I-5 (tàu ngầm Nhật)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tàu ngầm I-5 vào năm 1932
Lịch sử
Đế quốc Nhật Bản
Tên gọi I-5
Xưởng đóng tàu Kawasaki Dockyard Co., Kobe
Đặt lườn 30 tháng 10, 1929
Hạ thủy 19 tháng 6, 1931
Hoàn thành 31 tháng 7, 1932
Xóa đăng bạ 10 tháng 9, 1944
Số phận Bị đánh chìm 19 tháng 7, 1944
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu tàu ngầm lớp Junsen 1 Cải tiến
Trọng tải choán nước
  • 2.243 tấn Anh (2.279 t) (nổi) [1]
  • 2.921 tấn Anh (2.968 t) (lặn) [1]
Chiều dài 97,50 m (319 ft 11 in)[1]
Sườn ngang 9,22 m (30 ft 3 in)[1]
Chiều cao 7,58 m (24 ft 10 in)[1]
Mớn nước 4,94 m (16 ft 2 in)[1]
Công suất lắp đặt
Động cơ đẩy
Tốc độ
Tầm xa
  • 24.000 nmi (44.000 km) ở tốc độ 10 kn (19 km/h; 12 mph) (nổi) [1]
  • 60 nmi (110 km) ở tốc độ 3 kn (5,6 km/h; 3,5 mph) (ngầm)
Tầm hoạt động 580 tấn nhiên liệu
Độ sâu thử nghiệm 80 m (260 ft)[1]
Số tàu con và máy bay mang được 1 x xuồng đổ bộ Daihatsu 46 ft (14 m) (bổ sung năm 1942)
Thủy thủ đoàn tối đa 93 sĩ quan và thủy thủ[1]
Vũ khí
Máy bay mang theo 1 × thủy phi cơ Yokosuka E6Y,
Hệ thống phóng máy bay 1 × máy phóng (bổ sung năm 1938, tháo dỡ năm 1940)

I-5 là chiếc tàu ngầm mang máy bay đầu tiên của Hải quân Đế quốc Nhật Bản và đã hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Là chiếc duy nhất trong phân lớp Junsen 1 Cải tiến (巡潜一型改?), nó được hạ thủy tại xưởng tàu của hãng Kawasaki tại Kobe vào ngày 19 tháng 6, 1931. Thoạt tiên mang theo một thủy phi cơ Yokosuka E6Y, nó được bổ sung một máy phóng vào năm 1933, nhưng tính năng mang máy bay bị tháo dỡ bảy năm sau đó và con tàu được tái cấu trúc như một tàu ngầm tấn công. I-5 từng hoạt động trong cuộc Chiến tranh Trung-Nhật, hỗ trợ cho cuộc tấn công Trân Châu Cảng, càn quét tàu bè tại Ấn Độ Dương, và tham gia các chiến dịch quần đảo AleutNew Guinea. Con tàu mất tích vào năm 1944, rất có thể đã bị tàu hộ tống khu trục Hoa Kỳ USS Wyman đánh chìm tại vùng biển quần đảo Mariana vào ngày 19 tháng 7.

Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Thiết kế[sửa | sửa mã nguồn]

Trong giai đoạn sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất, Hải quân Đế quốc Nhật Bản nhìn thấy tiềm năng của một tàu ngầm mang máy bay, với những nghiên cứu thử nghiệm đầu tiên được bắt đầu tại căn cứ Yokosuka từ năm 1924.[3] Khái niệm này yêu cầu một tàu ngầm có kích thước lớn hơn các tàu ngầm tuần dương đang có sẵn, có khả năng phóng một thủy phi cơ trinh sát, nên cuối cùng phân lớp lớp Junsen 1 Cải tiến được phát triển dựa trên phân lớp Junsen 1 (巡潜一型?).[4]

Chiếc tàu ngầm có kích thước tương tự như phân lớp Junsen 1 dẫn trước và có trọng lượng choán nước lớn hơn, 2.279 tấn (2.243 tấn Anh) khi nổi và 2.968 tấn (2.921 tấn Anh) khi lặn.[5] Nó có chiều dài 97,5 mét (319 ft 11 in), mạn thuyền rộng 9,22 m (30 ft 3 in) và mớn nước 4,94 m (16 ft 2 in). Động lực được cung cấp bởi hai động cơ diesel công suất 3.000 mã lực phanh (2.237 kW), vận hành hai trục chân vịt để di chuyển trên mặt nước với tốc độ tối đa 18,8 hải lý trên giờ (34,8 km/h; 21,6 mph). Chúng cũng dùng để nạp lại điện cho ắc-quy để lặn dưới nước. Khi lặn, động lực được cung cấp bởi hai động cơ điện công suất 2.600 bhp (1.939 kW) và đạt tốc độ tối đa 8,1 hải lý trên giờ (15,0 km/h; 9,3 mph).[6] Với 589 tấn (580 tấn Anh) nhiên liệu dầu diesel mang theo, nó có tầm xa hoạt động 24.000 hải lý (44.000 km; 28.000 mi) ở tốc độ đường trường 10 hải lý trên giờ (19 km/h; 12 mph) trên mặt nước. Khi lặn, nó có thể di chuyển60 hải lý (110 km; 69 mi) ở tốc độ 3 hải lý trên giờ (5,6 km/h; 3,5 mph). Con tàu có thể lặn sâu đến 80 m (260 ft), và thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 93 sĩ quan và thủy thủ.[4] Ngoài ra, kích thước lớn cho phép chiếc tàu ngầm hoạt động như một soái hạm.[7]

Vũ khí chính tương tự như phân lớp Junsen 1, bao gồm sáu ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in) bên trong, tất cả được bố trí phía mũi tàu.[6] Nó mang theo tổng cộng 20 quả ngư lôi, [8] và vào khoảng năm 1931 Hải quân Nhật đưa vào hoạt động ngư lôi Kiểu 89 mới, có đầu đạn nặng 300 kilôgam (660 lb) và đạt tầm xa 5.500 mét (18.045 ft) ở tốc độ 45 hải lý trên giờ (83 km/h; 52 mph).[8] Ngư lôi Kiểu 89 được sử dụng cho đến đầu Thế Chiến II, khi nó được thay thế bởi ngư lôi Kiểu 95. có đầu đạn nặng 405 kilôgam (893 lb) và đạt tầm xa 12.000 mét (39.370 ft) ở tốc độ 47 hải lý trên giờ (87 km/h; 54 mph).[9]

Sàn tàu được lắp một hải pháo 14 cm (5,5 in) 40 calibre Kiểu năm thứ 11, bắn ra đạn pháo nặng 38 kg (84 lb) xa 1.600 mét (5.249 ft) với tốc độ năm phát mỗi phút.[10] Để phòng không, một súng máy 7,7 mm (0,30 in) được bố trí trên tháp chỉ huy.[11]

Một thủy phi cơ trinh sát Yokosuka E6Y mang theo được tháo rời và chứa trong hai khoang kín nước hai bên mạn phía sau tháp chỉ huy.[7] Cánh máy bay trong một khoang, và thân máy bay cùng phao nổi trong khoang còn lại.[12] Để vận hành máy bay, chiếc tàu ngầm phải dừng lại, mở các khoang chứa, lắp ráp các thành phần rồi thả máy bay xuống nước để cất cánh. Trong huấn luyện, đây là một quá trình kéo dài khi chiếc tàu ngầm dễ bị tổn thương do đối phương tấn công. Sau này một máy phóng được bổ sung để tăng tầm xa hoạt động và rút ngắn thời gian triển khai, nhưng lại kéo dài thời gian lắp ráp đưa máy bay lên máy phóng.[3]

Chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

I-5 được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Kawasaki tại Kobe vào ngày 30 tháng 10, 1929.[13][14] Nó được hạ thủy vào ngày 19 tháng 6, 1931,[13][14] rồi hoàn tất và nhập biên chế vào ngày 31 tháng 7, 1932.[13][14][15]

Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

1932 - 1937[sửa | sửa mã nguồn]

Vào lúc nhập biên chế, I-5 được phân về Quân khu Hải quân Yokosuka, và tiến hành huấn luyện và thử nghiệm cho đến năm 1933, khi nó được bổ sung một máy phóng. Trong giai đoạn giữa tháng 2tháng 7, 1936, khẩu hải pháo 14 cm trên boong tàu được tạm thời thay thế bằng một khẩu hải pháo Kiểu 89 12,7 cm (5 in) đa dụng (chống hạm và phòng không).[11]

Chiến tranh Trung-Nhật[sửa | sửa mã nguồn]

Chiến tranh Trung-Nhật bùng nổ sau khi xảy ra sự kiện Lư Câu Kiều (cầu Marco Polo) vào ngày 7 tháng 7, 1937. Đến tháng 9, 1937, Hải đội Tàu ngầm 1, bao gồm các tàu ngầm I-1, I-2, I-3, I-4, I-5I-6,[16] được điều sang Đệ Tam hạm đội và phối thuộc cùng Hạm đội khu vực Trung Quốc để hoạt động tại vùng biển Trung Quốc.[16] Hải đội đã được phái đến căn cứ tại Hong Kong cùng với các tàu tiếp liệu tàu ngầm ChōgeiTaigei vào tháng 9, 1937.[16] Từ căn cứ này, các tàu ngầm tham gia phong tỏa Trung Quốc và tuần tra dọc bờ biển phía Đông và phía Nam Trung Quốc.[16]

Từ ngày 21 tháng 8 đến ngày 23 tháng 8, 1937, cả sáu chiếc tàu ngầm thuộc Hải đội Tàu ngầm 1 đã hoạt động trong biển Hoa Đông như lực lượng bảo vệ từ xa cho các thiết giáp hạm Nagato, Mutsu, HarunaKirishima cùng tàu tuần dương hạng nhẹ Isuzu làm nhiệm vụ vận chuyển binh lính từ Tadotsu, Shikoku đến Thượng Hải, Trung Quốc.[14] Hải đội Tàu ngầm 1 đặt căn cứ tại Hong Kong cho đến mùa Thu năm 1938.[16] Trong một nỗ lực nhằm giảm căng thẳng trong quan hệ quốc tế do cuộc xung đột với Trung Quốc, Nhật Bản cho rút lực lượng tàu ngầm của họ khỏi vùng biển Trung Quốc từ tháng 12, 1938.[16]

1938 - 1941[sửa | sửa mã nguồn]

Vào năm 1940, I-5 được cho xuất biên chế để tái trang bị. Bởi các tàu ngầm sân bay hiện đại hơn thuộc Type A (Kō)Type B (Otsu) được đưa vào hoạt động, các thiết bị máy bay kém hiện đại hơn của I-5 trở nên vô dụng. Vì vậy trong đợt đại tu, những thiết bị này được tháo dỡ, và lắp đặt một khẩu hải pháo trên sàn phía sau tháp chỉ huy.[17] Đồng thời một khẩu pháo Type 96 25 mm (1 in) phòng không được bổ sung trên cầu tàu được mở rộng.[12] Chiếc tàu ngầm quay trở lại hoạt động như một tàu ngầm tấn công.[11]

Trận Trân Châu Cảng[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Ghi chú[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e f g h i j k l m n o “Type J1M”. combinedfleet.com. 2016. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2024.
  2. ^ Campbell (1985), tr. 191.
  3. ^ a b Boyd & Yoshida 2002, tr. 21.
  4. ^ a b Bagnasco 1977, tr. 181.
  5. ^ Boyd & Yoshida 2002, tr. 22.
  6. ^ a b Carpenter & Polmar 1986, tr. 91.
  7. ^ a b Stille 2007, tr. 12.
  8. ^ a b Campbell 1985, tr. 204.
  9. ^ Campbell 1985, tr. 208.
  10. ^ Campbell 1985, tr. 190.
  11. ^ a b c Chesneau 2001, tr. 199.
  12. ^ a b Bagnasco 1977, tr. 182.
  13. ^ a b c “I-5”. ijnsubsite.com. 18 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2024.
  14. ^ a b c d Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (2012). “IJN Submarine I-5: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2024.
  15. ^ Carpenter & Polmar 1986, tr. 95.
  16. ^ a b c d e f Boyd & Yoshida (1995), tr. 54.
  17. ^ Boyd & Yoshida 2002, tr. 54.

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]

  • Bagnasco, Erminio (1977). Submarines of World War Two. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 978-0-85368-331-5.
  • Boyd, Carl; Yoshida, Akihiko (2002). The Japanese Submarine Force and World War II. Annapolis: Naval Institute Press. ISBN 978-1-55750-015-1.
  • Campbell, John (1985). Naval Weapons of World War II. London: Conway Maritime Press. ISBN 978-0-85177-329-2.
  • Carpenter, Dorr B.; Polmar, Norman (1986). Submarines of the Imperial Japanese Navy 1904–1945. London: Conway Maritime Press. ISBN 978-0-85177-396-4.
  • Chesneau, Roger biên tập (2001). Conway's All the World's Fighting Ships 1922–1946. London: Conway Maritime Press. ISBN 978-0-85177-146-5.
  • Cresswell, Robert J. (2016). The Official Chronology of the U.S. Navy in World War II. Annapolis: Naval Institute Press. ISBN 978-1-59114-638-4.
  • Goldstein, Donald M.; Dillon, Katherine V. (2004). The Pacific War Papers: Japanese Documents of World War II. Washington: Potomac Books. ISBN 978-1-57488-632-0.
  • Hashimoto, Mochitsura (1954). Sunk; The Story of the Japanese Submarine Fleet, 1941-1945. London: Cassell. OCLC 62412615.
  • Silverstone, Paul (2008). The Navy of World War II, 1922-1947. London: Routledge. ISBN 978-0-41597-898-9.
  • Stille, Mark (2007). Imperial Japanese Navy Submarines 1941–45. Oxford: Osprey. ISBN 978-1-84603-090-1.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]