Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lê Tranh (Phúc vương)”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
n using AWB
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
n →‎Chú thích: clean up, replaced: {{reflist}} → {{Tham khảo}} using AWB
Dòng 94: Dòng 94:
*[[Trúc Khê]], "Thăm mộ nhà thơ Phúc Vương Tranh", in trong ''Tuyển tập Trúc Khê Ngô Văn Triện''. Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, 2003.
*[[Trúc Khê]], "Thăm mộ nhà thơ Phúc Vương Tranh", in trong ''Tuyển tập Trúc Khê Ngô Văn Triện''. Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, 2003.
== Chú thích ==
== Chú thích ==
{{reflist}}
{{Tham khảo}}


[[Thể loại:Hoàng tử Việt Nam]]
[[Thể loại:Hoàng tử Việt Nam]]

Phiên bản lúc 15:12, ngày 31 tháng 12 năm 2012

Phúc Vương
Tôn thất Hoàng gia Việt Nam
Phúc Vương
Tại vị14711500
Thông tin chung
Sinh1467
Thăng Long
Mất1500
Việt Nam
Phối ngẫuTrịnh (Thị) Thục Tuân
Lưu (Thị) Châu Hạp
Tên thật
Lê Tranh
Thụy hiệu
Ý Khang
Triều đạiNhà Hậu Lê
Thân phụLê Thánh Tông
Thân mẫuNguyễn Tài nhân

Phúc Vương Lê Tranh (1467-1500), là Hoàng tử và là nhà thơ Việt Nam thời nhà Lê sơ.

Tiểu sử

Ông là người họ Lê, tên tục là Tranh, sinh ngày 27 tháng 3 (âm lịch) năm Đinh Hợi (1467) tại kinh đô Thăng Long. Ông là con thứ 6 của vua Lê Thánh Tông và Tài nhân họ Nguyễn.

Năm Hồng Đức thứ 2 (1471), nhà vua sai đại thần Lê Huy Cát mang sách vàng và ấn báu phong Hoàng tử Tranh làm Phúc Vương, cho lập phủ ở phường Đông Tác, huyện Vĩnh Xương thuộc Thăng Long.

Tháng 12 (âm lịch) năm 1486, Phúc Vương Tranh cưới bà Thục Tuân, con gái Thượng thư bộ Binh Trịnh Văn Lượng về làm vợ. Năm 1448, bà phi ấy mất, Phúc Vương Tranh ở vậy cho tới năm 1494, mới cưới người vợ thứ hai là bà Châu Hạp, con gái quan Mậu ân sứ Lưu Cảnh Đức.

Tháng 8 (âm lịch) năm 1500, đời vua Lê Hiến Tông, Phúc Vương Tranh mắc bệnh nặng. Sau khi dặn bảo người trong phủ là "việc tang phải tiết kiệm, không làm lễ Phật và chỉ theo lễ cổ", thì ông mất, hưởng dương 33 tuổi. Thương tiếc ông, nhà vua cho bãi triều ba ngày, ban cho tiền làm lễ táng, và ban cho tên thụy là Ý Khang.

Theo Lê Quý Đôn, "...tính Phúc Vương giản dị, thanh đạm, ôn hòa, đứng đắn, thực thà, ít nói, luôn giữ mình theo lễ nghĩa phép tắc, ham mê sách vở (thích nhất là Kinh Dịch, cũng hiểu được ý nghĩa lớn của sách), giỏi viết chữ thảo, rất hay thơ, phong cách thơ thanh cao hùng tráng, đã từng được vua Lê Thánh Tông đặc biệt khen ngợi, coi trọng. Người đương thời thường sánh ông với Đông Bình và Hà Gian đời xưa" [1].

Khu đền mộ

Sau khi Phúc Vương Tranh mất, tháng 10 (âm lịch) năm đó (1500), người thân đưa ông về an táng tại cánh đồng Hạnh Hoa Khê (tục gọi là xứ Mả Bia) thuộc Tây Mỗ (nay thuộc huyện Từ Liêm, Hà Nội), là quê mẹ của Phúc Vương Tranh. Năm 1944, nhà văn Trúc Khê có tới thăm mộ Phúc Vương Tranh, thì thấy đó là một nấm đất rộng, trên phủ cỏ, ước chừng ba bốn mét đường kính. Ở đầu mộ có dựng một tấm bia đứng trên lưng rùa (lớn bằng tấm bia lớn ở Văn Miếu Hà Nội), mặt chính hướng về hướng Nam, nhưng vì trải nhiều năm tháng nên đã mòn hết chữ. Cách mộ chừng trăm bước là ngôi đền nhỏ hẹp, sự phụng tự bên trong cũng khá thanh giản. Ngoài ra, trong đền còn có tấm bia ghi sự dựng đền và tu sửa đền [2].

Thơ Phúc Vương Tranh

Thơ văn của Phúc Vương Tranh đã thất lạc hết, hiện chỉ còn lại hai bài thơ chữ Hán được chép trong Hoàng Việt thi tuyển do Bùi Huy Bích biên soạn. Đó là bài Phụng họa Ngự chế Thiên vực giang hiểu phát (làm theo thể thất ngôn bát cú), và bài Xuân tảo (làm theo thể thất ngôn tứ tuyệt). Theo nhà văn Trúc Khê, thì "cứ xem hai bài ấy cũng đủ biết Vương là một nhà thơ rất lỗi lạc" [3].

Phiên âm Hán-Việt:
Phụng họa Ngự chế Thiên vực giang hiểu phát
Hành sắc du du thự sắc nùng,
Hoa khai như hải độ đầu hồng.
Sơn phì thủy tú xuân dung lý,
Ngư dược diên phi thánh hóa trung.
Kha hạm hiểu xung thiêng chướng vụ,
Tinh kỳ tình động nhất thiên phong.
Tiểu thần hạnh đắc bồi thanh tất,
Khoái đổ minh thời chí trị công.
Trúc Khê dịch thơ:
Phụng họa bài thơ ngự chế: Buổi sớm từ sông Thiên Vực ra đi
Đường xa bóng sớm còn dầy,
Trăm hoa tươi thắm nở đầy bên sông.
Nước non rờ rỡ xuân dung,
Rồng bay cá nhẩy trong vòng trời Nghiêu.
Đè sương thuyền ngự veo veo,
Tinh kỳ phấp phới theo chiều gió mai.
Xe loan phận mọn theo đòi,
Bốn phương mừng thấy nơi nơi thái hòa.
Phiên âm Hán-Việt:
Xuân tảo
Ngật tọa niêm hương vạn niệm hy,
Vi biên độc bãi tưởng thiên ky.
Nguyên minh hiểu viện hoa do thấp,
Phong tống hàn canh liễu bất phi.
Trúc Khê dịch thơ:
Sớm xuân
Đốt hương lòng lặng như tờ,
Đọc xong Kinh Dịch ngồi mơ sự trời.
Trăng tàn hoa đẫm sương rơi,
Liễu trong gió sớm không hơi động cành.

Sách tham khảo

Chú thích

  1. ^ Đại Việt thông sử (bản dịch, tr. 150). Chú thích: Đông Bình tức Đông Bình vương, con trai của vua Hán Quang VũTrung Quốc. Đông Bình ham làm việc thiện, có câu nói nổi tiếng là: "Làm việc thiện là điều vui sướng nhất" (vi thiện tối lạc). Hà Gian tức Hà Gian Hiến vương, tên thật là Đức, con vua Hán Cảnh ĐếTrung Quốc. Ông ham học tập và sưu tầm sách cổ.
  2. ^ Theo bài viết “Thăm mộ nhà thơ Phúc Vương Tranh” của Trúc Khê, tr. 574-575.
  3. ^ Trúc Khê, bài viết đã dẫn, tr. 573.