Bước tới nội dung

USS Tuna (SS-203)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tàu ngầm USS Tuna (SS-203) trên đường đi trong vịnh San Francisco, ngày 10 tháng 3 năm 1941
Lịch sử
Hoa Kỳ
Tên gọi USS Tuna (SS-203)
Đặt tên theo cá ngừ đại dương [1]
Xưởng đóng tàu Xưởng hải quân Mare Island, Vallejo, California [2]
Đặt lườn 19 tháng 7, 1939 [2]
Hạ thủy 2 tháng 10, 1940 [2]
Người đỡ đầu bà Wilhelm L. Friedell
Nhập biên chế 2 tháng 1, 1941 [2]
Xuất biên chế 11 tháng 12, 1946 [2]
Xóa đăng bạ 21 tháng 10, 1948 [3]
Danh hiệu và phong tặng 7 × Ngôi sao Chiến trận [1][4]
Số phận
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Lớp Tambor[3]
Kiểu tàu tàu ngầm Diesel-điện [3]
Trọng tải choán nước
  • 1.475 tấn Anh (1.499 t) (mặt nước)[5]
  • 2.370 tấn Anh (2.410 t) (lặn)[5]
Chiều dài 307 ft 2 in (93,62 m) [5]
Sườn ngang 27 ft 3 in (8,31 m) [5]
Mớn nước 14 ft 8 in (4,47 m) tối đa [5]
Động cơ đẩy
Tốc độ
  • 20,4 hải lý trên giờ (38 km/h) (mặt nước) [5]
  • 8,75 hải lý trên giờ (16,21 km/h) (lặn) [5]
Tầm xa 11.000 hải lý (20.000 km) trên mặt nước ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h)[5]
Tầm hoạt động
  • 48 giờ lặn ở tốc độ 2 hải lý trên giờ (3,7 km/h)[5]
  • tuần tra 75 ngày [8]
Độ sâu thử nghiệm
  • 250–300 ft (80–90 m)
  • độ sâu bị ép vỡ khoảng 500 ft (150 m)[5]
Thủy thủ đoàn tối đa 6 sĩ quan, 54 thủy thủ[5]
Vũ khí

USS Tuna (SS-203) là một tàu ngầm lớp Tambor được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên loài cá ngừ đại dương.[1] Nó đã phục vụ trong suốt Thế Chiến II, thực hiện tổng cộng mười ba chuyến tuần tra và đánh chìm bốn tàu Nhật Bản với tổng tải trọng 14.986 tấn.[9] Con tàu được rút khỏi hoạt động nơi tuyến đầu vào đầu năm 1945 để làm nhiệm vụ huấn luyện cho đến khi chiến tranh kết thúc. Nó được sử dụng làm mục tiêu thử nghiệm bom nguyên tử tại đảo Bikini, rồi xuất biên chế vào cuối năm 1946. Con tàu cuối cùng bị đánh chìm như một mục tiêu ngoài khơi California vào năm 1948. Tuna được tặng thưởng bảy Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.

Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Lớp Tambor có nhiều đặc tính được cải tiến so với tàu ngầm lớp Sargo dẫn trước. Hình dạng thân tàu được làm suôn thẳng hơn để đạt tốc độ nhanh hơn, và thùng lặn khẩn cấp được trang bị lại giúp con tàu lặn xuống nhanh hơn. Hệ thống động lực toàn diesel-điện được áp dụng, và giải quyết được sự cố chập mạch trước đây. Nó trang bị động cơ Fairbanks-Morse Kiểu 38D8-⅛ 9-xy lanh chuyển động đối xứng, dẫn động máy phát điện, và động cơ điện kết nối với trục chân vịt qua hộp số giảm tốc.[10]

Lần đầu tiên đối với tàu ngầm Hoa Kỳ, lớp Tambor có đến mười ống phóng ngư lôi gồm sáu trước mũi và bốn phía đuôi. Hiệu quả tác chiến được cải thiện nhờ bố trí lại người vận hành sonarmáy tính dữ liệu ngư lôi vào một tháp chỉ huy lớn hơn, cho phép trao đổi trực tiếp với hạm trưởng, cùng một kính tiềm vọng kiểu mới có đầu nhỏ hơn giúp khó bị phát hiện.[11][12] Thoạt tiên được chỉ được trang bị pháo 3 in (76 mm)/50 caliber, boong tàu được gia cố sẵn đủ để lắp đặt pháo cỡ 5 in (130 mm)/51 caliber khi tình huống tác chiến đòi hỏi; nên trong đợt đại tu vào cuối năm 1942, Tuna được nâng cấp lên cỡ pháo 5-inch.[13]

Tuna được đặt lườn tại Xưởng hải quân Mare IslandVallejo, California vào ngày 19 tháng 7, 1939. Nó được hạ thủy vào ngày 2 tháng 10, 1940, được đỡ đầu bởi bà Wilhelm L. Friedell, và được cho nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 2 tháng 1, 1941 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân John Jarvis Crane.[1][4][14]

Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

1941[sửa | sửa mã nguồn]

Rời San Diego, California vào ngày 19 tháng 5, 1941, Tuna đi sang vùng biển quần đảo Hawaii để chạy thử máy và huấn luyện. Khi phát hiện các ống phóng ngư lôi bị lệch, nó quay trở lại Xưởng hải quân Mare Island để sửa chữa. Chiếc tàu ngầm đang ở trong ụ tàu tại Mare Island khi Hải quân Đế Quốc Nhật Bản bất ngờ tấn công căn cứ Trân Châu Cảng vào ngày 7 tháng 12 khiến chiến tranh bùng nổ tại Mặt trận Thái Bình Dương. Nó quay trở lại Trân Châu Cảng vào ngày 7 tháng 1, 1942. [1]

1942[sửa | sửa mã nguồn]

Chuyến tuần tra thứ nhất[sửa | sửa mã nguồn]

Trong chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh từ ngày 26 tháng 1 đến ngày 21 tháng 3, 1942, Tuna hoạt động tại khu vực biển Hoa Đông. Ngoài khơi đảo Kyūshū vào ngày 4 tháng 3, nó đã phóng ngư lôi tấn công, tự nhận đã đánh chìm một tàu buôn khoảng 6.000 tấn tại tọa độ 32°33′B 133°26′Đ / 32,55°B 133,433°Đ / 32.550; 133.433.[15] Nó cũng cho là đã có thể đã đánh chìm một tàu khu trục đồng thời gây hư hại cho hai tàu buôn khoảng 2.000 tấn khác. Tuy nhiên tài liệu thu được sau chiến tranh từ phía Nhật Bản không thể xác nhận các chiến công này.[14][1]

Chuyến tuần tra thứ hai[sửa | sửa mã nguồn]

Tuna lại khởi hành từ Trân Châu Cảng vào ngày 14 tháng 4 cho chuyến tuần tra thứ hai thứ hai ngoài khơi đảo Honshū, Nhật Bản. Vào ngày 15 tháng 5, ở vị trí cách 65 nmi (120 km) ngoài khơi đảo Sohuksando, Triều Tiên, nó phóng ngư lôi đánh chìm tàu buôn Toyohara Maru (805 tấn) tại tọa độ 33°34′B 125°09′Đ / 33,567°B 125,15°Đ / 33.567; 125.150.[15][14][16] Nó kết thúc chuyến tuần tra và quay trở về Trân Châu Cảng vào ngày 16 tháng 6.[1]

Chuyến tuần tra thứ ba[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi được tái trang bị, Tuna lên đường vào ngày 13 tháng 7 trong thành phần Đơn vị Đặc nhiệm 8.5.12, để hoạt động tại khu vực quần đảo Aleut. Trong chuyến tuần tra thứ ba này, nó bắt gặp một tàu ngầm đối phương đang đi trên mặt nước vào ngày 9 tháng 8, nhưng mục tiêu lẫn khuất trong làn sương mù dày đặc, là đặc trung của khu vực Bắc Thái Bình Dương này. Sau đó Tuna hỗ trợ cho việc chiếm đóng đảo Adak khi vận chuyển một đại tá và sáu binh lính từ Dutch Harbor, Alaska đến vịnh Kuluk từ ngày 25 đến ngày 27 tháng 8. Nó quay trở về Trân Châu Cảng vào ngày 5 tháng 9.[14][1]

Chuyến tuần tra thứ tư[sửa | sửa mã nguồn]

Sau một đợt đại tu thường lệ tại Xưởng hải quân Trân Châu Cảng, Tuna lên đường vào ngày 9 tháng 11 cho chuyến tuần tra thứ tư tại vùng biển Solomon. Nó bắt gặp một tàu khu trục đối phương ngoài khơi đảo New Georgia vào ngày 12 tháng 12, phóng hai quả ngư lôi tấn công mục tiêu, nhưng tất cả đều trượt. Đến ngày 28 tháng 12, chiếc tàu ngầm về đến căn cứ mới tại Brisbane, Australia.[14][1]

1943[sửa | sửa mã nguồn]

Chuyến tuần tra thứ năm[sửa | sửa mã nguồn]

Khởi hành vào ngày 18 tháng 1, 1943 cho chuyến tuần tra thứ năm, Tuna đi đến vùng phía Đông đảo Vella LaVella sáu ngày sau đó. Chiếc tàu ngầm tung ra năm lượt tấn công vào ban ngày, tiêu phí mất 16 quả ngư lôi mà không đánh chìm được mục tiêu nào mà còn phải lặn sâu để né tránh đối phương phản công. Nó có thêm một lượt tấn công khác vào ngày 11 tháng 2 tại khu vực giữa các đảo New IrelandBuka, nhưng vẫn không trúng đích. Con tàu được điều sang tuần tra dọc tuyến hàng hải giữa KolombangaraMunda, vận may vẫn chưa đến và nó tiếp tục phải lẫn tránh mìn sâu tư đối phương. Tuna kết thúc chuyến tuần tra tại Brisbane vào ngày 17 tháng 2.[14][1]

Chuyến tuần tra thứ sáu[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi được tái trang bị tại Brisbane, Tuna khởi hành vào ngày 4 tháng 3 cho chuyến tuần tra thứ sáu tại khu vực quần đảo Bismarck ở phía Đông Bắc đảo New Ireland. Trên đường đi, nó trinh sát bờ biển phía Tây đảo Bougainville, rồi đến ngày 16 tháng 3 được lệnh chuyển sang tuần tra tại khu vực giữa các đảo MussauManus thuộc quần đảo Admiralty. Xế trưa ngày 29 tháng 3, nó phát hiện một đoàn bốn tàu buôn được hai tàu vũ trang và hai máy bay hộ tống, và tiếp tục theo dõi qua đêm. Đến 07 giờ 50 phút sáng ngày hôm sau, nó phóng ba quả ngư lôi tấn công mục tiêu lớn nhất, và hai quả trúng đích đã đánh chìm Kurohime Maru (4.697 tấn) về phía Đông Bắc đảo Manus, tại tọa độ 00°35′B 147°55′Đ / 0,583°B 147,917°Đ / 0.583; 147.917; 27 hành khách cùng chín thủy thủ đã thiệt mạng cùng con tàu.[15][14][17] Sang ngày 4 tháng 4, Tuna chuyển sang tuần tra tại khu vực phía Tây Bắc Manus-Mussau, trên tuyến hàng hải dẫn đến Rabaul. Không tìm thấy mục tiêu nào có giá trị, nó kết thúc chuyến tuần tra và về đến Brisbane vào ngày 20 tháng 4.[14][1]

Chuyến tuần tra thứ bảy[sửa | sửa mã nguồn]

Trong chuyến tuần tra thứ bảy, vào ngày 19 tháng 5, Tuna bị một tàu ngầm đối phương tấn công bằng một quả ngư lôi, nhưng đã né tránh được. Nó chuẩn bị bắn phá đảo Wakde, Papua New Guinea, nhưng sự xuất hiện của những tàu săn ngầm buộc nó phải hủy bỏ kế hoạch.[1]

Chuyến tuần tra thứ tám[sửa | sửa mã nguồn]

Khi Tuna khởi hành từ Brisbane vào ngày 29 tháng 7 cho chuyến tuần tra tiếp theo, một thủy phi cơ tuần tra PBY Catalina của Không quân Hoàng gia Australia đã tấn công nó trong biển Solomon ở vị trí 80 nmi (150 km) về phía Đông Bắc đảo Kiriwina và phía Bắc đảo Woodlark, tại tọa độ 08°02′B 152°07′Đ / 8,033°B 152,117°Đ / 8.033; 152.117.[18] Chiếc thủy phi cơ đã thả bốn quả mìn sâu gần con tàu, và khi Tuna lặn khẩn cấp để né tránh đến độ sâu 70–110 ft (21–34 m), quả mìn sâu phát nổ đã khiến chiếc tàu ngầm mất kiểm soát độ sâu, chìm đến 365 ft (111 m) trước khi lấy lại thăng bằng.[18] Nó nổi trở lại và bị nghiêng 18 độ sang mạn trái,[18] và những hư hỏng buộc con tàu phải quay trở lại căn cứ Brisbane để sửa chữa, trì hoãn chuyến tuần tra cho đến ngày 21 tháng 8. Trong chuyến tuần tra thứ tám này, Tuna có hai cơ hội bắt gặp mục tiêu nhưng không thể đi vào vị trí tấn công thuận lợi. Nó quay trở về căn cứ tại Fremantle, Tây Úc vào ngày 14 tháng 10, nơi nó được bảo trì cặp bên mạn tàu tiếp liệu tàu ngầm Pelias (AS-14).[1]

Chuyến tuần tra thứ chín[sửa | sửa mã nguồn]

Lên đường vào ngày 7 tháng 11 cho chuyến tuần tra thứ chín, Tuna băng qua eo biển Molucca để hoạt động tại các khu vực biển Javabiển Flores. Vào ngày 21 tháng 11, trong một cơn mưa giông, nó tấn công một tàu buôn với bốn quả ngư lôi, nhưng một quả trúng đích chưa đủ để đánh chìm đối thủ. Đến ngày 12 tháng 12, nó phóng ngư lôi đánh chìm được tàu chở hàng Tosei Maru (5.484 tấn) trong biển Flores về phía Bắc đảo Halmahera, tại tọa độ 02°44′B 126°14′Đ / 2,733°B 126,233°Đ / 2.733; 126.233.[15][14] Nó kết thúc chuyến tuần tra khi quay trở về căn cứ Trân Châu Cảng vào ngày 1 tháng 1, 1944, nhưng tiếp tục quay về vùng bờ Tây để được đại tu tại Xưởng hải quân Hunters Point, California.[14][1]

1944[sửa | sửa mã nguồn]

Chuyến tuần tra thứ mười[sửa | sửa mã nguồn]

Phần thưởng[sửa | sửa mã nguồn]

Tuna được tặng thưởng bảy Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.[1][4] Nó được ghi công đã đánh chìm chín tàu Nhật Bản với tổng tải trọng 14.986 tấn.[9]

Bản mẫu:Ribbon devices/alt
Bản mẫu:Ribbon devices/alt
Silver star
Bronze star
Bronze star
Bản mẫu:Ribbon devices/alt
Bản mẫu:Ribbon devices/alt
Dãi băng Hoạt động Tác chiến
Huân chương Chiến dịch Hoa Kỳ Huân chương Chiến dịch Châu Á-Thái Bình Dương
với 7 Ngôi sao Chiến trận
Huân chương Chiến thắng Thế Chiến II

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e f g h i j k l m n o Naval Historical Center. Tuna II (SS-203). Dictionary of American Naval Fighting Ships. Navy Department, Naval History and Heritage Command.
  2. ^ a b c d e f Friedman 1995, tr. 285–304
  3. ^ a b c d Bauer & Roberts 1991, tr. 270
  4. ^ a b c Yarnall, Paul R. “Tuna (SS-203)”. NavSource.org. Truy cập ngày 28 tháng 2 năm 2024.
  5. ^ a b c d e f g h i j k l m n Friedman 1995, tr. 305-311
  6. ^ a b c d e Bauer & Roberts 1991, tr. 270-280
  7. ^ Friedman 1995, tr. 261-263
  8. ^ a b Alden 1979, tr. 74
  9. ^ a b The Joint Army-Navy Assessment Committee. “Japanese Naval and Merchant Shipping Losses During World War II by All Causes”. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2022.
  10. ^ Friedman 1995, tr. 263, 360-361
  11. ^ Friedman 1995, tr. 196-197
  12. ^ “Tambor class, U.S. Submarine”. The Pacific War Online Encyclopedia. Truy cập ngày 21 tháng 2 năm 2024.
  13. ^ Friedman 1995, tr. 214-218
  14. ^ a b c d e f g h i j Helgason, Guðmundur. “Tuna (SS-203)”. uboat.net. Truy cập ngày 28 tháng 2 năm 2024.
  15. ^ a b c d The Joint Army-Navy Assessment Committee (tháng 2 năm 1947). “Japanese Naval and Merchant Shipping Losses During World War II by All Causes”. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2024.
  16. ^ “Toyohara Maru” (bằng tiếng Nhật). hush.gooside.com. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2024.
  17. ^ Hackett, Bob (2016). “IJN Transport KUROHIME MARU: Tabular Record of Movement”. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2024.
  18. ^ a b c Hinman & Campbell (2019), tr. 314.

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]