Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nguyễn Thái Học”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Linhbach (thảo luận | đóng góp)
Linhbach (thảo luận | đóng góp)
Dòng 47: Dòng 47:
:"Mourir pour sa patrie,
:"Mourir pour sa patrie,
:"C'est le sort le plus beau
:"C'est le sort le plus beau
:"Le plus digne d'envie..
:"Le plus digne... d'envie...


Dịch nghĩa

Chết vì tổ quốc,
Cái chết vinh quang,
Lòng ta sung sướng
Trí ta nhẹ nhàng


== Các tác phẩm: ==
== Các tác phẩm: ==

Phiên bản lúc 10:08, ngày 25 tháng 11 năm 2007

Nguyễn Thái Học (chữ Hán: 阮太學; 1 tháng 12, 1902 – 17 tháng 6, 1930) là một nhà cách mạng Việt Nam chủ trương dùng võ lực lật đổ chính quyền trong phong trào chống Pháp. Ông là người sáng lập Việt Nam Quốc dân đảng và là người lãnh đạo cuộc Khởi nghĩa Yên Bái. Công việc bất thành, ông bị người Pháp bắt và xử tử năm 1930 tại Yên Bái cùng các đồng chí.

Thân thế

Nguyễn Thái Học sinh ngày 1 tháng 12 năm Quý Mão (1902) tại làng Thổ Tang, tổng Lương Điền, phủ Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên (nay là xã Thổ Tang, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc). Ông là con cả của cụ Nguyễn Văn Hách và bà Nguyễn Thị Quỳnh. Gia đình ông là một gia đình trung nông sống bằng nghề làm ruộng và dệt vải, buôn vải. Từ 4 tuổi ông đã được cha mẹ cho đi học chữ Hán, và năm 11 tuổi ông bắt đầu theo học chương trình tiểu học Pháp-Việt tại thị xã Vĩnh Yên. [1]

Năm 19 tuổi ông thi đậu vào trường Cao đẳng Sư phạm Hà Nội, và nhận học bổng của Chính phủ Bảo hộ Pháp. Do tính tình cương trực và không thích khuất phục lối giáo dục của người Pháp, ông bỏ học năm thứ ba, và sau đó ghi danh học trường Cao đẳng Thương mại thuộc Đại học Đông Dương (1925-1927). Trong thời gian nầy, ông tham gia thành lập Nam Đồng Thư Xã, và tiếp xúc với một số sinh viên đồng chí hướng, trong số đó có Phó Đức Chính, sinh viên trường Cao đẳng Công chánh và Hồ Văn Mịch, sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm, hai nhà cách mạng tương lai sẽ gắn liền với cuộc đời cách mạng của ông sau nầy. [2]

Cũng trong thời gian là sinh viên của Đại học Đông Dương, Nguyễn Thái Học đã gửi cho Toàn quyền Đông Dương Alexandre Varrenne một số bức thư kêu gọi chính quyền thực dân Pháp tiến hành một loạt cải cách tiến bộ ở Việt Nam. Sở dĩ Nguyễn Thái Học gửi những đề xuất cải cách của mình cho Varrenne vì ông ta vốn là một đảng viên của Đảng Xã hội Pháp, người vừa mới tới nhậm chức toàn quyền đã quyết định ân xá Phan Bội Châu và hứa hẹn nhiều cải cách rộng lớn ở xứ thuộc địa Đông Dương. Tuy nhiên, đó chỉ là những lời hứa suông, và ông ta không bao giờ quan tâm, trả lời những bức thư đầy tâm huyết của Nguyễn Thái Học.

Hoàn toàn thất vọng về con đường cải cách, Nguyễn Thái Học và các đồng chí của ông đi đến quyết định là: con đường duy nhất để mở ra cơ hội phát triển cho dân tộc Việt Nam chỉ có thể là con đường dùng vũ trang lật đổ chế độ thực dân Pháp.

Hoạt động cách mạng

Thành lập Việt Nam Quốc Dân Đảng

Năm 1927, tổ chức Nam Đồng Thư Xã quyết định ủng hộ cuộc khởi nghĩa Bắc Ninh do Quản Trạc lãnh đạo. Công việc bị bại lộ, đa số thành viên của Nam Đồng Thư Xã bị thuyên chuyển hoặc bị truy lùng phải đào tẩu, chỉ còn lại Nguyễn Thái Học và một số ít đồng chí. Tháng 10 năm này, ông triệu tập số người còn lại và đưa ra ý định thành lập một đảng cách mạng bí mật, dùng võ lực lật đổ thực dân Pháp. Đảng này mang tên Việt Nam Quốc Dân Đảng (VNQDĐ), và chi bộ đảng đầu tiên mang tên là "Chi Bộ Nam Đồng Thư Xã", do ông làm chi bộ trưởng, gồm các ủy viên: Hồ Văn Mịch, Phó Đức Chính, Lê Văn Phúc, Hoàng Văn Tùng, Hoàng Phạm Trân, và một số đồng chí khác. [3] Tháng 12 năm 1927, VNQDĐ tổ chức đại hội đảng lần thứ nhất và bầu ông làm Chủ tịch Tổng bộ đảng, kiêm Chủ tịch đảng. Dưới sự lãnh đạo của ông, VNQDĐ bắt đầu phát triển rất nhanh chóng để kết nạp tầng lớp trí thức, giáo viên, nông dân, công chức, binh sĩ trong guồng máy cai trị với mục đích dùng bạo động lật đổ chính quyền thực dân Pháp, thành lập một chế độ cộng hòa dân chủ độc lập trên toàn cõi Việt Nam. Đến đầu năm 1929, VNQDĐ đã thành lập được 120 chi bộ tại Bắc kỳ với 1500 đảng viên. [4]

Ám sát Bazin

Năm 1929, tại Bắc kỳ và Bắc Trung kỳ có cao trào mộ phu, đưa dân đi làm phu cho các đồn điền cao su tại các nơi như miền Nam, Miên, Lào, Nouvelle-CalédonieNouvelles-Hébrides, nơi những người phu này trở thành nô lệ cho các chủ đồn điền. Một trong những người mua nô lệ nổi tiếng sát máu là Bazin tại Hà Nội, chuyên dụ dỗ hay bắt cóc dân đem làm phu lấy lợi. Thành bộ VNQDĐ xử tử người này tháng 2 năm 1929 tại Chợ Hôm, Hà Nội. Sau vụ ám sát này người Pháp khủng bố gay gắt. Sở mật thám Bắc Việt được một nội ứng phản đảng tên Bùi Tiên Mai chỉ điểm, và bắt giam 227 đảng viên VNQDĐ, nhưng không bắt được hai lãnh tụ đảng lúc đó là Nguyễn Thái Học và Nguyễn Khắc Nhu, chủ tịch Ban Hành pháp VNQDĐ nhiệm kỳ 3.

Để xử các tù nhân chính trị nầy, Toàn quyền Pháp Pasquier quyết định không giao cho Biện lý cuộc, nhưng ký nghị định thành lập một Hội đồng Đề hình (Commission criminelle) để tuyên án và xử tội. Hội đồng này trả tự do cho 149 người và kết án 78 người từ 2 đến 15 năm tù tại các tỉnh thượng du Bắc Việt hoặc lưu đày ra Côn Đảo, và mỗi người bị cộng thêm một án 5 năm biệt xứ (interdiction de séjour). [5]

Các thất bại liên tục

Sau khi Bùi Tiên Mai nhận diện và đối chứng với những đồng chí tại các phiên tòa Hội đồng Đề hình, ban ám sát VNQDĐ tổ chức giết người nầy vì tội phản đảng và quên lời thề trước bàn thờ tổ quốc. Trên đường hành thích, sự việc bị đổ bể và một đảng viên bị chết, một bị tù cấm cố 10 năm. Hai đảng viên khác, Nguyễn Văn Kinh và Nguyễn Văn Ngọc, khi bị bắt do mật thám tra tấn dã man đã khai báo và chỉ điểm cho Pháp mọi đường đi nước bước của các yếu nhân lãnh đạo của VNQDĐ. Ban ám sát VNQDĐ cũng tổ chức giết hai người này, tuy thành công nhưng thêm một số đảng viên bị bắt và hành hình qua các vụ ám sát này. [6]

Khởi nghĩa Yên Bái

Trước tình thế hàng ngũ đảng có nhiều phản bội, thực dân áp bức gay gắt có chiều hướng đưa đến tan rã, trung tuần tháng 5 năm 1929, Nguyễn Thái Học triệu tập đại hội đảng toàn quốc tại làng Đức Hiệp, phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, quyết định chuẩn bị tổng khởi nghĩa. Công việc chuẩn bị chưa hoàn tất, cuối năm 1929 tại Bắc Giang một cơ sở chế bom bị tai nạn phát nổ, và đầu năm 1930 người Pháp bắt giữ và khám phá được thêm rất nhiều cơ sở chế tạo bom, đao, kiếm và nhiều đảng viên bị bắt. Trước tình hình nguy cấp, Nguyễn Thái Học triệu tập hội nghị khẩn cấp, quyết định tiến hành khởi nghĩa tại các địa điểm Hưng Hóa, Lâm Thao, Phú Thọ, Yên Bái, Sơn Tây, Hải Dương, Hải Phòng, Kiến An, Bắc Ninh, Đáp Cầu, Phả LạiHà Nội vào đêm mồng 10, rạng ngày 11 tháng 2 năm 1930.

Theo kế hoạch ban đầu cuộc khởi nghĩa vũ trang sẽ nổ ra trên hai địa bàn chính ở Bắc Kỳ vào đêm ngày 9 tháng 2 năm 1930. Nguyễn Thái Học sẽ lãnh đạo cuộc khởi nghĩa ở miền xuôi, trong khi Nguyễn Khắc Nhu và Phó Đức Chính được phân công chỉ huy cuộc nổi dậy ở miền núi. Gần tới ngày nổi dậy, do cơ sở ở miền xuôi tương đối yếu lại bị đánh phá nặng nề nên không chuẩn bị kịp, Nguyễn Thái Học cử người báo cho Nguyễn Khắc Nhu hoãn cuộc nổi dậy tới ngày 15 tháng 2. Tuy nhiên, liên lạc viên lại bị địch bắt giữa đường. Vì vậy, cuộc khởi nghĩa vẫn nổ ra ở một loạt các địa điểm từ Sơn Tây, Phú Thọ cho tới Yên Bái vào đêm ngày 9, rạng sáng ngày 10 tháng 2. Tuy xảy ra nhiều nơi khác nhau, nhưng sau này các sách lịch sử thường gọi chung là cuộc Khởi nghĩa Yên Bái. Quyết liệt nhất là cuộc khởi nghĩa ở Yên Bái. Quân nổi dậy đã chiếm được một phần đồn binh Pháp và làm chủ tỉnh lỵ Yên Bái trong gần hai ngày. Ngày 15 tháng 2 năm 1930, mặc dù cuộc khởi nghĩa ở miền núi đã thất bại, Nguyễn Thái Học và cơ sở Việt Nam Quốc Dân Đảng vẫn quyết định khởi nghĩa ở miền xuôi như kế hoạch cũ. Cuộc vùng lên quyết liệt nhất là ở Phụ Dực (Thái Bình) và Vĩnh Bảo (lúc đó thuộc Hải Dương).

Sự việc không thành, ngày 20 tháng 2 năm 1930, Nguyễn Thái Học bị bắt tại ấp Cổ Vịt (Chí Linh, Hải Dương).

Đền nợ nước

Pháp lại thành lập một Hội đồng Đề hình để xử các nghĩa quân VNQDĐ. Rất nhiều đảng viên VNQDĐ bị chung thân khổ sai, số còn lại bị hành hình như sau:

Sau khi hành quyết tại nghĩa quân tại Yên Bái, Pháp cho chôn chung một mộ tại thị xã Yên Bái, cách ga xe lửa độ một cây số, và cho lính canh giữ đến cuối năm 1930. Năm 1945, quân VNQDĐ chiếm đóng Yên Bái, cho trùng tu mộ phần cả 17 vị anh hùng bị chém tại đây và lập đền thờ kỷ niệm. [7] Khu mộ này sau được nhà nước Việt Nam trùng tu và xếp hạng di tích lịch sử văn hóa.

Câu nói nổi tiếng

Không thành công cũng thành nhân

Khi thụ án, ông có đọc trích đoạn một bài thơ

"Mourir pour sa patrie,
"C'est le sort le plus beau
"Le plus digne... d'envie...

Dịch nghĩa

Chết vì tổ quốc, Cái chết vinh quang, Lòng ta sung sướng Trí ta nhẹ nhàng

Các tác phẩm:

- Đảng cương Việt Nam Quốc dân đảng - Thử gửi Toàn quyền Đông Dương - Thư gửi Hạ nghị viện Pháp

Văn tế Nguyễn Thái Học

Sau khi ông mất, sinh viên học sinh Huế tổ chức lễ truy điệu và đọc bài Văn tế các Tiên-liệt Việt Nam Quốc Dân Đảng sau đây do cụ Phan Bội Châu trước tác.

Gươm ba thước chọc trời kinh, chớp cháy, nầy Lâm Thao, nầy Yên Bái, nầy Vĩnh Bảo, khí phục thù hơi thở một tầng mây!
Súng liên thanh vang đất thụt, non reo, nào chủ đồn, nào xếp cẩm, nào quan binh, ma hút máu người bay theo ngọn gió.
Trách nông nỗi trời còn xoay tít, trước cờ binh sao quay gió cản ngăn;
Tiếc sự cơ ai quá lờ mờ, dưới trướng giặc bấy nhiêu tay len lỏi.
Ma cường quyền đắc thế sinh hùng uy,
Thần công lý bó tay nghe tử tội.
Ôi thôi, mù thảm mây sầu,
Gió cuồng mưa vội;
Cửa quỷ thênh thang!
Đường trời vòi vọi!
Nhân dân chí sĩ, sát thân vào luật dã man;
Nữ kiệt anh hùng, thất thế đang hồi đen rủi. [8]
Trường tuyên án chị chị anh anh cười tủm tỉm, tức nỗi xuất sư vị tiệp, [9]
vai bể non gánh nặng hãy trìu trìu,
Đoạn đầu đài sau sau trước bước ung dung, gớm gan thị tử như quy, [10]
mặc cây cỏ máu tươi thêm chói chói.
Tuy kim cổ hữu hình thì hữu hoại, sóng Bạch Đằng, mây Tam Đảo, hơi sầu cuộn cuộn bóng rồng thiêng đành ông HỌC xa xuôi,
Nhưng sơn hà còn phách ắt còn linh, voi nàng Triệu, ngựa nàng Trưng, hình hạc gió, hãy cô GIANG theo đuổi.
Đoàn trẻ chúng tôi nay:
Tiếc nước còn đau,
Nghĩ mình càng tủi!
Nghĩa lớn khôn quên,
Đường xa dặm mỏi!
Giây nô lệ quyết rày mai cắt đứt, anh linh thời ủng hộ, mở rộng đường công nhẩy, bằng bay;
Bể lao lung đua thế giới vẫy vùng, nhân đạo muốn hoàn toàn, phải gắng sức rồng dành, cọp chọi,
Đông đủ người năm bộ lớn, đốt hương nồng, pha máu nóng, hồn thiên thu như sống như còn,
Ước ao trong bấy nhiêu niên, rung chông bạc, múa cờ vàng, tiếng vạn tuế càng hô càng trỗi.
Tình khôn xiết nói,
Hồn xin chứng cho,
Thượng hưởng!

Sào Nam Phan Bội Châu, (1932)


Hai bức thư lịch sử

Gửi ông Toàn quyền Đông Dương ở Hà Nội

Ngày… tháng 3 năm 1930.

Ông Toàn quyền,

Tôi Nguyễn Thái Học kí tên dưới đây, chủ tịch đảng Cách mệnh Việt Nam Quốc Dân Đảng, hiện bị giam ở ngục Yên Bái, trân trọng nói ông rõ rằng:

Hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp, tôi thực có trách nhiệm về tất cả mọi việc chánh biến phát sinh ở trong nước, do Đảng tôi chỉ huy từ 1927 đến nay, vì tôi là chủ tịch của Đảng, và là người sáng lập nữa. Vậy xin ông giết một mình tôi chứ đừng giết các người đảng viên hay gọi là đảng viên hiện bị giam ở các ngục, bởi vì họ vô tội! Người ta vô tội vì trong số đó thì một phần là các đảng viên, nhưng họ vào đảng là vì tôi khuyến khích họ, cho họ biết thế nào là nghĩa vụ một người dân đối với quốc gia, thế nào là những nỗi khổ nhục của một tên dân mất nước; còn ngoài ra thì là những người bị vu cáo bởi bọn thù hằn, bởi lũ mật thám, bởi những bạn bè bán mình cho Chính phủ Đông Dương! Tôi nhắc lại một lần nữa để ông biết rằng chỉ cần giết một mình tôi, vì tôi mới chính là thủ phạm. Mà nếu còn chưa đủ hả, thì xin chu di cả nhà tôi, nhưng tôi đem nước mắt mà tha cho những người khác! Sau nữa tôi mong ông nghĩ đến danh dự của nước Pháp, đến công lý, đến nhân đạo mà thôi, đừng ra lện ném bom hay đốt phá những làng vô tội như ông vừa mới làm! Đó là một lệnh giết người. Những đồng bào của tôi sẽ vì thế mà chết đói, chết rét mấy vạn mà kể!

Sau cùng kết luận bức thư, tôi nói cho ông biết rằng: nếu người Pháp muốn ở yên ở Đông Dương mà không phải khốn đốn vì phong trào cách mạng thì:

1) Phải thay đổi các chương trình chính trị hung tàn và vô đạo hiện hành ở Đông Dương. 2) Phải cư xử cho ra vẻ người bạn dân Việt Nam, chứ đừng có lên bộ ông chủ bạo ngược và áp chế. 3) Phải để lòng giúp đỡ những nỗi đau khổ về tinh thần, về vật chất của người Việt Nam, bằng cách trả lại các nhân quyền như tự do du lịch, tự do học hành, tự do hội họp, tự do ngôn luận; đừng có dung túng bọn tham quan, ô lại, và các phong tục hủ bại ở các hương thôn; mở mang nền công, thương bản xứ, cho nhân dân được học tập những môn cần thiết.

Ông Toàn quyền, hãy nhận lấy tấm lòng tôn kính và cảm kích, với sự nhiệt liệt tạ ơn.

Kẻ thù của ông:

Nhà Cách mạng NGUYỄN THÁI HỌC.

Bức thư gửi cho Hạ nghị viện Pháp

Các ông Nghị viên!

Tôi kí tên dưới đây là Nguyễn Thái Học, người Việt Nam, 29 tuổi, chủ tịch và sáng lập viên của Việt Nam Quốc Dân Đảng, hiện bị bắt và giam ở ngục Yên Bái, Bắc Kỳ, Đông Dương, trân trọng bày tỏ như sau:

Theo công lí, ai cũng có quyền bênh vực tổ quốc mình khi bị các nước khác xâm lược, và theo nhân đaọ ai cũng có nghĩa vụ phải cứu vãn đồng bào ở trong vòng nguy hiểm, khó khăn. Như tôi thấy rằng Tổ Quốc tôi bị người Pháp các ông chiếm lĩnh hơn sáu mươi năm nay; tôi thấy rằng, dưới ách chuyên chế của các ông, đồng bào tôi khốn khổ vô cùng, và dân tộc tôi dần dần sẽ tiêu diệt hoàn toàn, theo luật tự nhiên đào thải. Bởi vậy, quyền lợi và nghĩa vụ đã thúc giục tôi phải tìm hết cách để bênh vực Tổ Quốc tôi đương bị người chiếm lĩnh, và dân tộc tôi đương bị cảnh gian nguy. Trước hết, tôi định cùng với các người Pháp ở Đông Dương mà làm việc cho đồng bào, Tổ Quốc và dân tộc tôi, nhất là việc mở mang trí thức và kinh tế. Về phương diện kinh tế, năm 1925, tôi đã gửi cho viên toàn quyền Varen một bức thư, gồm có những nguyện vọng xin bênh vực che chở cho nền công, thương bản xứ và nhất là lập một trường Cao đắng Công Nghệ Bắc Kỳ. Năm 1926, tôi lại gửi một bức thư nữa cho tên toàn quyền Đông Dương, trong có một dự án giúp cho dân nghèo có thể dễ sống. Năm 1927, tôi lại gửi cho Thống sứ Bắc Kỳ một bức thư, xin ra một tập Tuần báo, mục đích là bênh vực và khuyến khích cho nền công thương bản xứ. Về phương diện trí thức, năm 1925, tôi gửi thư cho toàn quyền Đông Dương, yêu cầu:

1) Quyền tự do mở các trường dạy không lấy tiền cho dân hạ cấp đến học, nhất là cho thợ thuyền và nông dân. 2) Quyền tự do mở các bình dân thư xã ở các làng cùng ở các tỉnh công nghệ.

Khốn nỗi cái gì họ cũng cự tuyệt! Thư tôi chẳng thấy trả lời; dự án của tôi chẳng thấy thực hiện; các lời yêu cầu của tôi chẳng thấy ưng chuẩn, mà đến các bài tôi viết lên báo cũng bị kiểm duyệt xóa bỏ nốt! Cứ những chuyện cự tuyệt đó, tôi thấy rõ ràng rằng: người Pháp không hề có thực lòng với người Việt, và tôi chẳng giúp ích gì Tổ Quốc tôi, đồng bào tôi, dân tộc tôi cả, trừ khi là đuổi người Pháp ra khỏi đất nước tôi! Bởi vậy, năm 1927, tôi bắt đầu tổ chức một đảng cách mạng lấy tên là Việt Nam Quốc Dân đảng, mục đích là để đánh đổ chế độ cường quyền áp bức ra khỏi nước tôi, và lập nên Chính phủ Cộng hòa Việt Nam, gồm những người thực lòng tha thiết đến hạnh phúc của quần chúng. Đảng tôi tổ chức bí mật, và đến tháng 2 năm 1929 thì bọn mật thám khám phá. Trong các đảng viên đảng tôi, bị bắt một số khá lớn, và bị xử cầm cố tù từ 2 đến 20 năm, tất cả 52 người. Bị bắt nhiểu, bị xử ức mặc dầu, Đảng tôi đâu có chịu hoàn toàn tiêu diệt! Dưới quyền tôi chỉ huy, Đảng vẫn hoạt động và đi đến mục đích. Ở Bắc Kỳ nổi lên một phong trào cách mạng; nhất là ở Yên Bái, đã giết chết được mấy sĩ quan. Tổ chức và cầm đầu cho phong trào đó, người ta buộc tội cho Đảng tôi, lấy cớ rằng chính tôi là chủ tịch của Đảng đã hạ lệnh đánh. Kỳ thực là tôi chưa hề hạ lệnh ấy, và đã đem những chứng cớ đích xác, để chứng tỏ rằng không, với Hội đồng Đề Hình Yên Bái. Vậy mà, một số đảng viên hoàn toàn không biết đến phong trào ấy cũng bị bắt và bị buộc là có tham dự vào công việc! Chính phủ Đông Pháp đã đốt phá nhà họ, rồi tịch thu gạo thóc của họ mà chia phần với nhau! Chẳng những đảng viên đảng tôi , phải cam chịu nỗi bất bình ,– mà gọi là tàn bạo tưởng đúng hơn! – mà còn phần đông đồng bào, hiền lành làm lụng ở nhà quê, để sống cái đời ngựa trâu, cũng chịu hại lây nữa! Hiện nay trong các miền Kiến An, Hải Phòng, Bắc Ninh, Sơn Tây, Phú Thọ, Yên Bái, có hàng vạn người đàn ông, đàn bà, ông già, con trẻ, vô tội mà bị giết! Hoặc bởi chết đói, chết rét, vì Chính phủ Đông Pháp đã đốt mất nhà! Vậy tôi trân trọng lấy nước mắt, nhờ các ông làm cho tỏ rõ nỗi bất bình ấy, là cái nó làm cho dân tộc tôi sẽ hoàn toàn tiêu diệt, là cái nó làm cho mất hết danh dự nước Pháp, là cái nó làm cho giảm cả giá trị của loài người!

Sau nữa, tôi trân trọng bảo cho các ông biết: tôi xin chịu trách nhiệm về tất cả mọi việc chính biến phát sinh trong nước tôi và chỉ huy bởi Đảng tôi, từ năm 1927 đến giờ. Vậy chỉ cần giết một mình tôi là đủ mà đừng làm tội những người khác hiện nay đương bị gian ở các cửa ngục. Vì chỉ có mình tôi là thủ phạm thôi, còn những người khác đều vô tội cả. Họ vô tội, vì trong số đó chỉ một phần là những đảng viên, nhưng sở dĩ vào đảng là họ nghe lời tôi khuyến khích cho họ biết: thế nào là nghĩa vụ một người dân đối với Nước; thế nào là những nỗi khổ nhục của một tên vong quốc nô! Còn ngoài ra thì là những người không phải đảng viên, nhưng bị kẻ thù và bọn mật thám đặt điều vu cáo, hay vu cáo bởi những bạn hữu không chịu nổi những cảnh tra tấn Công an cục (sở Mật thám), và khai bừa ra cho đỡ phải đòn! Tôi nhắc lại một lần nữa để các ông biết rằng chỉ cần phải giết một mình tôi, nhưng xin các ông tha cho những người vô tội như trên đã nói.

Sau cùng, tôi kết luận bức thư này mà nói cho các ông biết rằng: Nếu người Pháp muốn ở yên ở Đông Dương, mà không phải khốn đốn vì phong trào cách mạng thì phải thay đổi cái chương trình chính trị hung tàn và vô đạo hiện hành ở Đông Dương: phải cư xử cho ra vẻ những người bạn của giống Việt Nam chứ đừng có lên bộ là những ông chủ bạo ngược và áp chế; phải để lòng giúp đỡ cho những đau khổ về tinh thần, về vật chất của người Việt Nam, chứ đừng có khắt khe, thâm độc nữa!

Các ông Nghị!

Hãy nhận lấy tấm lòng tôi chân trọng cảm ơn! Nguyễn Thái Học

Xem thêm

Chú thích

  1. ^ Việt Nam Quốc-Dân-Đảng: Lịch sử đấu tranh cận đại 1927-1954, Hoàng Văn Đào (HVĐ), NXB Tân Dân, Sài Gòn, 1970, Thiên Phụ, chương I, trang 493
  2. ^ HVĐ, sđd, Thiên thứ nhất, 1927-1932, chương II, trang 26
  3. ^ HVĐ, sđd, Thiên thứ nhất, 1927-1932, chương II, trang 28
  4. ^ Việt Nam Thời Pháp Đô-Hộ, GS TS Nguyễn Thế-Anh, Tủ Sách Sử-Địa Học, NXB Lửa Thiêng, Sài Gòn, 1970, trang 329
  5. ^ HVĐ, sđd, Thiên thứ nhất, 1927-1932, chương IV, trang 61-62, 69-70
  6. ^ HVĐ, sđd, Thiên thứ nhất, 1927-1932, chương V, trang 82-87
  7. ^ HVĐ, sđd, Thiên thứ nhất, 1927-1932, chương IX, trang 164
  8. ^ ý khóc cô Giang, vị hôn thê của Nguyễn Thái Học, cùng là đồng chí và đảng viên, đã tuẫn tiết sau khi thấy ông bị hành hình
  9. ^ Đỗ Phủ điếu tang Gia Cát Lượng có câu: "Xuất sư vị tiệp thân tiên tử, Trường sử anh hùng lệ mãn khâm", tạm dịch: Ra quân chưa kịp chiến thắng thân đã khuất, mãi khiến những ai giống như ông cũng phải chạnh lòng nước mắt đẫm đầy vạt áo.
  10. ^ thị tử như quy: xem cái chết như chỗ đi về

Liên kết ngoài