích trong phạm vi liên tỉnh. Ông ngăn chặn thành công quyết định này[59]. Thay vào đó, ông ra lệnh tổ chức lập lực lượng vũ trang và căn cứ địa cho chặt chẽ và hiệu quả hơn. Ông trực tiếp ra chỉ thị thành lập một đội quân mang tính chính thống và chính quy là đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, với 34 đội viên là các tiểu đội trưởng, trung đội trưởng hoặc thành viên của các đội quân nhỏ bé và rải rác trước đó của Việt Minh. Cuối năm 1944, ông lại trở lại Côn Minh hoạt động cho tới đầu năm 1945.

Ngay trước khi Hội nghị Tân Trào họp vào tháng 8 năm 1945, ông ốm suýt bỏ mạng[60].

Ngày 16 tháng 8 năm 1945, Tổng bộ Việt Minh triệu tập Đại hội quốc dân tại Tân Trào (Tuyên Quang), cử ra Ủy ban dân tộc giải phóng tức Chính phủ lâm thời, do Hồ Chí Minh làm chủ tịch.

Giai đoạn lãnh đạo

Từ Ngày Độc lập tới Ngày Toàn quốc kháng chiến

Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng tại Paris, 1946

Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập vào ngày 2 tháng 9 năm 1945 trên quảng trường Ba Đình tại Hà Nội, tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ông trích dẫn bản Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ và bản Tuyên ngôn Dân quyền và Nhân quyền của Pháp để mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam[61]. Trước khi viết ông đã hỏi Dan Phelan, một trung úy Mỹ xem có nhớ đoạn mở đầu Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ không, bởi ông định sẽ đưa vào bản tuyên ngôn của Việt Nam. Còn chính Phelan thì kể lại: "Nhưng thực ra thì có lẽ ông ấy biết về bản Tuyên ngôn còn rõ hơn tôi"[62].

Ông gửi thư cho nhiều nguyên thủ quốc gia trên thế giới kêu gọi công nhận nhà nước Việt Nam mới được thành lập cũng như tranh thủ sự ủng hộ nhưng không nhận được hồi âm (Tổng thống Hoa Kỳ Harry Truman[63], Stalin, Tổng thống Pháp Léon Blum, bộ trưởng Thuộc địa Pháp Marius Moutet và Nghị viện Pháp...).

Ngày 23 tháng 9 năm 1946, Pháp tấn công Sài Gòn. Quân dân Sài Gòn cấp tập chống cự. Ủy ban kháng chiến Nam Bộ được thành lập với Trần văn Giàu là chủ tịch. Xứ ủy và Ủy ban nhân dân Nam Bộ điện ra Trung ương xin cho được đánh. Chính phủ ra huấn lệnh, bản thân ông gửi thư khen ngợi "lòng kiên cường ái quốc của đồng bào Nam Bộ"[cần dẫn nguồn].

Ngày 6 tháng 1 năm 1946, tổng tuyển cử tự do trong cả nước được tổ chức, bầu ra Quốc hội và Quốc hội thông qua Hiến pháp dân chủ đầu tiên của Việt Nam. Quốc hội khóa I của Việt Nam đã cử ra Chính phủ Liên hiệp kháng chiến do Hồ Chí Minh làm chủ tịch. Đại biểu quốc hội chủ yếu là nhân sĩ trí thức, người ngoài Đảng. Ông trở thành chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, và với chức danh Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ông cũng đảm nhiệm luôn công việc của thủ tướng. Chính phủ này, cho tới cuối năm 1946, đã trải qua 3 lần thay đổi cơ cấu và nhân sự vào các thời điểm: ngày 1 tháng 1; tháng 3; và ngày 3 tháng 11.

Nhà nước và chính phủ của ông đối mặt với hàng loạt khó khăn cả về đối nội và đối ngoại. Về đối ngoại, khi này Việt Nam chưa được bất cứ quốc qia nào công nhận (Trung Quốc và Liên Xô công nhận Việt Nam lần lượt vào các ngày 18 và 20 tháng 1 năm 1950)[64], không phải thành viên Liên hiệp quốc[65] cũng như không nhận được sự ủng hộ nào về vật chất của các nước cộng sản khác. Ngoài 20 vạn quân của Tưởng Giới Thạch ở miền Bắc, còn có quân Anh và quân Pháp (vào thời điểm toàn quốc kháng chiến, tháng 12 năm 1946, Pháp có quãng 6 vạn quân), và khoảng 6 vạn quân Nhật. Về đối nội, "giặc đói, giặc dốt" - như chính cách ông gọi - và ngân quỹ trống rỗng là những vấn đề quan hệ nhất[66][67].

Bởi thế ông thi hành một chính sách đối ngoại mềm dẻo và nhẫn nhịn. Ông nói "chính sách của ta hiện nay là chính sách Câu Tiễn, nhưng nhẫn nhục không phải là khuất phục"[68].

Với tập đoàn Tưởng Giới Thạch, ông chấp nhận sự hiện diện của Việt Cách, Việt Quốc trong các chính phủ liên tục được thay đổi, chấp nhận 70 ghế cho Việt Quốc, Việt Cách trong quốc hội không cần qua bầu cử. Ông cũng cung cấp gạo (ban đầu kiên quyết từ chối[69]) cho quân Tưởng. Quân Tưởng cũng được tiêu giấy bạc "kim quan" và "quốc tệ" tại miền Bắc. Trước đó, tháng 10 năm 1945, khi Hà Ứng Khâm, tổng tham mưu trưởng của quân đội Tưởng tới Hà Nội, hàng vạn người được huy động xuống đường, hô vang các khẩu hiệu "Ủng hộ chính phủ Hồ Chí Minh", "Ủng hộ chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa" để "đón tiếp".

Tháng 11 năm 1945, ông quyết định cho Đảng tự giải tán. Về mặt công khai, đảng của ông không còn hiện diện mà chỉ có một bộ phận hoạt động dưới danh nghĩa Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương[70].

Ông kêu gọi các đảng viên nếu tự xét thấy mình không đủ phù hợp thì nên tự rút lui khỏi hàng ngũ lãnh đạo chính quyền[71]

Trước Quốc hội, ông tuyên bố: "Tôi chỉ có một Đảng - đảng Việt Nam"[72].

Theo Hiệp ước Pháp-Hoa, ký ngày 28 tháng 2 năm 1946, quân Pháp sẽ thay thế quân của Tưởng Giới Thạch. Một tuần sau, ngày 6 tháng 3 năm 1946, ông cùng Vũ Hồng Khanh ký với Jean Sainteny - Ủy viên Pháp ở miền bắc Ðông Dương - bản Hiệp định sơ bộ với Pháp, với 3 nội dung chủ chốt:

  • Pháp công nhận Việt Nam "là một nước tự do, là một phần tử trong Liên bang Đông Dương thuộc Liên hiệp Pháp". Trước đó, đàm phán căng thẳng khi ông muốn Việt Nam được công nhận là quốc gia độc lập và phản đối kịch liệt khi Pháp muốn dùng chữ "Quốc gia Tự trị" để mô tả tổ quốc của ông.
  • Pháp được đưa 1,5 vạn quân ra Bắc thế cho quân Tưởng, nhưng phải rút trong 5 năm, mỗi năm rút 1 phần 5 quân số.
  • Ngừng xung đột, giữ nguyên quân đội tại vị trí cũ.

Ngày 31 tháng 5 năm 1946, ông lên đường sang Pháp theo lời mời của chính phủ nước này; cùng ngày, phái đoàn chính phủ do Phạm Văn Đồng dẫn đầu cũng khởi hành. Trước khi đi, ông bàn giao quyền lãnh đạo đất nước cho Huỳnh Thúc Kháng[73] với lời dặn "Dĩ bất biến, ứng vạn biến"[74]. Tại Việt Nam, ông dự đoán thời gian ở Pháp là "...có khi một tháng, có khi hơn"[75] nhưng cuối cùng ông ở Pháp 4 tháng (Hội nghị Fontainebleau diễn ra từ 6 tháng 7 tới 10 tháng 9 năm 1946) mà không tránh khỏi thất bại chung cuộc.

Ngày 14 tháng 9 năm 1946, ông ký với đại diện chính phủ Pháp, bộ trưởng Thuộc địa Marius Moutet, bản Tạm ước (Modus vivendi), quy định đình chỉ chiến sự tại miền Nam, và thời gian tiếp tục đàm phán vào đầu năm 1947.

Thế nhưng những nhân nhượng đó cũng không tránh nổi chiến tranh. Sau khi nhận được liên tiếp 3 tối hậu thư của Pháp trong vòng chưa đầy một ngày,ông kí lệnh kháng chiến. Tối ngày 19 tháng 12 năm 1946, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến do ông chấp bút được phát trên đài phát thanh. 20h tối cùng ngày, kháng chiến bùng nổ.

Giai đoạn kháng chiến chống Pháp

Tháng 3 năm 1947, ông và Trung ương Đảng chuyển lên Việt Bắc. Ông kêu gọi nhân dân tiêu thổ kháng chiến, tản cư cũng là kháng chiến, phá hoại (cho Pháp không lợi dụng được) cũng là kháng chiến.

Ngày 2 tháng 2 năm 1950, Hồ Chí Minh kí sắc lệnh tổng phản công trong năm 1950. Tuy vậy, sau đó nội dung của sắc lệnh này đã bị bác bỏ. Những lệch lạc trong công tác so sánh lực lượng hai bên tham chiến của phía Việt Nam cũng như sự chủ quan trong chỉ đạo đã bị kiểm điểm và uốn nắn.

Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 2 được tổ chức vào trung tuần tháng 2 năm 1951 tại Tuyên Quang, ông quyết định đưa Đảng ra hoạt động công khai trở lại. Tuy nhiên, khi này tên gọi không còn là Đảng Cộng sản nữa mà có tên mới là Đảng Lao động Việt Nam. Ông tuyên bố:

"Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là đảng của dân tộc Việt Nam."[76]

Cuộc Chiến tranh Đông Dương kết thúc vào năm 1954, khi người Pháp thất trận tại Điện Biên Phủ - sự kiện báo hiệu sự cáo chung của chủ nghĩa thực dân trên phạm vi toàn thế giới[77] - và dẫn đến Hiệp định Genève. Kết quả mà đoàn Việt Nam thu nhận được kém hơn nhiều so với mục tiêu đề ra ban đầu. Tuy vậy, trên các phương tiện truyền thông chính thức, Hồ Chí Minh tuyên bố "Ngoại giao đã thắng to![78]

Cuộc cải cách ruộng đất, phát động vào cuối năm 1953 (khởi sự tại Thái Nguyên)[79] cho tới khoảng cuối năm 1957, phạm nhiều sai lầm nghiêm trọng, nhất là trong việc lạm dụng đấu tố và xử tử những người bị liệt vào thành phần địa chủ, phú nông thậm chí vu oan và giết nhầm cả những đảng viên trung kiên. Từ tháng 2 năm 1956, công cuộc sửa sai được khởi sự. Những nhân vật cốt cán của cải cách bị đưa xuống:

Cuối tháng 10 năm 1956, Võ Nguyên Giáp - người không trực tiếp can hệ tới Cải cách ruộng đất - thay mặt Hồ Chí Minh (ở tư cách Chủ tịch nước) đọc báo cáo tại Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Nhà hát lớn Hà Nội. Báo cáo kê khai sai lầm và phục hồi chức vụ, tài sản và danh dự cho các cán bộ bị đấu tố. Bản thân Hồ Chí Minh đã viết thư nhận lỗi trước đồng bào từ tháng 8. Trường Chinh sau đó được bầu làm trưởng ban sửa sai cải cách ruộng đất. Ở hội nghị toàn quốc, ông lại nhận lỗi một lần nữa. Ông khóc, nhưng các chức vụ của ông không bị thay đổi.

Năm 1959, Hồ Chí Minh tới thăm Bắc Kinh nhân dịp kỷ niệm 10 năm cách mạng Trung Quốc. Trong những cuộc đàm phán riêng, ông nhận được sự hứa hẹn của cả Bắc Kinh lẫn Moskva để viện trợ thêm vũ khí và dân sự, nhưng đã khôn khéo từ chối những đề nghị gửi quân tình nguyện hay cố vấn quân sự đến Việt Nam[83].

Giai đoạn sau

Từ khoảng nửa đầu thập niên 1960, Hồ Chí Minh được coi như chỉ còn nắm giữ vai trò biểu tượng của cách mạng. Quyền lực khi này đã tập trung về tay bí thư thứ nhất Lê Duẩn và một số nhân vật gần gũi trong Đảng Lao động Việt Nam[84], những người này đã chủ trương tích cực thúc đẩy quá trình thống nhất đất nước bằng cách đẩy mạnh cuộc chiến tranh ở miền Nam. Theo lời ông Vũ Kỳ kể lại, Hồ Chí Minh chỉ biết sự kiện Tết Mậu Thân 1968 đã nổ ra khi nghe đài trong lúc đang dưỡng bệnh tại Trung Quốc.[85]

Ông liên tục ốm nặng trong khoảng hơn 3 năm cuối đời và từ trước đó, trong một số lần tiếp xúc ngoại giao, chẳng hạn như khi nói chuyện với Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô Alexey Nikolayevich Kosygin từ năm 1963, ông nói rằng mình sẽ bàn giao mọi công việc cho Bí thư thứ nhất Lê Duẩn[86].

Qua đời

Tập tin:Bacho2.jpg
Hồ Chí Minh đang tăng gia, khi đã là chủ tịch nước
Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh

Hồ Chí Minh mất vào hồi 9 giờ 47 phút sáng ngày 2 tháng 9 năm 1969, tức ngày 21 tháng 7 âm lịch[87], hưởng thọ 79 tuổi.

Hà Nội đã nhận được hơn 22.000 bức điện chia buồn từ 121 nước trên khắp thế giới][88]. Nhiều nước trong khối xã hội chủ nghĩa đã tự tổ chức truy điệu và đưa ra những lời ca ngợi ông. Một tuyên bố chính thức từ Moskva đã gọi Hồ Chí Minh là một "người con vĩ đại của dân tộc Việt Nam anh hùng, nhà lãnh đạo xuất chúng của Cộng sản quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc, và một người bạn lớn của Liên bang Xô Viết". Từ các nước Thế giới thứ ba, người ta ca ngợi ông trong vai trò của người bảo vệ những con người bị áp bức. Một bài báo xuất bản ở Ấn Độ miêu tả ông là sự kết tinh của "nhân dân và hiện thân của khát vọng đấu tranh cho tự do và cho sự đấu tranh bền bỉ của nhân dân"[89]. Những bài báo khác đề cao phong cách giản dị và đạo đức cao của ông. Một bài xã luận trên một tờ báo của Uruguay viết: "Ông có một trái tim bao la như vũ trụ và tình yêu trẻ thơ vô bờ bến. Ông là hình mẫu của sự giản dị trong mọi mặt"[90].

Phản ứng từ các nước phương Tây dè dặt hơn. Nhà Trắng và các quan chức cấp cao của Mỹ từ chối bình luận. Báo chí phương Tây đặt sự chú ý cao đối với cái chết của Hồ Chí Minh. Các tờ báo ủng hộ phong trào phản chiến có xu hướng miêu tả ông như là một đối thủ xứng đáng và là người bảo vệ cho những con người bị áp bức. Ngay cả những tờ báo đã từng phản đối mạnh mẽ chính quyền Hà Nội cũng ghi nhận ông là người đã cống hiến cả cuộc đời cho công cuộc kiếm tìm độc lập và thống nhất đất nước Việt Nam của ông, đồng thời là tiếng nói nổi bật trong việc bảo vệ những dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới[91].

Trong di chúc, ông muốn được hỏa táng và đặt tro tại ba miền đất nước[92][93]. Tuy nhiên, từ đó đến nay, thi hài ông được bảo quản ở Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hà Nội để mọi người có thể đến viếng, tương tự như đối với thi hài Lenin ở Moskva[94].

Di chúc của Hồ Chí Minh được viết vào những dịp sinh nhật ông vào năm 1965 và đều đặn được viết và sửa lại trong những năm tiếp theo[95]

Điếu văn dành cho ông, do Bí thư thứ nhất Lê Duẩn đọc trong tang lễ, có đoạn:

"Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ tịch - Người anh hùng vĩ đại. Và chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước ta...[96].

Trong bài thơ "Bác ơi" của Tố Hữu, sáng tác ngày 6 tháng 9 năm 1969, có đoạn:

Bác để tình thương cho chúng con
Một đời thanh bạch, chẳng vàng son
Mong manh áo vải hồn muôn trượng
Hơn tượng đồng phơi những lối mòn.[97]

Các câu nói

Các câu nói nổi tiếng

  • Tôi nói, đồng bào có nghe rõ không?[98]
  • Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành[99]
  • Tôi chỉ có một Đảng: Đảng Việt Nam.[100]
  • Không có gì quý hơn độc lập, tự do!
  • Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một; sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi.
  • Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người.[101]
  • Hình ảnh miền Nam luôn ở trong trái tim tôi.
  • Nhiệm vụ của thanh niên không phải là đòi hỏi Nước nhà đã cho mình những gì, mà phải tự hỏi mình đã làm gì cho Nước nhà? Mình phải làm thế nào cho ích lợi Nước nhà nhiều hơn? Mình đã vì lợi ích Nước nhà mà hy sinh phấn đấu đến chừng nào?[102]

Các câu nói khác

1945 - 1946

  • Bọn ấy sang thì chả tử tế gì đâu. Chúng sẽ ăn hại, báo hại, đưa phản động về phá ta, làm những điều chướng tai gai mắt.[103]
  • Các ông giết 10 người của chúng tôi, chúng tôi giết 1 người của ông, nhưng cuối cùng các ông sẽ là người kiệt sức[104]

Thập niên 1960

  • Chủ nghĩa Mác-Lênin Việt Nam là chủ nghĩa Mác-Lênin có lí có tình![105]
  • Tôi xin mời Johnson tới Hà Nội như là khách của chúng tôi. Ông hãy đến với vợ và con gái, người thư kí, người bác sĩ và người đầu bếp của mình. Nhưng đừng mang theo tướng lĩnh và đô đốc![106]
  • Mĩ phải cút đi! Chúng tôi trải thảm đỏ cũng được, nhưng Mĩ phải cút đi! Mĩ phải chấm dứt xâm lược. Johnson miệng nói hòa bình tay lại kí những lệnh điều động quân. Chúng tôi không bác bỏ gì hết, nhưng nhân dân chúng tôi phải được yên ổn. Chúng tôi không muốn trở thành người chiến thắng. Chúng tôi chỉ muốn Mĩ cút đi! Gút-bai![107]
  • Tôi nói với nhân dân Việt Nam rằng họ là con cháu tôi, vì vậy tôi sống rất bình yên và giản dị, tôi ngủ rất ngon, ngay cả khi có việc ném bom của các ông.[108]
  • Tôi là người đa nghi và tôi có lí do để ngờ vực. Người Mĩ các ông ít nhiều đều là nhà kinh doanh. Tôi cũng là nhà kinh doanh... Khi việc ném bom chấm dứt, câu chuyện bắt đầu. Chúng ta sẽ xem các mặt hàng.[109]
  • Chúng tôi và nhân dân chúng tôi sẵn sàng nói chuyện với nhà cầm quyền Mĩ và nhân dân Mĩ. Nhưng với Johnson và Mc Namara thì hoặc là trải thảm đỏ hoặc đá đít ra ngoài cửa.[110]
  • Chúng tôi sẵn sàng đem hoa và nhạc tiễn họ và mọi thứ khác họ thích, nhưng ông biết đấy, tôi thích tiếng lóng của các ông: qu'ils foutent le camp! ("qu'ils foutent le camp" có nghĩa là "hãy cút đi")[111]
  • Đế quốc Mỹ chán rồi, nhưng rút ra như thế nào. Thua mà danh dự. Đó là điều Mỹ muốn![112]

Bên lề

Nội dung mục này đang được hoàn thành, đề nghị không xóa bỏ hoặc sửa chữa.

Hình ảnh công cộng

Phủ Chủ tịch và Bảo tàng Hồ Chí Minh

Các thiếu nhi khóc trong lễ tang Hồ Chí Minh năm 1969

Sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc, phủ toàn quyền Đông Dương bên cạnh Quảng trường Ba Đình, nơi ông đã đọc Tuyên ngôn độc lập được chọn là nơi làm việc của Đảng, Nhà nước và đồng thời là nơi ở, nơi làm việc của Chủ tịch nước. Từ đó trở đi, nơi đây trở thành Khu di tích Phủ Chủ tịch. Khu này là nơi sống và làm việc lâu nhất trong cuộc đời hoạt động cách mạng của ông - từ 19 tháng 12 năm 1954 đến 2 tháng 9 năm 1969 (đây cũng là khoảng thời gian ông có những đóng góp quan trọng nhất trong lịch sử Việt Nam). Khu di tích Phủ Chủ tịch, hàng năm đón nhiều khách tham quan trong và ngoài nước.

Viện Bảo tàng Hồ Chí Minh được thành lập theo quyết định của Bộ Chính trị ngày 12 tháng 9 năm 1977.

Thành phố Hồ Chí Minh

Năm 1976, kỳ họp Quốc hội đầu tiên sau ngày Việt Nam được thống nhất đã thống nhất quyết định đổi tên thành phố Sài Gòn thành Thành phố Hồ Chí Minh nhằm tôn vinh ông.

Giải thưởng và Huân chương

Tên của ông được Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đặt cho giải thưởng cao quý nhất dành cho những cống hiến trong các lĩnh vực khoa học và công nghệ của công dân Việt Nam: Giải thưởng Hồ Chí Minh. Huân chương Hồ Chí Minh là huân chương bậc cao thứ nhì của Nhà nước.

Hình ảnh khác

Tập tin:500000t.jpg
Mọi tờ tiền giấy tại Việt Nam hiện nay đều in hình chủ tịch Hồ Chí Minh trừ tờ 100 đồng

Tại Việt Nam ngày nay, ông được xem là nhân vật chính trong công cuộc giải phóng dân tộc. Đối với nhiều người, ông là một nhà yêu nước đã vận dụng chủ nghĩa cộng sản vào công cuộc giải phóng dân tộc khỏi ách thực dân và đế quốc. Hình ảnh và tượng ông hiện diện tại nhiều nơi công cộng, cũng như trên tất cả các đồng tiền giấy đang lưu hành tại Việt Nam. Tượng bán thân và hình của ông cùng với quốc kỳ là thứ gần như bắt buộc phải có tại tất cả các cơ quan nhà nước, trường học, bệnh viện tại Việt Nam. Tên của ông, tên của thành phố lớn nhất Việt Nam, cũng được đặt cho nhiều công trình công cộng, như đường quốc lộ, quảng trường. Tính giản dị và kiên cường của ông được nhiều người kính mến.

"Bác Hồ"

Nhiều người dân Việt Nam yêu quý ông, gọi ông bằng cái tên thân mật "Bác Hồ". Trong văn thơ, ông còn được gọi là "Người Cha già của dân tộc". Ông còn được thờ trong một số đền chùa và gia đình. Một số dân tộc thiểu số Việt Nam, như Vân Kiều, Pa Cô, Kor, đã lấy họ Hồ vì yêu quý ông[113].

Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa thế giới

Ông được xem là một danh nhân không chỉ của dân tộc Việt Nam mà còn của thế giới. UNESCO đã tôn vinh ông là Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa và khuyến nghị các nước thành viên tổ chức kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông[114],[115]. Tuần báo TIME của Hoa Kỳ đánh giá Hồ Chí Minh là một trong 100 nhân vật có tầm ảnh hưởng lớn nhất trong thế kỷ 20.

Là một người lãnh đạo cuộc đấu tranh của Việt Nam giành độc lập khỏi chế độ thực dân Pháp, với chiến thắng quyết định ở trận Điện Biên Phủ, ông được người dân ở những nước thuộc địa trước đây của Pháp, chủ yếu ở Bắc PhiTây Phi, kính trọng, và được coi như tấm gương cho cuộc giải phóng tại đất nước họ. Tên ông đã được đặt cho các đại lộ tại Luanda (Angola), tại Ouagadougou (Burkina Faso) và tại Maputo (Mozambique). Nhiều nước trên thế giới đã phát hành tem bưu chính kỷ niệm ông: Liên Xô, Ấn Độ, Lào, Madagascar, Algérie, Cuba, Đông Đức, Triều Tiên, Quần đảo Marshall, Dominica...

Bàn cãi

  • Tuy thế, nay vẫn còn có nhiều bàn cãi về sự nghiệp của ông. Là một trong những người đưa chủ nghĩa cộng sản đến với Việt Nam, ông là một mục tiêu chống đối của những người theo chủ nghĩa chống cộng. Đối với những người chống cộng, ông là một kẻ tranh thủ thời cơ để giành chính quyền và tạo ra một chế độ cực quyền.

Thần tượng hóa

Trên các cơ quan thông tin đại chúng ở Việt Nam, Hồ Chí Minh được ca ngợi như một người toàn đức toàn tài mà ai cũng phải noi theo, nghĩ tới bất cứ lúc nào. Nhiều khẩu hiệu cho đến nay vẫn còn được sử dụng, nhiều nhất là:

  • Đời đời nhớ ơn Bác Hồ vĩ đại
  • Sống, học tập và làm việc theo gương Hồ chủ tịch.
  • Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại sống mãi trong sự nghiệp chúng ta

Nhiều phát biểu, câu nói của Hồ Chí Minh được đăng tải trên các phương tiện truyền thông như là những câu danh ngôn, chân lý. Học sinh tiểu học thường học thuộc năm điều Bác Hồ dạy:

Yêu tổ quốc, yêu đồng bào
Học tập tốt, lao động tốt
Đoàn kết tốt, kỷ luật tốt
Giữ gìn vệ sinh thật tốt
Khiêm tốn, thật thà, dũng cảm

Tác phẩm

Hồ Chí Minh trong văn học, nghệ thuật

Âm nhạc

Tập tin:Bacho3.jpg
Hồ Chí Minh và em bé
...Bác thương các cụ già xuân về gửi biếu lụa, Bác yêu đàn cháu nhỏ trung thu gửi cho quà. Bác thương đoàn dân công đêm nay ngủ ngoài rừng, Bác thương người chiến sĩ đứng gác ngoài biên cương..."
  • Bài hát "Hồ Chí Minh đẹp nhất tên người" của nhạc sĩ Trần Kiết Tường:
...Trên cánh đồng miền Nam, đau thương mây phủ chân trời. Khi ca lên Hồ Chí Minh, nghe lòng phơi phới niềm tin...
...From VietBac to the SaiGon Delta. Marched the armies of Viet Minh. And the wind stirs the banners of the Indo-Chinese people. Peace and freedom and Ho Chi Minh...
...I'll have to say in my own way. The only way I know, that we learned power to the people and the power to know. From Teacher Uncle Ho!

Thơ, văn

...Có nhớ chăng hỡi gió rét thành Ba-lê
Một viên gạch hồng Bác chống lại cả một mùa băng giá
Và sương mù thành Luân Đôn, người có nhớ
Giọt mồ hôi Người nhỏ giữa đêm khuya...
...Nhớ ông cụ mắt sáng ngời
Áo nâu túi vải đẹp tươi lạ thường...
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trǎng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim!

Hội họa

Đã có ít nhất bốn bức vẽ bằng máu về Hồ Chí Minh (huyết họa)[122]

Xem thêm

Người thân

Nghi vấn

Có nghi vấn, không được khẳng định chắc chắn, nhưng vẫn lan truyền, liên quan đến ông Nông Đức Mạnh và bà Nguyễn Thị Minh Khai.

Chú thích

  1. ^ Theo Ho Chi Minh - A Life, William Duiker, 2000, dẫn lại trong [1], Nguyễn Sinh Nhậm còn có tên khác là Nguyễn Sinh Vương, mất năm 1866
  2. ^ Búp sen xanh, Sơn Tùng
  3. ^ Bác Hồ - hồi kí, NXB Văn học, 2004, trang 6 cho biết làng Kim Liên cũng như làng Hoàng Trù nằm gần (trong khoảng bán kính 20-30 km) với quê hương của nhiều nhân vật trong lịch sử Việt Nam như:
  4. ^ Bác Hồ - hồi kí, NXB Văn học, 2004, trang 10.
  5. ^ Bác Hồ - hồi kí, NXB Văn học, trang 12, 13 cho biết ông Hoàng Xuân Hành (còn được gọi là cố Cháu) là chú ruột của bà Hoàng Thị Loan, đã từng theo Đề Thám đánh Pháp, sau bị bắt khi tham gia vũ trang ở Nghệ An và đày đi Côn Đảo.
  6. ^ Bác Hồ - hồi kí, NXB Văn học, 2004 cho biết ông Nguyễn Sinh Sắc là một trong 24 người đỗ đại khoa của khoa thi năm 1901 (khoa này chỉ lấy tiến sĩ và phó bảng). Sau khi Nguyễn Ái Quốc tới Quảng Châu (năm 1924), Nguyễn Sinh Sắc có nhận được tin, biết Nguyễn Ái Quốc là con mình và có lần nhắm thăm.
  7. ^ Bác Hồ - hồi kí, NXB Văn học, 2004, trang 25.
  8. ^ Duiker, tr.37
  9. ^ Hội Liên Thành vừa làm nước mắm vừa bán tạp hóa. Trường Dục Thanh hoạt động theo mô hình Đông Kinh nghĩa thục, có khoảng 60-70 học sinh.Thời kì này, ông vẫn ăn vận theo lối dân tộc "[...] bận một bộ bà ba kiểu Sài Gòn [...] và đi guốc"
  10. ^ Bác Hồ - hồi kí, NXB Văn học, 2004, trang 38. Các chi tiết là của bác sĩ Nguyễn Kinh Chi, người từng trực tiếp học Hồ Chí Minh.
  11. ^ Bác Hồ - hồi kí, NXB Văn học, 2004, trang 40
  12. ^ Ho Chi Minh - A Life, William Duiker, trang 45,
    • Nguyễn Ái Quốc trả lời nhà báo Liên Xô Ossip Mandelstam: "Hồi khoảng 13 tuổi, tôi được nghe lần đầu các từ tiếng Pháp 'tự do', 'bình đẳng', 'bác ái'. Khi đó tôi nghĩ tất cả những người da trắng đều là người Pháp. Vì người Pháp đã viết những từ này, tôi đã muốn làm quen với văn hóa Pháp để hiểu được ý nghĩa chứa trong các từ đó."
    • Trả lời phỏng vấn của nhà báo Mỹ Anna Louise Strong: "Nhân dân Việt Nam, trong đó có cha tôi, thường tự hỏi ai sẽ giúp họ loại bỏ ách thống trị của Pháp. Một số cho rằng Nhật Bản, người cho là Anh, người lại cho là Mỹ. Tôi đã thấy rằng tôi phải ra nước ngoài để tự nhìn. Sau khi tôi hiểu được họ sống như thế nào, tôi sẽ về giúp đồng bào tôi."
  13. ^ Nguyên văn trong Các cuộc đàm phán Lê Đức Thọ-Kissinger tại Paris, Lưu Văn Lợi và Nguyễn Anh Vũ biên soạn, NXB Công an Nhân dân, 2002, trang 198 là: "Người nhắc lại rằng Người đã từng ở Anh, từng làm đầu bếp trong một khách sạn, đã đến khu da đen ở Harlem, nhưng chưa tới Canada và đã từng là lính thủy nên đã qua nhiều cảng."
  14. ^ Bài viết Lòng yêu nước, ánh sáng và tinh thần quốc tế trên http://hanoi.vnn.vn nói rằng Nguyễn Ái Quốc "nói ý và cụ Phan Vǎn Trường viết" ra yêu sách "Quyền của các dân tộc" gồm 8 điểm (đây chính là "Yêu sách của nhân dân An Nam"). Tuy vậy, không rõ chi tiết này trong bài viết được dẫn ra từ tài liệu nào.
  15. ^ Ông còn gửi thư riêng kèm theo bản yêu sách cho các đoàn đại biểu Đồng Minh dự hội nghị, nhưng không gây được sự chú ý cũng như gửi hơn 6000 bản sao của tài liệu này cho hơn 6000 thành viên các công đoàn Pháp.Một trong những bức thư đó (bức gửi cho ngoại trưởng Mỹ Robert Lansing) được lưu trữ tại Thư viện Quốc gia Hoa Kì và có thể được đọc tại [2]. Bức thư này nguyên khởi được viết bằng tiếng Pháp, bản lưu trữ tại Thư viện Quốc gia Hoa Kì là bản dịch tiếng Anh. Xem nội dung tiếng Vệt và tiếng Anh tại Thảo luận:Yêu sách của nhân dân An Nam
  16. ^ Hồ Chí Minh toàn tập, tập 10, NXB Chính trị Quốc gia, 1996, trang 127; dẫn lại trong Đại cương Lịch sử Việt Nam, NXB Giáo dục, 2006, tập 2, trang 245.
  17. ^ Ông làm chủ nhiệm kiêm chủ bút và thủ quỹ, nhằm tố cáo chính sách đàn áp, bóc lột của chủ nghĩa đế quốc nói chung và thực dân Pháp nói riêng.
  18. ^ Bài viết Chủ tịch Hồ Chí Minh đấu tranh bảo vệ và vận dụng sáng tạo đường lối của V.I Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa (1920-1924) trên http://hanoi.vnn.vn cho biết báo Le Paria xuất bản bằng tiếng Pháp nhưng ở trang đầu còn có tên báo bằng chữ Ả Rập và chữ Hán. Số 1 của tờ báo ra ngày 1 tháng 4 nǎm 1922, trong đó có lời kêu gọi nêu rõ: "Báo Le Paria ra đời do sự thông cảm chung của các đồng chí ở Bắc Phi, Trung Phi và Tây Phi thuộc Pháp, ở Ma-đa-gat-xca, ở Đông Dương, Ǎng ti và Guyannơ...".
  19. ^ như những tờ L'Humanité, Le Journal du Peuple, La Voix Ouvrière, Le Libétaire, ClartéL'Action Coloniale
  20. ^ Thời kì này, ông kết giao với nhiều nhà hoạt động chính trị như: Paul Vaillant-Couturier (Pháp), Abdelkader Hadj Ali (Algérie), Jean Railanmongo (Madagascar), Louis Hunkanrin (Dahomey), Lamine Senghor (Sénégal,ông này không phải là Léopold Sédar Senghor, người sau này là Tổng thống Senegal và cũng có thời gian dài ở Pháp)...
  21. ^ Bác Hồ - hồi kí, NXB Văn học, 2004, trang 61, phần kể của Bùi Lâm.
  22. ^ Điều thú vị là "Yêu sách của nhân dân An Nam" cũng là đòi có đại biểu người Việt trong Nghị viện Pháp Trong giai đoạn trước đó cũng từng có đại biểu của Việt Nam tại nghị viện Pháp, nhưng đó là đại biểu người Pháp. Một số thuộc địa châu Phi của Pháp cũng có đại biểu bản xứ (người Phi) tại Nghị viện Pháp..
  23. ^ Bác Hồ - hồi kí, NXB Văn học, 2004, trang 64, 65 cho biết Compoint là ngõ hẻm ở trong khu công nhân nghèo, cả ngõ có bốn cái nhà, ba nhà được cho thuê làm nơi để xe. Ngôi nhà Nguyễn Ái Quốc thuê trọ có tầng dưới mở quán cà phê, tầng trên có 2 phòng cho thuê, Nguyễn thuê một phòng. Căn phòng này được mô tả là "...chỉ vừa đặt một cái giường sắt, và một cái bàn con. Trên bàn có một cái thau, trong thau có một bô nước để rửa mặt... khi muốn viết lách thì phải đút bô và thau xuống gầm giường".
  24. ^ The Shadow of Shadows Hayes, Brenn Edwards
  25. ^ qua giới thiệu của Dmitri Manuilski, một lãnh đạo cao cấp của Quốc tế Cộng sản III,và đi cùng Jean Cremet,hai người này là lãnh đạo cao cấp của Quốc tế Cộng sản
  26. ^ Tại đây ông đã dự Hội nghị lần thứ nhất Quốc tế Nông dân ông được bầu vào Ban chấp hành và Đoàn Chủ tịch Quốc tế Nông dân.
  27. ^ Trong Thư của Nguyễn Hưng Đạt từ Matxcơva đăng trên BBC, ông Đạt cho rằng "Ông Nguyễn chưa bao giờ là Cục trưởng Cục Phuơng Nam của Quốc tế Cộng sản III như báo Nhân dân 05.09.1969 nêu" và "Cũng không thấy có cái Cục này trong Kho lưu trữ Liên bang, phần Tài liệu về các Quốc tế Cộng sản II và III."
  28. ^ Đoàn này do Mikhail Markovich Borodin làm trưởng đoàn. Trong Hochiminh: The missing years, 1919-1941] (Hồ Chí Minh - Những năm chưa biết đến, 1919-1941), Sophie Quinn-Judge của London School of Economics cho rằng: "....ông Hồ lúc đó từ Nga đi Quảng Đông mà không mang theo một hướng dẫn rõ ràng về những gì ông sẽ làm tại đó. Ban đầu ông ấy không được cho một vai trò chính thức. Có vẻ như người ta đã tìm cho ông công việc làm người dịch thuật tại hãng tin của Nga tại đó để có tiền thực hiện các hoạt động chính trị của ông."
  29. ^ Hồ Chí Minh toàn tập, tập 2, NXB Chính trị Quốc gia, 1995, trang 8; dẫn lại trong Đại cương Lịch sử Việt Nam, tập 2, NXB Giáo dục, 2006, trang 265.
  30. ^ 7 thành viên đầu tiên của Tâm tâm xã là Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng Mậu, Nguyễn Giản Thanh, Đặng Xuân Hồng, Trương Quốc Huy, Lê Cầu, Nguyễn Công Viễn; đến đầu năm 1924 thì Lê Hồng PhongPhạm Hồng Thái được kết nạp.
    Tâm tâm xã bị đánh giá là non nớt, mơ hồ về lập trường chính trị, nặng về khủng bố, ám sát cá nhân. Theo Đại cương Lịch sử Việt Nam, tập 3, NXB Giáo dục, 1996, trang 250.
  31. ^ Cho tới 1927, hội mở được trên 10 lớp huấn luyện, đào tạo 75 hội viên, mỗi khóa chỉ kéo dài 2-3 tháng. Nguyễn Ái Quốc đứng lớp, Hồ Tùng Mậu và Lê Hồng Sơn phụ giảng.
  32. ^ Nguyễn Hải ThầnVũ Hồng Khanh cũng từng làm việc hoặc học tập ở trường Hoàng Phố. Trần Phú, Lê Hồng Phong, Bùi Công Trừng, Phùng Chí Kiên, Lê Thiết Hùng, Nguyễn Sơn.... là những người được đưa đi đào tạo tại một trong hai trung tâm trên. Phần lớn người khác, như Nguyễn Lương Bằng, sau đó về nước hoạt động
  33. ^ Chương trình học tập gồm:
    • Học "nhân loại tiến hóa sử", nhưng chủ yếu học thời kì tư bản chủ nghĩa cho tới đế quốc chủ nghĩa; sau đó học lịch sử vận động giải phóng của Triều Tiên, Trung Quốc, Ấn Độ, lịch sử mất nước của Việt Nam;
    • Chủ nghĩa Marx-Lenin, học có phê phán chủ nghĩa Tam dân và chủ nghĩa Gandhi.
    • Phần sau là về tổ chức: lịch sử và tổ chức ba Quốc tế Cộng sản, các tổ chức phụ nữ, thanh niên quốc tế, quốc tế cứu tế đỏ, quốc tế nông dân.
    • Phần cuối là về vận động quần và tổ chức quần chúng, bài tập là các buổi thực tập. Sau mỗi tuần có "báo cáo học vấn" tại các tiểu tổ, học viên tự kiểm tra, phê bình và tự phê bình lẫn nhau.
  34. ^ tới tháng 2 năm 1930, tờ này ra được 208 số
  35. ^ Hồ Chí Minh với người vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh, Hoàng Tranh (nguyên Phó Viện trưởng Viện Khoa học xã hội Quảng Tây), tạp chí Đông Nam Á Tung hoành số tháng 11 năm 2001, xuất bản tại Nam Ninh, Trung Quốc
  36. ^ Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập chính đảng của giai cấp công nhân Việt Nam (1924-1930)
  37. ^ Theo Bác Hồ - hồi kí, phần kể của Lê Mạnh Trinh thì Khi đó có khoảng 2 vạn người Việt sống ở Thái Lan, kiếm sống chủ yếu bằng lao động và sinh sống khá rải rác, thiếu liên kết, tập trung nhiều hơn cả là ở vùng Đông Bắc. Cho tới thời điểm 1928, đa số họ mới di cư sang Thái Lan trong vòng khoảng mấy chục năm. Ngô Quảng, Thần Sơn, Phan Bội Châu, Đặng Tử Kính... đã từng hoạt động tại Thái, tuy nhiên không ai trong số họ tuyên truyền và tổ chức cho Việt kiều cả.
  38. ^ thậm chí ông còn sáng tác "Bài ca Trần Hưng Đạo" để họ sinh hoạt trong những buổi lễ Đức thánh Trần, sau khi nhận thấy đây là nhân vật lịch sử được kiều bào lập nhiều đền thờ và sùng kính nhất.
  39. ^ như tỉnh Nong Khai, tỉnh Nakhon Pathom, tỉnh Phichit, Thạt-pha-nôm, Mục-đa-hãn (huyện thuộc Nakhon), nhưng hoạt động chủ yếu ở [[tỉnh Ubon Ratchathani].
  40. ^ Lê Mạnh Trinh, một cán bộ cộng sản cùng hoạt động với Hồ Chí Minh ở Xiêm kể trong Bác Hồ - hồi kí (trang 148) rằng chính Hồ Chí Minh vào tháng 3 năm 1930 có nói với ông ta rằng Đảng thành lập ngày 6 tháng giêng tại Hương Cảng. Trong cùng quyển sách đó, Nguyễn Lương Bằng cũng nói rằng ngày thành lập Đảng là 6 tháng 1 năm 1930. Nhiều tài liệu chính thống hiện nay, khi đề cập về ngày thành lập Đảng, bên cạnh ngày 3 tháng 2 năm 1930 cũng thường chua thêm rằng "có tài liệu ghi là ngày 6 tháng 1 năm 1930".
  41. ^ sau đó ít lâu, Hồ Tùng Mậu cũng bị bắt theo đúng cách thức như vậy và bị án chung thân, tới năm 1943 mới vượt ngục trốn thoát
  42. ^ Thông qua Tống Khánh Linh, ông móc nối được với Jean Vaillant-Couturier (ủy viên trung ương Đảng Cộng sản Pháp và cũng là đồng chí cũ); qua người Pháp này mà ông có liên lạc được với Đảng Cộng sản Trung Quốc.
  43. ^ Bác Hồ - hồi kí, NXB Văn học, trang 98, 99, phần kể của Nguyễn Lương Bằng.
  44. ^ Ho Chi Minh - A Life, William Duiker, tr. 228.
  45. ^ Nơi làm việc của ông trong thời kì này là Viện nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa (phần lớn người cộng sản Việt Nam khi qua Liên Xô được bố trí vào học và làm việc tại viện này)
  46. ^ Bác Hồ - hồi kí, NXB Văn học, 2004, trang 167-176.
  47. ^ Hochiminh: The missing years, 1919-1941, Sophie Quinn-Judge, 2002, C. Hurst & Co, tr.253
  48. ^ Trích dẫn và dịch lại từ Vietnamese Communism 1925-1945, Huỳnh Kim Khánh, Cornell University Press, 1982, USA).
  49. ^ Bác Hồ - hồi kí, NXB Văn Học và Ho Chi Minh - A Life, William Duiker, tr. 232, 236, 237.
  50. ^ Ngoài ra, ông còn biên dịch và phiên dịch tiếng nước ngoài cho Cộng sản Trung Hoa, cũng như theo dõi các chương trình phát thanh bằng tiếng Anh.
  51. ^ Bác Hồ - hồi kí, NXB Văn Học, 2004, trang 200, phần do Vũ Anh kể lại.
  52. ^ Bác Hồ - hồi kí, NXB Văn học, 2004 cho biết Võ Nguyên Giáp (thời kì này được phân công làm tại tờ Notre Voix) nói rằng ông và nhiều người khác đều hiểu bút danh đó là của Nguyễn Ái Quốc.
  53. ^ Bác Hồ - hồi kí, NXB Văn Học, 2004
  54. ^ Bài Khu di tích Pác Bó trên http://www.caobang.gov.vn cho biết ông qua biên giới tại địa phận xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng, tại cột mốc số 108.
  55. ^ Theo Bác Hồ - hồi kí, NXB Văn học, 2004 có những lớp chỉ huấn luyện trong vài ngày với vài ba học viên.
  56. ^ Bác Hồ - hồi kí, NXB Văn học, phần kể của Vũ Anh.
  57. ^ Theo Bác Hồ - hồi kí, NXB Văn học, 2004 tấm danh thiếp mà ông sử dụng có dòng giữa được ghi tên "Hồ Chí Minh", một bên ghi "Tân văn kí giả" (tức là Nhà báo), một bên ghi "Việt Nam-Hoa kiều".
  58. ^ Theo Bác Hồ - hồi kí, phần của Võ Nguyên Giáp và phần của Vũ Anh, trang 268, 218 thì Võ Nguyên Giáp cho rằng: "có lẽ anh Cáp đã nghe lầm "sư tờ, sư tờ" (nghĩa là "phải, phải") thành "xử la, xử la" (nghĩa là "chết rồi")". Vũ Anh cho rằng: "đồng chí Cáp nghe nhầm câu "người đi cùng ông ấy chết rồi" (Hồ Chí Minh khi bị bắt có đi cùng một người Trung Quốc làm nhiệm vụ dẫn đường) thành "ông ấy chết rồi"".
  59. ^ Bác Hồ - hồi kí, NXB Văn học, 2004, trang 273, phần do Vũ Anh kể lại.
  60. ^ Bác Hồ - hồi kí, NXB Văn học, 2004, trang 284. Theo lời kể của Võ Nguyên Giáp thì vào một đêm khi có Võ Nguyễn Giáp ở bên cạnh ông có nói những lời như trăng trối rằng "...dù có phải đốt cả Trường Sơn, cũng kiên quyết dành cho được độc lập.
  61. ^ Trong khi trích dẫn các bản tuyên ngôn của phương Tây như Pháp và Mỹ, ông lại không trích dẫn hay nói tới các cổ văn Việt Nam như Nam quốc sơn hà hay Bình Ngô đại cáo, những cổ văn được coi là có giá trị như những tuyên ngôn cổ xưa của Việt Nam.
  62. ^ Theo sách của Wiliam J. Duiker thì Phelan nói: But he actually seemed to know more about it than I did[3]
  63. ^ Có thể xem nội dung bức thư (bằng tiếng Anh) tại [4], hoặc bằng cả hai thứ tiếng Việt và tiếng Anh tại [5]. Bức thư này không được trả lời cũng như không được công bố trước công chúng tới tận năm 1972
  64. ^ "Tai bay vạ gió" trong ngoại giao? Những nỗi truân chuyên của Việt Nam trên con đường hội nhập Phong trào Quốc tế Cộng sản (1945–1950), Christopher Goscha của Đại học Québec tại Montréal, đăng tại tạp chí Journal of Vietnamese Studies
  65. ^ Cho tới tháng 9 năm 1977, Việt Nam mới được gia nhập Liên hiệp quốc
  66. ^ Trong các tác phẩm của mình, Trường Chinh phê phán rằng khi chiếm chính quyền tại Hà Nội, việc không chiếm được Kho bạc Đông Dương là một sai lầm nghiêm trọng.
  67. ^ Theo Đại cương lịch sử Việt Nam, tập 3, NXB Giáo dục, 2006, trang 62 thì vào thời điểm đó, khoảng 95% dân số Việt Nam "mù chữ". Cả sản lượng lẫn năng suất lúa của Việt Nam đều rất thấp: tới tận năm 1948, tính trên toàn Bắc Bộ và Liên khu IV, diện tích lúa mùa là 1.030.611 ha và cho sản lượng 1.346.569 tấn; diện tích lúa vụ chiêm chỉ đạt 63.511 ha với sản lượng 78.971 tấn.
  68. ^ Bác Hồ - hồi kí, NXB Văn học, 2004, trang 105.
  69. ^ Bác Hồ - hồi kí, NXB Văn học, 2004, trang 106, phần kể của Nguyễn Lương Bằng.
  70. ^ Theo bài "Tai bay vạ gió" trong ngoại giao? Những nỗi truân chuyên của Việt Nam trên con đường hội nhập Phong trào Quốc tế Cộng sản (1945–1950), Christopher Goscha của Đại học Québec tại Montréal, đăng tại tạp chí Journal of Vietnamese Studies thì khi gặp nhau ở Trung Quốc năm 1950, Lưu Thiếu Kì đã nói với ông rằng Đảng Cộng sản Trung Quốc đã nhận xét hành động này của Việt Nam như sự "xa rời lý tưởng cộng sản".
  71. ^ Chu Ân Lai, những năm tháng cuối cùng (1966-1976), NXB Công an Nhân dân, 1996, trang 377 cho biết trong số các lãnh đạo Cộng sản Việt Nam khi đó, nhiều người như Nguyễn Chánh, Vũ Anh, Nguyễn Lương Bằng, Phùng Thế Tài, Chu Văn Tấn... không có nhiều thời gian được đào tạo tại trường lớp. Ở Trung Hoa có những lãnh đạo cộng sản không những ít được học hành mà trình độ văn hóa cũng rất thấp; một trường hợp tiêu biểu là Nham Kim Sinh - thứ trưởng Bộ Văn hóa thời kì ngay trước Cách mạng Văn hóa. Ông này, theo như nhận xét của Chu Đức thì "Không đọc được mấy chữ to".
  72. ^ Hồ Chí Minh: Toàn tập. NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 4, tr. 427-428[6]
  73. ^ Tuy chính quyền của Hồ Chí Minh có sự tham gia của nhiều nhân sĩ Nho học, Huỳnh Thúc Kháng là người duy nhất trong số đó đã từng đỗ đại khoa (tiến sĩ năm 1904).
  74. ^ Trong Đêm giữa ban ngày, tác giả Vũ Thư Hiên dẫn lại lời bố của mình rằng khi sắp về Hà Nội (tháng 9 năm 1945), Hồ Chí Minh không biết được hết tình hình chính trị mới diễn ra và có hỏi ông ta (bố của Vũ Thư Hiên) rằng: "nghe nói cụ Huỳnh (Huỳnh Thúc Kháng) đầu Tây rồi phải không?".
  75. ^ Bác Hồ - hồi kí, NXB Văn học, trang 112, phần kể của Nguyễn Lương Bằng.
  76. ^ Đại cương lịch sử Việt Nam, tập 3, NXB Giáo dục, 2006, trang 92.
  77. ^ General Vo Nguyen Giap], Kay Johnson
  78. ^ Đại cương lịch sử Việt Nam, tập 3, NXB Giáo dục, 2006, trang 127.
  79. ^ Theo Đại cương Lịch sử Việt Nam, tập 3, trang 94 thì từ đầu năm 1953, Đảng và chính phủ đã phát động quần chúng triệt để tiến hành giảm tô và cải cách ruộng đất tại các vùng tự do.
  80. ^ Sau đó, Hoàng Quốc Việt (tức Hạ Bá Cang) làm Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao và công tác ở Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
  81. ^ Sau này, Lê Văn Lương được bầu lại làm Ủy viên Bộ Chính trị khóa IV (1976-1981); có những khoảng thời gian trong 1976-1986 ông làm Bí thư Thành ủy Hà Nội
  82. ^ con gái của Hồ Viết Thắng có con với Lê Duẩn, tuy nhiên về mặt danh nghĩa, Lê Duẩn chỉ có 2 vợ.
  83. ^ Vài nét về cụ Hồ: ...In private negotiations, he managed to win pledges of additional arms and aid from both Peking and Moscou, but adroitly declined their offers to send “volunteer” troops or military advisers...
  84. ^ BBC, Loạt bài về Lê Duẩn: Kỳ 2: Bắt đầu cuộc thâu tóm quyền lực, Kỳ 3:Cuộc đấu tranh trong nội bộ
  85. ^ Tuy vậy, ông có quay lại Việt Nam để phê duyệt quyết định về Tổng Tấn công trước khi quay lại dưỡg bệnh tại Bắc Kinh. Nguồn Hochiminh-A Life của W.Duiker, chương 15,bẳn tiếng Việt.
  86. ^ Theo như Hoàng Tùng kể lại trong hồi kí được phổ biến trên Internet của mình, những năm cuối đời Hồ Chí Minh hay gắt gỏng.
  87. ^ Ngày mất của ông ban đầu được Ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam công bố là ngày 3 tháng 9, về sau này mới công bố lại là ngày 2 tháng 9.
  88. ^ Ho Chi Minh - A Life, William Duiker, tr. 562
  89. ^ Ho Chi Minh - A Life, William Duiker, tr. 562
  90. ^ Ho Chi Minh - A Life, William Duiker, tr. 562
  91. ^ Ho Chi Minh - A Life, William Duiker, tr. 562
  92. ^ Di chúc Hồ Chí Minh trên trang web Đảng Cộng sản Việt Nam
  93. ^ Di chúc Hồ Chí Minh, bản viết tay
  94. ^ Theo các tài liệu chính thống thì Bộ Chính trị, từ trước khi ông qua đời, đã quyết định sẽ xây một lăng để gìn giữ thi hài ông ở trong đó, tuy rằng công việc xây chỉ được khởi sự từ năm 1973, tức là 4 năm sau khi ông qua đời. Nhớ anh Lê Đức Thọ.
  95. ^ Ông mang di chúc ra viết và dặn lại Vũ Kỳ: "chú cất giữ cẩn thận, sang năm, mồng 10 tháng 5 nhớ đưa lại cho Bác". Sức tỏa sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh Mở đầu bản di chúc năm 1965 có đoạn: "Nhân dịp mừng 75 tuổi... Năm nay tôi 75 tuổi, tinh thần vẫn sáng suốt, thân thể vẫn mạnh khỏe. Tuy vậy, tôi cũng là lớp người "xưa nay hiếm".... Trong di chúc của Hồ Chí Minh, ông có viết "Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới".
  96. ^ Theo Chuyện khởi thảo điếu văn lễ truy điệu Bác 35 năm trước, một số nội dung khác của điếu văn thường được trích dẫn là:
    • "Hồ Chủ tịch kính yêu của chúng ta không còn nữa. Tổn thất lớn lao này không gì bù đắp được", đây là câu mở đầu của điếu văn.
    • "Tổn thất này vô cùng lớn lao. Đau thương này thật là vô hạn".
    Nguyên khởi, điếu văn này đã được soạn thảo hai lần nhưng không được Bộ Chính trị thông qua, sau đó bản thảo được viết bởi Đống Ngạc và Đậu Ngọc Xuân - hai thư kí riêng của Lê Duẩn. Văn bản cuối cùng được thông qua sau 4 lần sửa chữa với sự bàn soạn và góp ý của các thành viên trong Bộ Chính trị và Ban Bí thư Trung ương Đảng.
  97. ^ Bác ơi tại Tuổi trẻ Online.
  98. ^ Khi đọc tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí Minh ngừng lại để hỏi người dân có nghe rõ lời ông đọc hay không.
  99. ^ Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 4, tr. 161, khi trả lời các nhà báo nước ngoài vào tháng 1 năm 1946.
  100. ^ Hồ Chí Minh: Toàn tập. NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 4, tr. 427-428. [7]
  101. ^ Câu này có ý giống ý của Quản Trọng, trong sách Quản tử, nguyên văn là: "Kế sách cho 1 năm, lấy việc trồng lúa làm đầu; Kế sách cho 10 năm, lấy việc trồng cây làm đầu; Kế sách cho trăm năm, lấy việc trồng người làm đầu".
  102. ^ Trích trong bài nói chuyện tại buổi Lễ khai mạc trường Đại học Nhân dân Việt Nam vào ngày 19 tháng 1 năm 1955. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 7, trang 454-455.
    Câu nói của Tổng thống Hoa Kỳ John Kennedy trong diễn văn nhậm chức ngày 20 tháng 1 năm 1961 có ý tứ giống câu này. Nguyên văn câu nói của Kennedy: Ask not what your country can do for you - Ask what you can do for your country. (Đừng hỏi Tổ quốc có thể làm gì cho bạn, mà hãy hỏi bạn có thể làm gì cho Tổ quốc)
  103. ^ Bác Hồ - hồi kí, NXB Văn học, 2004, phần kể của Nguyễn Lương Bằng, trang 98, nói với các cộng sự trước khi quân của Tưởng Giới Thạch nhập Việt Nam.
  104. ^ Nói với Jean Sainteny - Ủy viên Pháp ở miền bắc Ðông Dương - trong quá trình đàm phán trước ngày Toàn quốc kháng chiến.
  105. ^ Văn hóa Việt Nam - tìm tòi và suy ngẫm, Trần Quốc Vượng, NXB Văn học, trang 925. Trần Quốc Vượng ghi chép đoạn này dựa vào hồi kí của Phan Hiền. Cuốn hồi kí của Phan Hiền được viết ngay sau khi Hồ Chí Minh qua đời nhưng cho tới nay vẫn chưa được xuất bản.
  106. ^ Các cuộc đàm phán Lê Đức Thọ-Kissinger tại Paris, Lưu Văn Lợi và Nguyễn Anh Vũ biên soạn, NXB Công an Nhân dân, 2002, trang 197.
  107. ^ Các cuộc đàm phán Lê Đức Thọ-Kissinger tại Paris, Lưu Văn Lợi và Nguyễn Anh Vũ biên soạn, NXB Công an Nhân dân, 2002, trang 127; nói trong khi tiếp thứ trưởng ngoại giao Ba Lan Mikhailowski vào ngày 6 tháng 1 năm 1966.
  108. ^ Các cuộc đàm phán Lê Đức Thọ-Kissinger tại Paris, Lưu Văn Lợi và Nguyễn Anh Vũ biên soạn, NXB Công an Nhân dân, 2002, trang 187.
  109. ^ Các cuộc đàm phán Lê Đức Thọ-Kissinger tại Paris, Lưu Văn Lợi và Nguyễn Anh Vũ biên soạn, NXB Công an Nhân dân, 2002, trang 191.
  110. ^ Các cuộc đàm phán Lê Đức Thọ-Kissinger tại Paris, Lưu Văn Lợi và Nguyễn Anh Vũ biên soạn, NXB Công an Nhân dân, 2002, trang 101.
  111. ^ Các cuộc đàm phán Lê Đức Thọ-Kissinger tại Paris, Lưu Văn Lợi và Nguyễn Anh Vũ biên soạn, NXB Công an Nhân dân, 2002, trang 150.
  112. ^ Theo tư liệu của ông Trịnh Ngọc Thái, thư ký của Xuân Thuỷ - trưởng đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Hội nghị Paris; dẫn lại trong [8]
  113. ^ 35 năm người Kor mang họ Bác Hồ
    Stanley Karnow (13 tháng 4 năm 1998). “TIME 100: Ho Chi Minh”. Tuần báo Time. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2007.
  114. ^ UNESCO, Records of the General Conference, 20 October to 20 November 1987
  115. ^ UNESCO không hề tổ chức sinh nhật Hồ Chí Minh, 15 tháng 8 năm 2005; theo ông Bùi Tín thì UNESCO không tổ chức cũng không tham dự kỷ niệm sinh nhật cho Hồ Chí Minh
  116. ^ Việt Nam nhận thức và ứng xử đối với vấn đề tôn giáo. Còn nhớ những quan điểm rất rộng mở của Trần Dân Tiên/Hồ Chí Minh: "Khổng Tử, Giê-su, Các Mác, Tôn Dật Tiên chẳng phải có cùng một điểm chung đó sao.". Tạp chí Cộng sản Điện tử. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2007. Chú thích có tham số trống không rõ: |coauthors= (trợ giúp); Không cho phép mã đánh dấu trong: |publisher= (trợ giúp); Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |accessdate= (trợ giúp)
  117. ^ Kim Nhật. “Sách báo - tài sản vô giá của Chủ tịch Hồ Chí Minh”. Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch của Trần Dân Tiên (một bút danh của Bác) cho biết: "Thường thường, ông chỉ làm việc nửa ngày; làm buổi sáng để kiếm tiền, còn buổi chiều đi đến thư viện". Báo Nghệ An điện tử. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2007. Chú thích có tham số trống không rõ: |coauthors= (trợ giúp); Không cho phép mã đánh dấu trong: |work= (trợ giúp); Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |accessdate= (trợ giúp)
  118. ^ Hà Minh Đức, Tác phẩm văn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb Khoa học Xã hội (Hà Nội, 1985), trang 132: "...Đáp lại tình cảm mong muốn của đồng bào, và của bạn bè trên thế giới, Hồ Chủ tịch với bút danh Trần Dân Tiên đã viết tác phẩm 'Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch'..."
  119. ^ Cựu đại tá Bùi Tín nói về ông Hồ Chí Minh: "Nhân dân, tờ báo của Đảng cộng sản, nói rõ là ông Hồ trong cuộc đời đã dùng đến hơn 30 bí danh khác nhau, trong đó có bí danh Trần Dân Tiên, và khẳng định rõ rằng cuốn 'Những mẩu chuyện về đời sống của chủ tịch HCM' là do chính ông Hồ viết ra."
  120. ^ Theo Lady Borton, Piece of Uncle Ho history surfaces in London (bài đăng trên thông tấn xã Việt Nam), T. Lan là một bút danh của Hồ Chí Minh
  121. ^ Sổ tay tra cứu về cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Phan Ngọc Liên chủ biên, NXB Hải Phòng, 1998, trang 142: "T. Lan, bút danh của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong các bài viết của Người, đăng rải rác trong các báo Nhân Dân từ những năm 1955 cho đến năm 1969 và quyển sách "Vừa đi đường vừa kể chuyện".
  122. ^ Những bức huyết họa về Bác Hồ kính yêu

Liên kết ngoài

Tác phẩm của Hồ Chí Minh

Viết về Hồ Chí Minh

Phim ảnh

Tiền nhiệm:
Không có
Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
28-8-1945–2-9-1969
Kế nhiệm:
Tôn Đức Thắng
Tiền nhiệm:
Không có
Thủ tướng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
28-8-1945–20-9-1955
Kế nhiệm:
Phạm Văn Đồng