I-180 (tàu ngầm Nhật)
Tàu ngầm chị em I-176, một chiếc lớp Kaidai VII tiêu biểu
| |
Lịch sử | |
---|---|
Đế quốc Nhật Bản | |
Tên gọi | I-180 |
Đặt hàng | 1939 |
Xưởng đóng tàu | Xưởng vũ khí Hải quân Yokosuka, Yokosuka |
Đặt lườn | 17 tháng 4, 1941 (như là chiếc I-80) |
Hạ thủy | 7 tháng 2, 1942 |
Đổi tên | I-180, 20 tháng 5, 1942 |
Nhập biên chế | 15 tháng 1, 1943 |
Số phận | Bị đánh chìm 26 tháng 4, 1944 |
Xóa đăng bạ | 10 tháng 7, 1944 |
Đặc điểm khái quát | |
Lớp tàu | tàu ngầm lớp Kaidai (Kiểu VII) |
Trọng tải choán nước | |
Chiều dài | 105,5 m (346 ft 2 in) |
Sườn ngang | 8,25 m (27 ft 1 in) |
Mớn nước | 4,6 m (15 ft 1 in) |
Công suất lắp đặt |
|
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ |
|
Tầm xa | |
Độ sâu thử nghiệm | 80 m (260 ft) |
Thủy thủ đoàn tối đa | 86 sĩ quan và thủy thủ |
Vũ khí |
|
I-180 (nguyên mang tên I-80) là một tàu ngầm tuần dương Lớp Kaidai thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào đầu năm 1943. Nó đã hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, hoạt động tuần tra tại vùng biển Australia, tham gia các chiến dịch tại quần đảo Solomon cũng như tại khu vực Bắc Thái Bình Dương, cho đến khi bị tàu hộ tống khu trục USS Gilmore đánh chìm gần đảo Chirikof, Alaska vào ngày 26 tháng 4, 1944.
Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]
Thiết kế[sửa | sửa mã nguồn]
Phân lớp tàu ngầm Kaidai VII là phiên bản tàu ngầm tấn công tầm trung được phát triển dựa trên phân lớp Kaidai VI. Chúng có trọng lượng choán nước 1.862 tấn (1.833 tấn Anh) khi nổi và 2.648 tấn (2.606 tấn Anh) khi lặn, lườn tàu có chiều dài 105,5 m (346 ft 2 in), mạn tàu rộng 8,25 m (27 ft 1 in) và mớn nước sâu 4,6 m (15 ft 1 in). Con tàu có thể lặn sâu 80 m (262 ft) và có một thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 86 sĩ quan và thủy thủ.[2]
Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất 4.000 mã lực phanh (2.983 kW), mỗi chiếc vận hành một trục chân vịt. Khi lặn, mỗi trục được vận hành bởi một động cơ điện 900 mã lực (671 kW).Con tàu có thể đạt tốc độ tối đa 23 hải lý trên giờ (43 km/h; 26 mph) khi nổi[1] và 8 hải lý trên giờ (15 km/h; 9,2 mph) khi lặn.[1] Khi Kaidai VII di chuyển trên mặt nước nó đạt tầm xa hoạt động 8.000 hải lý (15.000 km; 9.200 mi) ở tốc độ 16 hải lý trên giờ (30 km/h; 18 mph),[1] và có thể lặn xa 50 nmi (93 km; 58 mi) ở tốc độ 5 hải lý trên giờ (9,3 km/h; 5,8 mph).[1][3]
Lớp Kaidai VII có sáu ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21,0 in), tất cả đều được bố trí trước mũi, và mang tổng cộng 12 ngư lôi. Vũ khi trên boong tàu thoạt tiên dự định bao gồm hai khẩu pháo phòng không 25 mm (1,0 in) Kiểu 96 nòng đôi, nhưng sau đó một hải pháo 12 cm (4,7 in) chống hạm thay chỗ cho một khẩu đội 25mm.[4]
Chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]
Được đặt hàng trong khuôn khổ Chương trình Vũ trang Hải quân Bổ sung thứ tư năm 1939, nhưng nó chỉ được đặt lườn như I-80 tại Xưởng vũ khí Hải quân Yokosuka ở Yokosuka vào ngày 17 tháng 4, 1941.[5][6] Nó được hạ thủy vào ngày 7 tháng 2, 1942,[5][6] rồi được đổi tên thành I-180 vào ngày 20 tháng 5, 1942[5][6] và nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào ngày 15 tháng 1, 1943.[5][6]
Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]
Lúc 22 giờ 30 phút ngày 25 tháng 4, tàu hộ tống khu trục USS Gilmore phát hiện qua radar một tàu ngầm đang di chuyển trên mặt nước ở khoảng cách 8.000 yd (7,3 km), tại vị trí cách đảo Chirikof, Alaska 50 mi (80 km) về phía Tây Nam. Khi bị truy lùng, chiếc tàu ngầm đã lặn khẩn cấp để né tránh, và trong suốt ba giờ tiếp theo Gilmore bắn ra ba loạt súng cối chống tàu ngầm Hedgehog Mark 10 nhưng không đem lại kết quả. Sang 00 giờ 23 phút ngày hôm sau, Gilmore thả một loạt 13 quả mìn sâu nhưng vẫn không trúng đích. Sau khi loạt 13 quả mìn sâu thứ hai được thả lúc 01 giờ 07 phút, một tiếng nổ lớn nghe thấy năm phút sau đó gây chấn động chiếc tàu khu trục,[6] I-180 đắm tại tọa độ 55°9′57″B 155°40′0″T / 55,16583°B 155,66667°T. Đến ngày 20 tháng 5, nó được xem là bị mất với tổn thất nhân mạng toàn bộ,[5][6] và tên nó được cho rút khỏi danh sách đăng bạ hải quân vào ngày 10 tháng 7, 1944.[5][6]
Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]
Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]
- ^ a b c d e f g h Jentschura 1976, tr. 172
- ^ Carpenter & Polmar 1986, tr. 105
- ^ Chesneau 1980, tr. 199
- ^ Bagnasco 1977, tr. 183, 186
- ^ a b c d e f “I-180 ex. I-80 ex No-158”. ijnsubsite.com. 9 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2024.
- ^ a b c d e f g Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (2 tháng 9 năm 2015). “IJN Submarine I-180: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2024.
Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]
- Bagnasco, Erminio (1977). Submarines of World War Two. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 0-87021-962-6.
- Carpenter, Dorr B. & Polmar, Norman (1986). Submarines of the Imperial Japanese Navy 1904–1945. London: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-396-6.
- Chesneau, Roger biên tập (1980). Conway's All the World's Fighting Ships 1922–1946. Greenwich, UK: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-146-7.
- Jentsura, Hansgeorg (1976). Warships of the Imperial Japanese Navy, 1869-1945. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 0-87021-893-X.
Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]
- Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (2015). “IJN Submarine I-180: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2024.