Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Hoàng Trọng Phu”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 35: Dòng 35:
Ông đã đóng góp nhiều công sức phát triển các làng nghề, dân sinh xã hội của tỉnh Hà Đông. Ông đã khôi phục các làng nghề cho tỉnh Hà Đông vốn đã nổi tiếng với "the La, lụa Vạn, chồi Phùng". Ông viết cuốn Nghề truyền thống Hà Đông mô tả chi tiết các làng nghề truyền thống của tỉnh Hà Đông. Toàn tỉnh có 136 ngành nghề với những sẩn phẩm nổi tiếng trong và ngoài nước, đặc biệt là ngành tơ lụa, khảm trai, thêu ren.
Ông đã đóng góp nhiều công sức phát triển các làng nghề, dân sinh xã hội của tỉnh Hà Đông. Ông đã khôi phục các làng nghề cho tỉnh Hà Đông vốn đã nổi tiếng với "the La, lụa Vạn, chồi Phùng". Ông viết cuốn Nghề truyền thống Hà Đông mô tả chi tiết các làng nghề truyền thống của tỉnh Hà Đông. Toàn tỉnh có 136 ngành nghề với những sẩn phẩm nổi tiếng trong và ngoài nước, đặc biệt là ngành tơ lụa, khảm trai, thêu ren.


Ông thành lập Hội Tiểu canh nông công nghệ Hà Đông. Ông cử các phái đoàn mang sản phẩm thủ công (the, lụa, mây tre đan) tham dự triển lãm tại thủ đô nước Pháp.
Ông mời nghệ nhân điêu khắc gỗ Nguyễn Văn Đông ở làng Nhân Hiền, phủ Thường Tín về làm Hiệu trưởng đầu tiên của Trường Bách nghệ <ref>http://langdaninhvan.net/Nghe-nhan-tai-hoa-xu-Son-Nam-Thuong_c2_282__428.html</ref> (nơi trường Đại học Bách khoa Hà nội ngày nay), thành lập Hội Tiểu canh nông công nghệ Hà Đông. Ông cử các phái đoàn mang sản phẩm thủ công (the, lụa, mây tre đan) tham dự triển lãm tại thủ đô nước Pháp.
Ông quan tâm phát triển làng nghề lụa Vạn Phúc trở thành điểm sáng về kinh tế. Nhiều lần chính ông đã chu cấp tiền cho người Vạn Phúc mang lụa đi tham gia triển lãm ở Paris. Số người đến Vạn Phúc làm thuê ngày càng nhiều.<ref>http://daidoanket.vn/index.aspx?Menu=1371&Chitiet=43149&Style=1</ref>
Ông quan tâm phát triển làng nghề lụa Vạn Phúc trở thành điểm sáng về kinh tế. Nhiều lần chính ông đã chu cấp tiền cho người Vạn Phúc mang lụa đi tham gia triển lãm ở Paris. Số người đến Vạn Phúc làm thuê ngày càng nhiều.<ref>http://daidoanket.vn/index.aspx?Menu=1371&Chitiet=43149&Style=1</ref>



Phiên bản lúc 03:39, ngày 4 tháng 11 năm 2012

Hoàng Trọng Phu (1872 - 1946) là quan nhà Nguyễn đầu thế kỷ XX, từng giữ chức vụ Tổng đốc Hà Đông, Võ Hiển điện Đại học sĩ, hàm Thái tử Thiếu bảo, Phó Chủ tịch Hội đồng Tư vấn bản xứ Bắc kỳ.

Quê quán, gia thế

Ông quê ở làng Đông Thái (nay thuộc xã Tùng Ảnh), huyện La Sơn (nay là huyện Đức Thọ), tỉnh Hà Tĩnh trong gia đình quyền thế. Ông là con trai thứ của Khâm sai Kinh lược Bắc kỳ Hoàng Cao Khải, đại thần nhà Nguyễn thân Pháp[1]. Các anh em con cháu của ông đều làm quan nhà Nguyễn.

Anh trai là Hoàng Mạnh Trí, làm Tổng đốc Nam Định, em trai ông Cử nhân Sen Hồ là cha vợ Luật sư Vũ Văn Mẫu.

Vợ cả Hoàng Trọng Phu ở quê tên là Phú là con ông Phan Đình Vận, cháu gọi ông Phan Đình Phùng bằng bác. Vợ thứ của ông là Đỗ Thị Nhàn con gái Tổng đốc Đỗ Hữu Phương giàu nhất nhì xứ Nam Kỳ.

Con trai ông là Hoàng Gia Mô, làm Tri huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng những năm 1930. Con gái ông là Hoàng Thị Lý, có chồng là Tiến sĩ Luật Hồ Đắc Điềm.

Học tập

Ông được chính quyền thuộc địa Pháp cử sang Pháp học trường thuộc địa Pháp cùng với ông Thân Trọng Huề, ông Lê Văn Miến (họa sĩ Việt Nam đầu tiên)[2].

Sự nghiệp quan trường

Lúc mới về nước, vì có cha đang làm quan, nên ông chỉ làm thông ngôn cho vua Thành Thái ít tháng, rồi ra miền bắc làm Án sát tại Bắc Ninh năm 1897.

Tổng đốc Hà Đông

Sau đó ông kế vị cha làm Tổng đốc Hà Đông năm 1906, lúc đó Hà Đông là tỉnh lớn và quan trọng ở Bắc Kỳ kề ngay sát Hà Nội ( trong mấy chục tỉnh miền bắc triều đình đặt chức Tổng đốc ở các tỉnh Hà Đông, Nam Định, Bắc Ninh, Thái bình, Hải Dương, còn các tỉnh khác chỉ đặt chức Tuần phủ). Phạm vi của tỉnh Hà Đông bao gồm Thị xã Hà Đông, các phủ Hoài Đức,Ứng Hòa,Mỹ Đức,Thường Tín, huyện Hoàn Long. So về diện tích thì tỉnh Hà Đông rộng gấp nhiều lần thành phố Hà nội.

Thời gian ông làm Tổng đốc Hà Đông trong hơn 20 năm. Trong gia đình ông có 3 người làm Tổng đốc Hà Đông thì ông là người nổi tiếng nhất.

Bên cạnh những hoạt động đảm bảo trị an trong địa phận như những quan cai trị khác trong chế độ thuộc địa nửa phong kiến lúc đó, ông là người có tinh thần dân tộc, cùng với anh trai Hoàng Mạnh Trí (Tổng đốc Nam Định) đều âm thầm hỗ trợ Phong trào Đông Du, làm lơ cho hai trung tâm tuyển chọn người đi Đông Du ở Hà Đông và Nam Định hoạt động [3].

Ông cho trùng tu các danh thắng như chùa Trầm ở Chương Mỹ [4], chùa Bút Tháp phủ Thuận Thành tỉnh Bắc Ninh[5], mở mang xây dựng ấp Thái Hà.

Phát triển làng nghề thủ công

Ông đã đóng góp nhiều công sức phát triển các làng nghề, dân sinh xã hội của tỉnh Hà Đông. Ông đã khôi phục các làng nghề cho tỉnh Hà Đông vốn đã nổi tiếng với "the La, lụa Vạn, chồi Phùng". Ông viết cuốn Nghề truyền thống Hà Đông mô tả chi tiết các làng nghề truyền thống của tỉnh Hà Đông. Toàn tỉnh có 136 ngành nghề với những sẩn phẩm nổi tiếng trong và ngoài nước, đặc biệt là ngành tơ lụa, khảm trai, thêu ren.

Ông mời nghệ nhân điêu khắc gỗ Nguyễn Văn Đông ở làng Nhân Hiền, phủ Thường Tín về làm Hiệu trưởng đầu tiên của Trường Bách nghệ [6] (nơi trường Đại học Bách khoa Hà nội ngày nay), thành lập Hội Tiểu canh nông công nghệ Hà Đông. Ông cử các phái đoàn mang sản phẩm thủ công (the, lụa, mây tre đan) tham dự triển lãm tại thủ đô nước Pháp. Ông quan tâm phát triển làng nghề lụa Vạn Phúc trở thành điểm sáng về kinh tế. Nhiều lần chính ông đã chu cấp tiền cho người Vạn Phúc mang lụa đi tham gia triển lãm ở Paris. Số người đến Vạn Phúc làm thuê ngày càng nhiều.[7]

Ông chọn các nghệ nhân đưa sang Trung quốc học nghề lụa tơ tằm, sang Nhật học sơn mài, rồi cả nghề mộc nghề bạc, mở cả bảo tàng mỹ nghệ cho các nghệ nhân La Cả, La Khê.

Về sau vì muốn có người nhà tiếp tục phát triển các ngành nghề thủ công tại Hà Đông nên ông đã đề nghị với triều đình Huế đưa con rể là Hồ Đắc Điềm lúc đó đang là Án sát tỉnh Bắc Ninh về làm Tổng đốc vào năm 1941[8].

Lập ấp Hà Đông tại Đà Lạt

Năm 1937 khi ông Trần Văn Lý, Quản đạo Đà Lạt đề xuất di dân lập ấp tại Đà Lạt, ông đồng ý với việc trên và giao cho Thương tá canh nông Hà Đông Lê Văn Định (sau này ông Định giữ chức Chánh án Tòa án hỗn hợp Đà Lạt) thực hiện. Năm 1938 nhóm cư dân gốc Hà Đông đầu tiên gồm 35 người thuộc các làng chuyên trồng hoa Tây Tựu, Quảng Bá, Nghi Tàm, Ngọc Hà, Xuân Tảo, Vạn Phúc ven Hồ Tây được đưa lên tàu hỏa vào Đà lạt. Nhóm cư dân này hầu hết là những nông dân khỏe mạnh, quen nghề làm vườn, được huấn luyện thêm phương thức canh tác của châu Âu, được hỗ trợ vay tiền của Quỹ tương trợ. Ấp được đặt tên là Hà Đông để tưởng nhớ quê cũ.[9]

Diện tích đất khai phá ban đầu ở Ấp Hà Đông chỉ từ vài chục ha lên hàng trăm ha, bà con vừa xây dựng nhà cửa vừa trồng trọt các loại rau hoa mang từ Hà Nội vào. Từ năm 1941, ấp Hà Đông bắt đầu làm ăn phát đạt nhờ nghề trồng hoa và rau cải nầy. Cuối năm 1941, có tất cả 28 gia đình ở ấp Hà Đông, tổng số 100 nhân khẩu. Việc thành lập ấp Hà Đông tạo tiền đề cho hoạt động sản xuất trồng rau và hoa của Đà Lạt sau này [10].

Năm 1937 ông từ nhiệm Tổng đốc Hà Đông, người kế nhiệm là ông Vi Văn Định nguyên Tổng đốc Thái Bình.

Tham gia hoạt động xã hội

Ông cổ súy phong trào chấn hưng Phật giáo tại Bắc kỳ những năm 1930. Tháng 11 năm 1934 tạp chí Đuốc Tuệ của Phật giáo Bắc Kỳ ấn bản do ông và ông Nguyễn Năng Quốc đứng đầu.

Ông còn tham gia các hoạt động chính trị xã hội khác như thành viên Hội đồng quản lý Hội Khai trí Tiến đức, Chủ tịch Ủy ban tương tế xã hội trung ương Bắc Kỳ, Phó chủ tịch Hội đồng Tư vấn bản xứ Bắc Kỳ. Do có nhiều công lao với Nam triều, ông được phong Đại học sĩ Võ hiển điện, hàm Thái tử Thiếu bảo, nên được gọi là cụ Thiếu Hà Đông.

Hưu trí

Năm 1937 ông về nghỉ hưu tại ấp Thái Hà, huyện Hoàn Long, tỉnh Hà Đông hay còn gọi là Ấp Hoàng Cao Khải và mất tại đây vào năm 1946, thọ 74 tuổi.

Mộ của ông và cha ông nằm trong khu quần thể Ấp Hoàng Cao Khải được xem là khu di tích lăng mộ độc đáo nhất Hà Nội. [11]

Liên kết ngoài