Bước tới nội dung

Đại Quốc hội Thổ Nhĩ Kỳ

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Đại Quốc hội Thổ Nhĩ Kỳ
Türkiye Büyük Millet Meclisi
Huy hiệu hoặc biểu trưng
Dạng
Mô hình
Một viện
Lãnh đạo
Số ghế550
Trụ sở
Tòa nhà Hội nghị Đại quốc dân, Ankara, Thổ Nhĩ Kỳ
Trang web
http://www.tbmm.gov.tr/english/english.htm
Thổ Nhĩ Kỳ

Chính trị và chính phủ
Thổ Nhĩ Kỳ


Các nước khác

Đại Quốc hội Thổ Nhĩ Kỳ (tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: Türkiye Büyük Millet Meclisi, viết tắt là TBMM) thường được gọi đơn giản là Quốc hội (Meclis), là cơ quan lập pháp một viện của Thổ Nhĩ Kỳ, thực hiện quyền lập pháp theo quy định của Hiến pháp Thổ Nhĩ Kỳ. Đại Quốc hội được thành lập ở Ankara vào ngày 23 tháng 4 năm 1920 trong Chiến tranh Độc lập Thổ Nhĩ Kỳ, là mấu chốt cơ bản trong nỗ lực của Mustafa Kemal Atatürk để thành lập một nhà nước mới từ tàn tích của Đế quốc Ottoman sau Chiến tranh thế giới thứ nhất.

Đại Quốc hội gồm 550 đại biểu được bầu ra từ 85 khu vực bầu cử đại diện cho 81 tỉnh (Istanbul được chia ra thành 3 khu vực bầu cử, Ankaraİzmir được chia ra mỗi nơi thành hai khu vực bầu cử vì những thành phố này có dân số lớn) theo chế độ đại diện tỷ lệ liên danh đảng, sử dụng phương pháp d'Hondt. Nhiệm kỳ của mỗi khóa Đại Quốc hội là 5 năm. Để tránh trường hợp quốc hội treo và sự chia rẽ chính trị thái quá, chỉ những đảng giành được ít nhất 7% số phiếu bầu trong cuộc bầu cử mới được trúng cử vào quốc hội. Kết quả là chỉ có hai đảng có thể giành được quyền đại diện này trong quốc hội trong các cuộc bầu cử năm 2002 và có 3 đảng trong cuộc bầu của năm 2007.[1] Các ứng viên độc lập có thể đứng ra tranh cử nhưng phải giành ít nhất 10% số phiếu bầu ở đơn vị bầu cử của mình.[2] Ngưỡng bầu cử cao này đã bị quốc tế phê phán nhưng một bản khiếu nại với Tòa án Nhân quyền châu Âu đã bị bác bỏ.

Kể từ cuộc tổng tuyển cử năm 2002, Đảng Công lý và Phát triển chiếm đa số tuyệt đối trong Đại Quốc hội, là đảng cầm quyền lãnh đạo một chính phủ một đảng.[3] Đảng Nhân dân Cộng hòa là đảng duy nhất ngoài Đảng Công lý và Phát triển giành được ghế trong Đại Quốc hội vào năm 2002. Đến ngày 1 tháng 7 năm 2007, có 7 đảng trong quốc hội và có 9 đại biểu không đảng phái do từ chức hoặc chuyển giao nhưng Đảng Nhân dân Cộng hòa vẫn là đảng đối lập lớn nhất. Trong cuộc bầu cử năm 2007, 3 đảng giành được ngưỡng 10%: Đảng Công lý và Phát triển, Đảng Nhân dân Cộng hòa, và Đảng Hành động Dân tộc. Ngoài ra, các chính trị gia người Kurd từ Đảng Xã hội Dân chủ đã phá vỡ ngưỡng này bằng cách tham gia cuộc bầu cử với tư cách độc lập và 24 người trong số này đã được bầu.

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Roger Hardy (ngày 4 tháng 11 năm 2002). “Turkey leaps into the unknown”. British Broadcasting Corporation. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2006.
  2. ^ Turkish Directorate General of Press and Information (ngày 24 tháng 8 năm 2004). “Political Structure of Turkey”. Turkish Prime Minister's Office. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 10 năm 2006. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2006.
  3. ^ “Turkey's old guard routed in elections”. British Broadcasting Corporation. ngày 4 tháng 11 năm 2002. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2006.